Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.34 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

HUỲNH TIỂU CƯƠNG

HÀNH VI NGÔN NGỮ THU HÚT SỰ CHÚ Ý
TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8229020

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Lập


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kì
cơng trình nào khác. Các cơng trình trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Quy Nhơn, tháng 7 năm 2019
Học viên

Huỳnh Tiểu Cương


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên tơi xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đối
với TS. Nguyễn Văn Lập, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q
trình nghiên cứu, hồn thành luận văn này.


Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô đã tham gia giảng dạy, những nhà
khoa học đã góp nhiều ý kiến q báu giúp tơi hồn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo Sau đại học,
Trường Đại học Quy Nhơn đã có những hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện
giúp tơi hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin cảm ơn tất cả bậc anh chị, bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã
động viên, ủng hộ và tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và
hồn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn chắc khơng tránh khỏi những
thiếu sót nhất định, vì thế tơi mong nhận được sự góp ý q báu của thầy cô và
bạn đọc.
Quy Nhơn, tháng 7 năm 2019
Học viên

Huỳnh Tiểu Cương


MỤC LỤC
••
3.2.1
3.2.2

Từ hơ hiệu - chiến lược lịch sự mang đặc trưng văn hóa phân cấp

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (Bản sao)


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

••
TT

TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

1

SP1 (Speaker 1)

Nhân vật hội thoại thứ nhất

2

SP2 (Speaker 2)

Nhân vật hội thoại thứ hai
Nguyễn Công Hoan, Tôi cũng không

3

NHC, TCKHTLS II

4

NCH, BNĐ

Nguyễn Cơng Hoan, Bữa no...địn


5

NCH, TĂC

Nguyễn Cơng Hoan, Thằng ăn cắp

6

NCH, OTRR

hiểu tại làm sao II

Nguyễn Công Hoan, Oằn tà roằn
Nguyễn Công Hoan, Người ngựa

7

NCH, NGNG

8

NCH, SVM

ngựa người
Nguyễn Cơng Hoan, Sóng vũ mơn
Nguyễn Cơng Hoan, Bước đường

9

NCH, BĐC


10

NCH, TLL

Nguyễn Cơng Hoan, Tắt lửa lịng

11

NCH, MCV

Nguyễn Cơng Hoan, Mất cái ví

cùng

Nguyễn Cơng Hoan, Anh con trai
12

NCH, ACTNBĐA

13

NCH, TTT

14

NC, ĐM

Nam Cao, Đơi mắt


15

NC, SM

Nam Cao, Sống mịn

16
17

NC, CM

Nam Cao, Con mèo

NC, CP

Nam Cao, Chí Phèo

18
19

NC, MBN

20

NC, NNTSS

NC,N

người bạn đọc ấy
Nguyễn Công Hoan, Tôi tự tử


Nam Cao, Một bữa no
Nam Cao, Nghèo
Nam Cao, Nhìn người ta sung sướng


21

NC, LH

Nam Cao, Lão Hạc
Nguyễn Trương Thiên Lý, Ván bài

22

NDTL, VBLN

23

NL, LL

24

NT, VBMT

Nguyễn Tn, Vang bóng một thời

25

HCM, TNĐL


Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập

26
27

NTT, TĐ

Ngô Tất Tố, Tắt đèn

NTT, LC

Ngơ Tất Tố, Lều chõng

28
29

TH, VCAP
TH, DMPLK

Tơ Hồi, Dế mèn phiêu lưu kí

30

NNT, CĐBT

Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận

31


UN, MBSC

Uyên Nhi, Mưa bên song cửa

32

TTBC, LL

Trần Thị Bảo Châu, Lạnh lùng

lật ngửa
Nhất Linh, Lạnh lùng

Tơ Hồi, Vợ chồng A Phủ

Nguyễn Minh Châu, Mảnh trăng cuối
33

NMC, MTCR

rừng
Nguyễn Minh Châu, Chiếc thuyền

34

NMC, CTNX

ngoài xa



7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc sống hằng ngày giao tiếp là hoạt động quan trọng và đặc biệt
của con người được thực hiện bởi phương tiện đặc biệt đó là ngơn ngữ. Nghiên
cứu cơ chế hoạt động của ngôn ngữ thông qua những hiện tượng ngôn ngữ cụ
thể trong giao tiếp là một vấn đề thời sự đối với các nhà ngôn ngữ học, nhằm
hướng tới sự hồn thiện trong việc sử dụng ngơn ngữ.
Ngơn ngữ có vai trị đặc biệt và quan trọng, là một hiện tượng xã hội đặc
biệt, là phương tiện giao tiếp và cũng chính là cầu nối đặc biệt kết nối cộng
đồng. Mỗi cá nhân muốn đạt được hiệu quả tốt trong giao tiếp cần phải hiểu và
làm chủ được ngôn ngữ của mình, bao gồm cả những quy tắc ứng xử của ngôn
ngữ. Trước đây, các nhà ngôn ngữ học chỉ chú trọng vào nghiên cứu cấu trúc
nội tại của ngôn ngữ, nghiên cứu việc sử dụng ngôn ngữ với những công thức
định sẵn. Nhưng trong thực tế cuộc sống, ngôn ngữ chỉ thật sự phát huy hết
khả năng của mình và được hiểu một cách đúng nhất khi nó được đặt trong
những hoàn cảnh cụ thể và được thực hiện trực tiếp thông qua hành vi ngôn
ngữ.
Các nhà Ngữ dụng học hiện đại đã nghiên cứu ra rằng, mọi giao tiếp bằng
ngôn ngữ đều thể hiện hành vi của người tham gia giao tiếp như: hành vi cảm
ơn, hành vi hỏi, hành vi chào hỏi, hành vi chào từ biệt, hành vi tạm biệt, hành
vi mời, hành vi thu hút sự chú ý,... mỗi hành vi ngôn ngữ đều có một nghi thức
thể hiện riêng. Sử dụng ngơn ngữ đúng với nghi thức thể hiện của nó giúp
ngơn ngữ được hiểu đúng và đạt được hiệu quả cao nhất trong giao tiếp.
Các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu và đạt được những kết quả đáng kể
về lí thuyết hành vi ngơn ngữ nói chung cũng như nghi thức lời nói tiếng Việt
nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về các hành vi ngôn ngữ vẫn chưa thật



8

sự hoàn thiện và đi sâu. Đặc biệt hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong tiếng
Việt, bước đầu đã có những nghiên cứu cơ bản nhưng vẫn chưa đi sâu vào
nghiên cứu và phân tích chi tiết. Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong tiếng
Việt là một hành vi phổ biến, xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi ở cả dạng nói và
viết. Nhưng chưa có cơng trình nghiên cứu nào thật sự đi sâu vào hành vi này,
đặc biệt chưa có cơng trình nào phân tích cụ thể cách sử dụng hành vi thu hút
sụ chú ý tạo ra phép lịch sự trong giao tiếp. Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý
thể hiện các sắc thái giao tiếp rất đa dạng dặc biệt là thái độ lịch sự với người
đối thoại. Xuất phát từ lí do đó chúng tơi chọn đề tài “Hành vi ngôn ngữ thu
hút sự chú ý trong tiếng Việt” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
2.1Mục tiêu nghiên cứu
Đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong
tiếng Việt” chúng tôi hướng tới mục tiêu:
+ Xác định biểu thức ngữ vi tương ứng với hành vi ngôn ngữ thu hút sự
chú ý. Xác định các thành tố của biểu thức ngữ vi và vai trò của chúng trong
việc biểu đạt hành vi thu hút sự chú ý.
+ Xem xét vấn đề lịch sự trong quá trình sử dụng hành vi ngôn ngữ thu
hút sự chú ý của người Việt.
2.2Đối tượng nghiên cứu
Dựa trên lí thuyết ngữ dụng học, đối tượng nghiên cứu của luận văn là
các hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong các tác phẩm văn học cụ thể,
trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đối tượng nghiên cứu là hành vi ngôn ngữ
thu hút sự chú ý được xem xét dưới góc nhìn ngữ dụng, luận văn sẽ tìm hiểu
và phân tích chi tiết ở hai phương diện hành vi ngôn ngữ và lịch sự trong giao
tiếp.



9

3. Lịch sử vấn đề
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vô cùng quan trọng trong đời sống của
con người. Để sử dụng tốt được loại phương tiện đặc biệt này các nhà nghiên
cứu đã đi sâu vào tìm hiểu các vấn đề xoay quanh ngôn ngữ từ rất lâu. Ở các
nước có nền văn hóa văn học lâu đời như Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc,... các
nhà triết gia từ trước cơng ngun đã bước đầu đi vào tìm hiểu về ngôn ngữ.
Nhưng trong những giai đoạn này ngôn ngữ khơng được nghiên cứu từ góc độ
bản thể của nó, mà ngơn ngữ chỉ được nghiên cứu ở góc độ triết học, tôn
giáo,... Về sau này việc nghiên cứu ngôn ngữ đã được nhiều người quan tâm
hơn nhưng phạm vi nghiên cứu vẫn chưa được mở rộng. Các nhà nghiên cứu
vẫn chủ yếu tập trung vào các vấn đề cấu trúc của ngơn ngữ. Chứ chưa có sự
mở rộng sang hướng ngữ dụng học.
Đến năm 1916, lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ bước sang một trang mới khi
F. De Saussure - giáo sư ngôn ngữ học người Thụy Sĩ xuất bản cuốn “Giáo
trình ngơn ngữ học đại cương”. Lần đầu tiên các vấn đề về ngôn ngữ học được
đề cập một cách đầy đủ và có hệ thống. Nhưng lí thuyết về hành vi ngơn ngữ
vẫn chưa thật sự xuất hiện trong giáo trình của ơng.
Mãi đến năm 1962, khi tác phẩm “How to do things with words” của
Austin ra đời, lí thuyết về hành vi ngơn ngữ mới xuất hiện.
Ở Việt Nam, hành vi ngôn ngữ và các vấn đề ngữ dụng học bắt đầu phát
triển trong những năm 70, 80 của thế kỉ XX. So với thế giới chúng ta đi sau họ
rất nhiều. Nhưng ngành Ngữ dụng học của nước ta cũng đã đạt được rất nhiều
thành tựu đáng kể. Các cơng trình nghiên cứu của các giáo sư đầu ngành như:
Đỗ Hữu Châu, Diệp Quan Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân,... về
các vấn đề ngữ dụng học, hành vi ngôn ngữ,... làm cơ sở khoa học quan trọng
để nghiên cứu về các hành vi ngơn ngữ trong tiếng Việt.
Lí thuyết hành vi ngơn ngữ được tác giả Đỗ Hữu Châu nghiên cứu khá



10

hồn chỉnh trong cuốn “Đại cương ngơn ngữ học, tập 2”, tác giả Nguyễn Đức
Dân cũng đã đưa ra những vấn đề lí thuyết hành vi ngơn ngữ căn bản trong
cuốn “Ngữ dụng học”.
Vận dụng cơ sở lí thuyết hành vi ngơn ngữ, một số tác giả đã có những
cơng trình nghiên cứu về những vấn đề cụ thể của hành vi ngôn ngữ:
TS. Nguyễn Văn Lập trong “Nghi thức lời nói tiếng Việt trên cơ sở lý
thuyết hành vi ngôn ngữ so sánh với tiếng Anh” , đã đề cập đến nghi thức lời
nói thể hiện hành vi thu hút sự chú ý nhưng chỉ giới thiệu sơ lược cùng với các
nghi thức lời nói khác của tiếng Việt. Nhưng đây cũng là cơ sở để làm sáng tỏ
vấn đề chúng tơi đang nghiên cứu.
Bên cạnh đó, cịn có một số luận văn thạc sĩ và khóa luận tốt nghiệp
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hành vi ngôn ngữ: Phan Thị Thúy nghiên
cứu về “Hành vi mời và hồi đáp lời mời trong tiếng Việt”, Nguyễn Thị Bắc
nghiên cứu về “Hành vi ngôn ngữ cảm ơn và xin lỗi trong lời nói tiếng Việt”,
Nguyễn Thị Lan Anh với “Các hành vi cầu khiến trong tiếng Việt”,...
Bên cạnh các khóa luận, luận văn, luận án cũng đã có rất nhiều những bài
viết liên quan đăng trên tạp chí “Ngơn ngữ và đời sống” như “Hành động
ngơn ngữ trì hoãn trong tiếng Việt” của tác giả Lê Thị Hiền.
Thành công của các luận văn, luận án và các công trình liên quan đã giúp
chúng tơi có thêm tri thức, kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu, tạo điều
kiện thuận lợi khi đi vào nghiên cứu hành vi ngôn ngữ.
Đề tài này của chúng tôi kế thừa và tiếp nối các cơng trình nghiên cứu đi
trước. Hành vi thu hút sự chú ý mặc dù đã được nghiên cứu nhưng chỉ mới
bước đầu, chưa đi sâu, chưa hình thành được một hệ thống hoàn chỉnh. Trên cơ
sở kế thừa thành công của các tác giả đi trước, chúng tôi tiếp tục phát triển đề
tài “Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong tiếng Việt” một cách đầy đủ hơn.
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu



11

4.1Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lí thuyết về hành vi ngôn ngữ và hội thoại chúng tôi tập trung
vào nhiệm vụ: xác định đặc trưng cơ bản và phân loại các hành vi ngôn ngữ
thu hút sự chú ý. Từ cơ sở phân loại hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý chúng
tơi phân tích hành vi ngơn ngữ trên phương diện lịch sự trong văn hóa giao
tiếp của người Việt. Từ đó, đưa ra cái nhìn tổng quan về cách sử dụng hành vi
ngôn ngữ thu hút sự chú ý sao cho đạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp.
4.2Phạm vi nghiên cứu
Các hành vi ngôn ngữ trong giao tiếp vô cùng phong phú. Nhưng luận
văn của chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu một hành vi ngôn ngữ cụ thể là
hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong hội thoại hằng ngày dưới hình thức
cặp thoại, song thoại.
Nghiên cứu cụ thể hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong các đoạn hội
thoại của tác phẩm văn học ở các giai đoạn khác nhau để có cái nhìn tổng qt
về sự thay đổi của hành vi qua các giai đoạn lịch sử.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn này chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Chúng tơi sử dụng phương pháp
phân tích để xem xét, phân tích đoạn thoại để nghiên cứu câu thoại chứa hành
vi thu hút sự chú ý. Trên cơ sở đó, tìm ra câu thoại cụ thể chứa hành vi thu hút
sự chú ý, khái quát lại thành các biểu thức và phân loại các dạng hành vi thu
hút sự chú ý.
+ Phương pháp thống kê: Dùng phương pháp thống kê tư liệu chứa hành
vi thi hút sự chú ý trong các tác phẩm văn học. Sử dụng kết quả thống kê làm
cơ sở cho việc khảo sát và phân loại.

+ Phương pháp hệ thống hóa: Trên cơ sở tư liệu đã được phân tích tổng
hợp, chúng tơi xem xét các mặt đồng nhất và đối lập để có thể hệ thống hóa


12

các vấn đề thuộc hành vi thu hút sự chú ý: các đặc trưng của hành vi thu hút sự
chú ý, phân loại hành vi thu hút sự chú ý, các vấn đề lịch sự với hành vi thu
hút sự chú ý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1Ý nghĩa lý luận
Đề tài “Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong tiếng Việt” đã được
nghiên cứu bước đầu ở phương diện nghi thức lời nói. Ở đề tài này chúng tôi
đi sâu nghiên cứu đối tượng dưới góc nhìn hành vi ngơn ngữ. Chúng tơi hệ
thống hóa và đưa ra cái nhìn tổng qt, hồn chỉnh hơn về đối tượng nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu của đề tài phần nào sẽ làm sáng tỏ hơn, hiểu sâu hơn
về hành vi ngơn ngữ nói chung và hành vi thu hút sự chú ý trong tiếng Việt nói
riêng.
6.2Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ phần nào: trong quá trình thực hành giao
tiếp, giúp nhận diện và sử dụng hành vi ngôn ngữ một cách phù hợp và đạt
hiệu quả, trong việc giảng dạy lý thuyết hành vi ngơn ngữ nói chung và hành
vi thu hút sự chú ý trong tiếng Việt nói riêng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
nội dung chính của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Hành vi ngôn ngữ thu hút sự chú ý trong tiếng Việt

Chương

sự
trong
3:giao
Hànhtiếp
vi ngôn
của người
ngữ thu
Việt
hút sự chú ý với vấn đề lịch


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI NGƠN NGỮ
1.1.1

Hành vi ngơn ngữ

Trong đời sống hằng ngày con người thực hiện nhiều hành động (hành vi)
khác nhau, được chia ra làm hai loại cơ bản là hành động vật lí như: đi, đứng,
qt nhà, nấu nướng, viết, đóng bàn,...Và hành động tinh thần như: suy nghĩ,
tư duy, lo lắng,... Trong số các hành động của con người có một loại hành động
đặc biệt được thực hiện nhờ phương tiện là ngơn ngữ, đó là hành động ngơn
ngữ (hành vi ngơn ngữ, hành động nói).
Năm 1955, tai trường đại học tổng hợp Harvard Mĩ J.L Austin, nhà triết
học người Anh đã trình bày 12 chun đề. Nói về vấn đề hành động bằng lời
nói như thế nào. Đến năm 1962, các chuyên đề này được tập hợp lại và xuất
bản thành sách với nhan đề How to do things with words. Có thể xem cơng
trình của J.L Austin là nền tảng cho việc nghiên cứu và phát triển hành vi ngôn
ngữ.
Không giống với các nhà lôgic và nhà ngôn ngữ học cùng thời chỉ quan

tâm đến những câu khảo nghiệm xem chúng là đối tượng nghiên cứu cơ bản,
với việc đánh giá về mặt ngữ nghĩa của câu theo tiêu chuẩn lôgic đúng - sai.
Nhưng J.L Austin nhận thấy có những phát ngơn khác, mặc dù rất giống với
phát ngơn khảo nghiệm (constatifs) về mặt hình thức nhưng khơng thể đánh
giá nội dụng theo tiêu chuẩn đúng - sai lơgic.
Ví dụ: Trời ơi!
Bây giờ là mấy giờ rồi?
Tơi cá với anh là Việt Nam sẽ vô địch!
Theo tiêu chuẩn lôgic đúng - sai chúng được xem là những câu giả khẳng định hoặc những câu vô nghĩa. Nhưng J.L Austin cho rằng những phát
ngôn này không phải là phát ngôn giả - khẳng định, cũng không vô nghĩa.


Những phát ngôn này được phát ngôn ra nhằm làm một việc gì đó như để hỏi,
để bộc lộ cảm xúc, để cá cược... của người nói. J.L Austin gọi những phát ngôn
như vậy là phát ngôn ngữ vi (performatives, performatifs). Phát ngôn ngữ vi là
những phát ngôn mà khi chúng ta nói chúng ra cũng chính là chúng ta đang
thực hiện việc được biểu thị trong phát ngôn.
Nhờ phân biệt phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi, J.L Austin đã
phát hiện ra bản chất hành động của ngơn ngữ. Khi chúng ta nói năng là chúng
ta hành động, Chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt bằng một
phương tiện đặc biệt đó là ngơn ngữ.
Theo J.L Austin, hành vi ngơn ngữ có ba loại lớn (Theo cách dịch của tác
giả Đỗ Hữu Châu): hành vi tạo lời (acte locutoire), hành vi mượn lời (acte
perlocutoire), hành vi ở lời (acte illocutoire).
Hành vi tạo lời (acte locutoire): là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn
ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu... để tạo ra một phát ngơn
về hình thức và nội dung [8, tr.88]. Để thực hiện các hành vi tạo lời thì bản
thân người nói phải nắm chắc được hình thức và ý nghĩa của các yếu tố của
ngơn ngữ (từ vựng, cú pháp).
Hành vi mượn lời (acte perlocutoire): là những hành vi mượn phương

tiện ngơn ngữ, nói đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả
ngồi ngơn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói [8,
tr.88]. Sẽ có rất nhiều hiệu quả khác nhau ở các nhân vật giao tiếp khác nhau.
Vì hiệu quả giao tiếp cịn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc điểm của từng
nhân vật giao tiếp như: nghề nghiệp, tâm lí, quê quán, xã hội,...Nên hiệu quả
của hành vi mượn lời là không thể tính hết được.
Ví dụ: Khi nghe dự báo thời tiết “ngày mai sẽ có mưa to”. Người đi làm
bằng xe máy và ở xa cơ quan sẽ có thái độ khơng vui. Cịn người ở gần cơ
quan và đi làm bằng xe ơ tơ có thể sẽ cảm thấy vui vì cuối cùng trời cũng đã


dễ chịu hơn. Người nông dân sẽ cảm thấy hạnh phúc vì vụ mùa bao ngày khơ
hạn cuối cùng cũng đã được tưới tắm. Nhưng các bác thợ xây sẽ cảm thấy rất
bực tức vì sẽ khơng thể làm việc vì trời mưa. . .
Hành vi ở lời (acte illocutoire): Là những hành vi người nói thực hiện
ngay khi nói năng. Hiệu lực của chúng là những hiệu quả thuộc ngơn ngữ, có
nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người
nhận [8, tr.89]. Trong hoạt động giao tiếp bình thường, các phát ngơn kế tiếp
nhau của các nhân vật giao tiếp không chỉ liên kết với nhau về nội dung giao
tiếp mà còn phải liên kết với nhau về hành vi ở lời. Trong quá trình giao tiếp
các nhân vật giao tiếp luân phiên thực hiện các hành vi ở lời. Chuỗi các hành
vi ở lời trong giao tiếp có tính quy ước mà quy tắc vận hành của chúng được
mọi người trong cộng đồng ngơn ngữ chấp nhận và tn theo.
Ví dụ: Hành động hỏi, yêu cầu hay ra lệnh sẽ đòi hỏi một hành động nào
đó được thực hiện. Nếu người nghe không thực hiện sẽ bị coi là thiếu lịch sự,
nó trở thành một nguyên tắc giao tiếp bất thành văn trong công đồng xã hội.
SP1: Mấy giờ rồi Lan?
SP2: Tám giờ rồi.
Theo O. Ducrot, hành vi ở lời khác với hành vi tạo lời và hành vi mượn
lời ở chỗ “Chúng ta có thể thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại.

Chúng đặt người nói và người nghe vào nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình
trạng của họ trước khi thực hiện hành vi ở lời đó” [8, tr. 90] Ví dụ, khi ra lệnh
cho ai đó, chúng ta phải chịu trách nhiệm về các lệnh của mình và đặt ngay
người nghe vào tình trạng phải thực hiện (hay không thực hiện, nếu không
thực hiện thì ít ra là cảm thấy áy náy) lệnh của chúng ta.
Việc phát hiện ra hành vi ở lời là một thành tựu mới, một đóng góp vơ
cùng quan trọng của J.L Austin trong việc nghiên cứu ngôn ngữ theo chức
năng giao tiếp. Khác với hành vi mượn lời, hành vi ở lời có tính quy ước và có
thể chế dù những quy ước và thể chế của chúng không hiển ngôn mà quy tắc


vận hành chúng được mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ tn theo một cách
khơng tự giác. Vì vậy, nắm được ngôn ngữ, chúng ta không chỉ nắm được âm,
từ ngữ, câu.. mà còn nắm được quy tắc điều khiển hành vi ở lời của ngơn ngữ
đó. Chính là chúng ta nắm được các quy tắc để có thể thực hiện các hành vi
như chào, mời, hứa, hỏi, xin,... phù hợp với ngữ cảnh, đúng lúc, đúng chỗ để
hành vi nói ra đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2

Phân loại hành vi ngôn ngữ

Các hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong thực tiễn giao tiếp vô cùng
phong phú và đa dạng. Việc phân loại các hành vi ngôn ngữ trong truyền thống
nghiên cứu ngữ dụng học gặp khơng ít khó khăn, có nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng khơng thể phân loại được các hành vi ngôn ngữ. Hiện nay vẫn chưa đi
đến được thống nhất trong việc phân loại các hành vi ngơn ngữ, vẫn cịn tồn tại
rất nhiều cách phân loại khác nhau. Trong đó có hai cách phân loại tiêu biểu và
có phần đầy đủ nhất, là cách phân loại của Austin và Searle. Trong luận văn
này chúng tôi chọn cách phân loại của Austin và Searle làm cơ sở nghiên cứu.
Trước J.L Austin, Wittgenstein đã nói tới các hành vi ngơn ngữ với thuật

ngữ trị chơi ngơn ngữ. Ông đã liệt kê hàng loạt hành vi ngôn ngữ nhưng ông
lại cho rằng không thể phân loại được chúng. Dựa vào sự liệt kê các hành vi
ngôn ngữ của Wittgenstein, Austin đã thử nghiệm thực hiện việc phân loại các
hành vi ngôn ngữ. Và đã phân các hành vi ngôn ngữ ra thành 5 phạm trù:
+ Phán xử (verditives): Đây là những hành vi đưa ra những lời phán xét,
đánh giá về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên nhưng chứng cớ hiển nhiên
hoặc những lí lẽ vững chắc như: phân tích, đánh giá, phân loại, nêu đặc điểm,
miêu tả,...
+ Hành xử (exercitives): Đây là những hành vi đưa ra những quyết định
thuận lời hay chống lại một chuỗi hành động nào đó như: van xin, giới thiệu,
ra lệnh, chỉ huy, khuyến cáo, đặt hàng, khẩn cầu, biện hộ, đặt tên, cảnh cáo,...
+ Cam kết (commissives): Là những hành vi ràng buộc người nói vào


một chuỗi những hành động nhất định như: đảm bảo, thề nguyền, hứa hẹn,
giao ước,...
+ Trình bày (expositives): Là những hành vi dùng để trình bày các quan
niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như: phủ định, khẳng định,
nhân nhượng, phản bác, trả lời, chối, báo cáo,...
+ Ứng xử (behabitives): Đây là những hành vi phản ứng cách xử sự của
người khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái
độ đối với các hành vi hay số phận của người khác: cảm ơn, xin lỗi, khen ngợi,
chào mừng, thách thức, phê phán, ban phước, nguyền rủa, nghi ngờ,...
Bảng phân loại của Austin về cơ bản là phân loại từ vựng các động từ
ngữ vi. Nhưng chính Austin lại nhận thấy rằng bảng phân loại của mình cịn
nhiều thiếu sót, chưa được hồn thiện. Tiếp sau Austin cũng có rất nhiều nhà
nghiên cứu khác đi theo hướng phân loại của ông như Vendler (1972), Ballmer
và Brennenstuhl (1981) hay Weirzbicka (1987). Các nhà nghiên cứu này đã kế
thừa và bổ sung vào bảng phân loại của Austin, Vendler đã thêm hai phạm trù
mới đó là phạm trù thao tác và phạm trù nghi vấn, Ballmer và Brennenstuhl đã

tập hợp 4.800 động từ nói năng chia thành 600 nhóm thuộc 24 kiểu phân phối
trong 8 phạm trù, Weirzbicka đã dùng ngôn ngữ ngữ nghĩa do chính mình tạo
nên để giải nghĩa 270 động từ nói năng sau đó quy chúng về 37 nhóm.
Đến Searle, ơng đã chỉ ra được những hạn chế trong phân loại các động
từ ngữ vi của Austin. Searle cho rằng Austin vì khơng định ra các tiêu chí phân
loại nên dẫn đến kết quả phân loại có khi dẫm đạp lên nhau. Ông cho rằng
trước tiên cần phải đi phân loại các hành vi ở lời chứ không phải phân loại các
động từ gọi tên chúng. Searle đã đưa ra 12 điểm khác biệt giữa các hành vi
ngôn ngữ dùng làm tiêu chí phân loại như sau:
+ Đích ở lời (the point of the illocution): một miêu tả phải hướng tới sự
cung cấp một sự diễn biến sự vật vốn có của nó.


+ Hướng khớp ghép lời với hiện thực mà lời đề cập đến (direction of
fit).
+ Trạng thái tâm lí thể hiện (expressed psychological states).
+ Sức mạnh mà đích tại lời thể hiện (the strength with which the
illocutionary point is presented).
+ Mối tương tác về tư cách quan hệ giữa người nói và người nghe
(relevance of the relative status of S and H).
+ Hướng hành vi tại lời (orientation).
+ Câu hỏi và trả lời là hai thành phần của một cặp kế cận (adjacency
pair) cịn sai bảo (commands) thì khơng.
+ Nội dung mệnh đề (propositional content).
+ Hành vi có thể thực hiện chỉ bằng ngôn ngữ hay được thực hiện kèm
với hành vi khác không phải là hành vi ngôn ngữ.
+ Những khác biệt giữa các hành động được thực hiện địi hỏi phải có
những thiết chế ngồi ngơn ngữ với những hành động khơng địi hỏi như vậy.
+ Hành động có động từ ngữ vi và hành động khơng có động từ ngữ vi.
+ Phong cách thực hiện hành vi ở lời.

Trong 12 tiêu chí trên thì Searle chỉ dùng 4 tiêu chí quan trọng nhất để
phân lập năm loại hành vi ngơn ngữ. Đó là các tiêu chí: đích ở lời, hướng khớp
ghép, trạng thái tâm lí và nội dụng mệnh đề. Tiêu chí đích ở lời tương ứng với
điều kiện căn bản, tiêu chí trạng thái tâm lí và tiêu chí nội dung mệnh đề là
điều kiện thỏa mãn, tiêu chí hướng khớp ghép địi hỏi hiện thực phải diễn ra
phù hợp với với lời phải có hướng khớp ghép hiện thực - lời.
Với 4 tiêu chí trên Searle đã phân lập năm loại hành vi ở lời. Đó là:
+ Tái hiện (representatives): Hành vi này trước đó được Searle gọi tên là
xác tín (assertive). Đích ở lời là miêu tả lại một sự tình đang được nói đến.
Hướng khớp ghép ở đây là lời - hiện thực (lời phải phù hợp với hiện thực),


trạng thái tâm lí là niềm tin của mình vào mệnh đề. Nội dung mệnh đề là một
mệnh đề theo tiêu chí đúng sai.
Ví dụ: SP1: Hơm qua, Lan đến nhà mình.
SP1 xác nhận sự việc “Lan đến nhà mình” xảy ra vào hơm qua.
Nhóm hành vi tái hiện gồm một số hành vi tiêu biểu như: miêu tả, kể,
xác nhận, khẳng định, thông báo, báo cáo, mách,...
+ Điều khiển (directives): Đích ở lời là đặt người nghe vào trách nhiệm
phải thực hiện một hành động trong tương lai; hướng khớp ghép là thế giới
hiện thực - lời (hiện thực phải phù hợp với lời); trạng thái tâm lí là bày tỏ
mong ước của người nói muốn người nghe thực hiện một việc; nội dung mệnh
đề là hành động tương lai của người nhận. Nhóm hành vi điều khiển gồm: yêu
cầu, đề nghị, mời, khuyên, ra lệnh, sai,...
Ví dụ: Ngày mai, sang nhà tớ chơi nhé!
Người nói đặt người đối thoại vào trách nhiệm hồi đáp lời mời sang
hoặc không sang nhà vào ngày mai.
+ Cam kết (commissives): Đích ở lời là trách nhiệm phải thực hiện một
hành động trong tương lai mà người nói bị ràng buộc; hướng khớp ghép là thế
giới hiện thực - lời (hiện thực phải phù hợp với lời); trạng thái tâm lí là ý định

của người nói và nội dung mệnh đề là hành động tương lai của người nói.
Ví dụ: Ngày mai, mình sẽ đến.
Người nói tự đặt mình vào trách nhiệm thực hiện hành động “đến” vào
tương lai “ngày mai”.
Nhóm cam kết gồm một số hành vi như: hứa, đe dọa,...
+ Biểu cảm (expressives): Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp
với hành vi ở lời. Hướng khớp ghép là lời - hiện thực (lời phải phù hợp với
hiện thực). Trạng thái tâm lí được thay đổi tùy theo từng loại hành vi, từng
hồn cảnh và tình huống cụ thể được nêu ra trong nội dung mệnh đề. Nội dung


mệnh đề là hành động hoặc tính chất nào đó có tư cách là nguồn gây ra cảm
xúc của người phát.
Ví dụ: A! Chợ xn vui q!
Thơng qua phát ngơn người nói bày tỏ trạng thái tâm lí của mình.
Nhóm biểu cảm gồm: khen, chê, phê bình, cảm ơn, xin lỗi,...
+ Tuyên bố (declarations): Đích ở lời là nhằm đưa ra sự ăn khớp giữa
nội dung mệnh đề với thế giới hiện thực (nội dung mệnh đề trở nên có hiệu
lực). Do vậy mà hướng khớp ghép vừa là lời - hiện thực, vừa là hiện thực - lời;
nội dung mệnh đề là một mệnh đề.
Ví dụ: Chúng ta kết thúc cuộc họp tại đây.
Người nói bằng phát ngơn của mình làm cho nội dung “kết thúc cuộc
họp” trở nên có hiệu lực.
Nhóm tuyên bố gồm một số hành vi ngôn ngữ như: tuyên bố, tuyên án,
buộc tội,...
Qua hai cách phân loại, chúng tôi nhận thấy cách phân loại của Searle đã
bộc lộ nhiều ưu điểm hơn. Ông đã căn cứ vào những tiêu chí phân loại cụ thể
chứ khơng chỉ là sự phân loại dựa vào trực giác, cảm tính như phương thức
phân loại từ vựng. Hành vi ngơn ngữ thu hút sự chú ý mà chúng tôi nghiên cứu
theo phân loại của Searle thuộc nhóm Điều kiện và Biểu cảm. Nhóm điều kiện

là hành vi có đích ở lời là đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành
động trong tương lai, hướng khớp ghép hiện thực - lời, trạng thái tâm lí là sự
mong muốn của người nói, nội dung mệnh đề là hành động tương lai của
người nhận. Nhóm biểu cảm là hành vi có đích ở lời là người nói thơng qua
phát ngơn của mình để bày tỏ trạng thái tâm lí, hướng khớp ghép là lời - hiện
thực, trạng thái tâm lí được thay đổi tùy theo từng loại hành vi, từng hoàn cảnh
và tình huống cụ thể được nêu ra trong nội dung mệnh đề. Nội dung mệnh đề
là hành động hoặc tính chất nào đó có tư cách là nguồn gây ra cảm xúc của


người phát.
1.1.3

Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngơn ngữ gián tiếp

Hành vi ngơn ngữ dựa vào hình thức diễn đạt được chia làm hai loại hành
vi ngôn ngữ trực tiếp (direct speech act) và hành vi ngôn ngữ gián tiếp
(indirect speech act).
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp là hành vi ngơn ngữ được thực hiện đúng với
đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng của chúng. Mục đích nói và hình thức
từ ngữ thống nhất với nhau. Nói cách khác, hành vi ngơn ngữ trực tiếp là hành
vi được thực hiện ở những phát ngơn có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và
một chức năng. Câu nghi vấn được dùng để hỏi, câu cảm thán dùng để cảm ơn,
câu trần thuật được dùng để nhận định,... được gọi là hành vi ngơn ngữ trực
tiếp.
Ví dụ: Tơi cảm ơn chị rất nhiều!
Khi người nói phát ngơn ra thành lời cũng chính là lúc hành vi cảm ơn
được thực hiện (thuộc nhóm hành vi biểu cảm). Đây là hành vi cảm ơn trực
tiếp.
Trong giao tiếp thực tế, một phát ngơn thường khơng chỉ có một đích ở

lời mà đại bộ phận các phát ngôn được xem như là thực hiện đồng thời một số
hành vi cùng một lúc. Khi nào có quan hệ gián tiếp giữa cấu trúc và chức năng
thì có hành vi ngơn ngữ gián tiếp. Một câu nghi vấn được dùng để hỏi thì đó là
hành vi ngơn ngữ trực tiếp, nhưng câu nghi vấn được dùng để thu hút sự chú ý,
để chào hỏi thì đó là một hành vi ngơn ngữ gián tiếp.
Ví dụ: Bác đi chợ à?
Chú Năm đó phải không?
Hai phát ngôn trên ở dạng nghi vấn nhưng không hồn tồn dùng để hỏi.
Câu hỏi chỉ nhằm mục đích thu hút sự chú ý và mục đích chính là để chào hỏi.
Vậy, đây chính là hành vi ngơn ngữ gián tiếp. Để sử dụng và nhận diện được


hành vi ngơn ngữ gián tiếp chúng ta có thể dựa vào hoàn cảnh giao tiếp, vào lẽ
thường, khả năng suy luận và các quy tắc điều khiển hành vi ngơn ngữ. Một
hành vi ngơn ngữ gián tiếp có thể thực hiện thơng qua những hành vi ở lời
khác nhau.
Ví dụ: Hành vi chào hỏi có thể thực hiện thơng qua hành vi hỏi, khen
ngợi:
- Anh đi đâu đấy?
- Áo mới của chị đẹp quá.
Vấn đề hành vi ngôn ngữ gián tiếp là vấn đề lí thú, sâu rộng và vẫn đang
là địa hạt nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học. Trong thực tế giao tiếp hành
vi ngôn ngữ gián tiếp thường xuyên được sử dụng và mang lại hiệu quả cao
trong giao tiếp. Tùy vào hoàn cảnh giao tiếp và đối tượng giao tiếp mà người
nói sẽ có cách sử dụng cho phù hợp. Trong luận văn này khi nghiên cứu hành
vi thu hút sự chú ý trong tiếng Việt, chúng tôi rất chú ý đến cách thu hút chú ý
gián tiếp, nó tạo nên sự phong phú cho tiếng Việt và đạt được hiệu quả trong
giao tiếp.
1.2BIỂU THỨC NGỮ VI VÀ PHÁT NGÔN NGỮ VI
1.2.1


Biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi

1.2.1.1

Biểu thức ngữ vi

Trong quá trình giao tiếp bằng ngơn ngữ, biểu thức ngơn ngữ giúp người
nói thực hiện hành động ngơn ngữ được gọi là biểu thức ngữ vi. Biểu thức ngữ
vi là những thể thức hay cơng thức nói năng đặc trưng cho một hành vi ngơn
ngữ. Có bao nhiêu hành vi ngơn ngữ (trừ những trường hợp được sử dụng gián
tiếp) thì có bấy nhiêu biểu thức ngữ vi, nhờ có biểu thức ngữ vi mà chúng ta
nhận biết được các hành vi ngơn ngữ. Biểu thức ngữ vi chính là dấu hiệu về
ngữ pháp và ngữ nghĩa của các hành vi ngơn ngữ.
Thực tế trong q trình giao tiếp, các hành vi ngôn ngữ của con người rất


phong phú, đa dạng và còn thay đổi rất phức tạp. Các hành vi ngơn ngữ cịn
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau như: hoàn cảnh giao tiếp, thói quen
giao tiếp, đặc trưng ngơn ngữ của dân tộc, phong tục tập qn,...Nhưng nhìn
chung hành vi ngơn ngữ vẫn có những cơng thức nhất định và được sử dụng
một cách linh hoạt. Tùy theo cách sử dụng và thay đổi của môi trường giao
tiếp theo thời gian mà chúng sẽ biến đổi cho phù hợp. Tương ứng với hành vi
ngơn ngữ thì biểu thức ngữ vi cũng khơng ngừng thay đổi và có những dấu
hiệu ngữ vi giúp chúng tâ nhận biết các biểu thức ngữ vi.
+ Kết cấu đặc trưng: Là kiểu cấu trúc các từ ngữ, công thức khái
quát của các biểu thức ngữ vi.
Ví dụ: Biểu thức ngữ vi ở hành vi thu hút sự chú ý có kiểu kết cấu
“xin lỗi làm ơn...”, “xin lỗi, phiền ”, “thưa...”, “bẩm...”,..
+ Từ ngữ đặc thù: Là những từ ngữ chuyên dùng trong các biểu thức

ngữ vi. Những từ ngữ này dùng để tổ chức các kết cấu và nhờ chúng để ta biết
được hành vi nào đang thực hiện.
Ví dụ: Những từ ngữ đặc thù của hành vi thu hút sự chú ý là: này,
ơi, ê, đâu, ạ, bớ, alo, kìa, đấy, đây...
+ Ngữ điệu: Mỗi hành vi ngơn ngữ có ngữ điệu riêng của mình.
Cùng một tổ chức từ vựng, ngữ pháp cụ thể nhưng nếu được phát âm với
những ngữ điệu khác nhau sẽ cho các biểu thức ngữ vi khác nhau ứng với
những hành vi ngôn ngữ khác nhau.
+ Trật tự các từ ngữ trong phát ngơn cũng là những dấu hiệu ngữ vi.
Ví dụ: Anh ấy không đi. => Hành vi ngôn ngữ trình bày.
Anh ấy đi khơng? => Hành vi ngơn ngữ hỏi.
Hai biểu thức ngữ vi chứa các từ ngữ giống nhau nhưng được sắp xếp
theo trật tự khác nhau, do đó tạo thành các biểu thức ngữ vi khác nhau.
Mỗi biểu thức ngữ vi với dấu hiệu ngữ vi của mình đặc trưng cho một
loại hành động ngơn ngữ. Trong thực tế giao tiếp, người ta có thể sử dụng biểu


thức ngữ vi để thực hiện hành vi ngôn ngữ mà nó đặc trưng.
Ví dụ: SP1: Mấy giờ rồi?
SP2: Mười giờ rồi ạ!
Biểu thức ngữ vi ở SP1 chứ dấu hiệu đặc trưng của hành vi ngôn
ngữ hỏi “mấy”. Biểu thức ngữ vi này được dùng để nhận được câu trả lời về
thời gian ở SP2. Hành vi ngôn ngữ trong trường hợp này được thực hiện một
cách trực tiếp, hành vi ngơn ngữ hỏi có hiệu lực ở lời trực tiếp.
Nhưng trong một số trường hợp, vì nhiều lí do khác nhau, người ta có thể
sử dụng biểu thức ngữ vi vốn đặc trưng cho hành vi ngôn ngữ này để thực hiện
một hành vi ngơn ngữ khác.
Ví dụ: Học sinh đi học muộn
SP1 (thầy): Mấy giờ rồi?
SP2 (học sinh): Con xin lỗi thầy! Con quên cài báo thức ạ.

Biểu thức ngữ vi ở SP1 sử dụng các dấu hiệu đặc trưng của hành vi
ngôn ngữ hỏi. Nhưng trong cuộc hội thoại phát ngơn của SP1 khơng nhằm
mục đích hỏi mà nhằm một mục đích khác “phê bình”. Hành vi ngơn ngữ phê
bình trong trường hợp này được thực hiện một cách gián tiếp thông qua hành
vi ngôn ngữ hỏi. Hành vi ngơn ngữ hỏi có hiệu lực ở lời gián tiếp của hành vi
ngơn ngữ “phê bình”'.
1.2.1.2

Động từ ngữ vi

Các hành vi ngôn ngữ được biểu thị, gọi tên bằng các động từ gọi là
động từ nói năng. Trong các động từ nói năng có những động từ đặc biệt,
những động từ có thể được thực hiện trong chức năng ngữ vi - thực hiện trong
chức năng ở lời. Động từ này được gọi là động từ ngữ vi (performative verbs):
“ Động từ ngữ vi là những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với biểu
thức ngữ vi (có khi khơng cần có biểu thức ngữ vi đi kèm) là người nói thực


hiện luôn cái hành vi ở lời do chúng biểu thị” [8, tr.97].
GS.TS.Đỗ Hữu Châu đã có một so sánh hết sức rõ ràng và chi tiết giữa
hai động từ “ rửa” và “hứa” để chúng ta thấy được sự khác nhau giữa động từ
nói năng và động từ ngữ vi. Động từ “rửa” trong “ tơi rửa tay” thì hành động
chưa được thực hiện trong lời nói vì muốn “rửa tay” thì phải dùng nước, xà
phịng,... Tay của chúng ta khơng thể sạch bằng lời nói mà phải bằng hành
động cụ thể. Ngược lại, với động từ “hứa” khi nói “ Tơi hứa mai tơi sẽ đến” thì
hành động “hứa” đã được thực hiện ngay khi từ “hứa” được phát ngôn ra. Và ở
đây cũng cần chú ý hành vi hứa chỉ được thực hiện bằng lời nói, khơng thể
thực hiện bằng hành động phi ngôn ngữ.
Theo Austin động từ ngữ vi chỉ được dùng trong chức năng ngữ vi (có
hiệu lực ngữ vi) khi nó được dùng ở ngôi thứ nhất, thời hiện tại, thể chủ động

và thức thực thi.
Ví dụ: Mình khun cậu nên ở lại.
Trong ví dụ trên động từ “khuyên” được xem là động từ ngữ vi vì hành
động “khuyên” được thực hiện ngay khi từ “khuyên” được phát ngôn ra.
Nhưng trong trường hợp “Lan khun cơ ấy nên ở lại” thì động từ “khun”
khơng phải là động từ ngữ vi mà chỉ dùng như động từ miêu tả thông thường.
Trong thực tế sử dụng, động từ ngữ vi được xem là một động từ nói
năng nhưng khơng phải động từ nói năng nào cũng là động từ ngữ vi. Nguyễn
Đức Dân đã đưa ra thêm một yêu cầu để động từ nói năng thực hiện chức năng
ngữ vi đó là: “ Bổ ngữ của động từ ngữ vi phải ở ngôi thứ hai” [10, tr.38].
Ví dụ: Xin lỗi chị, làm ơn đỡ hộ tơi thùng hàng này.
Ở phát ngôn này, hành vi xin lỗi để thu hút sự chú ý được thực hiện
ngay khi đưa ra phát ngơn. Nhưng nếu nói “ Tơi xin lỗi chị ấy,...” thì người nói
chỉ đang thơng báo về việc đã xin lỗi để nhờ giúp đỡ từ người thứ ba điều gì
đó.


×