Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN NĂNG LỰC THÔNG TIN ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC TẬP TRỰC TUYẾN QUA CÁC NỀN TẢNG ỨNG DỤNG TRONG BỐI CẢNH DỊCH COVID – 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.31 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CỦA SINH VIÊN
TRONG HỌC TẬP TRỰC TUYẾN QUA CÁC NỀN TẢNG ỨNG DỤNG
TRONG BỐI CẢNH DỊCH COVID – 19
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN)

Hà Nội, 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH & NHÂN VĂN, ĐH QGHN TRONG
HỌC TẬP TRỰC TUYẾN QUA CÁC NỀN TẢNG ỨNG DỤNG TRONG BỐI
CẢNH DỊCH COVID – 19

Người thực hiện :

Ngô Nhất Sang - 18032286

Bộ mơn :
Người hướng dẫn chính :

Tơn Giáo Học
TS. Trần Thị Thanh Vân
ThS. Nguyễn Thị Kim Lân


Hà Nội, 2021


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành tiểu luận cuối kỳ mơn nhập môn năng lực thông tin, em xin
gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Trần Thị Thanh Vân – giảng viên khoa
Thông Tin Thư Viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
quốc gia Hà Nội, cô là người đã trực tiếp giảng dạy em nhập mơn năng lực thơng
tin. Trong q trình học tập môn học , cô đã luôn giúp đỡ tận tình để em có thể
tiếp thu được nhiều kiến thức hơn, qua đó, em có cái nhìn hồn thiện và tường tận
hơn về năng lực thông tin.
Bài tiểu luận là một bài nghiên cứu khoa học mà em đã nghiên cứu. Tuy
nhiên, kiến thức là vô tận và sự tiếp thu của em có lẽ sẽ có hạn chế. Do đó, q
trình hồn thành tiểu luận chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót trong
góc độ tiếp thu năng lực thơng tin. Em rất mong có thể nhận được những đóng góp
ý kiến từ cơ để giúp cho bài tập được hoàn thiện hơn.
Em cũng rất xin lỗi cơ và mong cơ thơng cảm cho em vì em khơng cài đặt
được phần mềm zotero vào trong máy tính của nhà chùa, thưa cô em là người xuất
gia ở chùa, do điều kiện không cho phép nên em không thể cài đặt được phần mềm
zotero để trích dẫn trong bài cá nhân của mình, em mong cơ thơng cảm cho em,
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 8 tháng 8 năm 2021
Sinh viên,
Ngơ Nhất Sang – Thích Nhất Sang


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nghiên cứu
1.1 Các nghiên cứu nước ngoài

1.2 Các nghiên cứu trong nước

2. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chính:
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
3. Câu hỏi nghiên cứu
3.1 Câu hỏi nghiên cứu chính:
3.2 Câu hỏi nghiên cứu bổ trợ:

4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG HỌC TẬP
TRỰC TUYẾN CỦA SINH VIÊN VÀ DỊCH COVID 19
1.1.
Hệ khái niệm
1.1.1. Năng lực
1.1.2. Học trực tuyến
1.2.
Vai trò của học tập trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh
1.2.1. An ninh xã hội
1.2.2. Giáo dục
1.2.3. Kinh tế
1.2.4. Xã hội

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CỦA SINH
VIÊN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN


2.1 . Thực trạng năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại học Khoa học


Xã hội và Nhân văn
tin.
2.1.1 Năng lực tiếp nhận công nghệ
2.1.2 Năng lực khai thác và xử lý thơng tin
2.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả năng lực sử dụng công nghệ của sinh
viên trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong học tập trực tuyến qua các
2.2.1
2.2.2
2.3.

nền tảng ứng dụng trong bối cảnh dịch Covid – 19
Nhân tố bên trong
Nhân tố bên ngoài
Đánh giá chung về năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn trong học tập trực tuyến qua các nền tảng ứng dụng trong
bối cảnh dịch Covid – 19.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, toàn cầu hóa - hiện đại hóa đang là xu hướng phát triển tất yếu của các
quốc gia trên thế giới. Trong thời kỳ công nghệ bùng nổ mạnh mẽ như hiện nay, thơng tin
và truyền thơng đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc. Chính vì vậy, các quốc gia lớn trên thế giới luôn đầu tư phát triển
mọi nguồn lực để đẩy mạnh và phát triển mảng cơng nghệ thơng tin và truyền thơng của
mình. Việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học để sáng tạo ra những nền
tảng công nghệ mới, hỗ trợ phát triển cho truyền thơng, cho chính trị, kinh tế xã hội, giáo
dục,… khơng cịn lạ lẫm với con người.

Tại Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thơng vào giáo dục ln
được khuyến khích phát triển. Đời sống vật chất và tinh thần thay đổi đòi hỏi tư duy khoa
học, tư duy giáo dục không thể như cũ, có rất nhiều dự án đưa ra tích hợp những công cụ,
thành tựu từ phát triển công nghệ để giáo viên và học sinh thuận tiện hơn cho học tập.
Trong môi trường giáo dục đại học, việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu về phương tiện, học liệu
cho giảng viên, sinh viên và cán bộ cũng là mối bận tâm lớn của nhiều nhà quản lý giáo
dục.
Trong những năm vừa qua, đăc biệt là năm học 2019 – 2020, khi cả nước ta phải
gồng mình chống dịch Covid -19 và rồi cũng như bao ngành nghề khác, giáo dục cũng bị
ảnh hưởng nặng nề. Việc thực hiện giãn cách xã hội, thầy và trị khơng thể đến ngồi
chung một lớp tại trường học được nhưng việc học tập vẫn được diễn ra một cách khá tốt
đó là bởi việc tiến hành học tập trực tuyến qua các phần mềm học tập.
Sự phát triển lớn mạnh và hiện đại của các nền tảng công nghệ thông tin và truyền
thông đi đơi với đó là năng lực sử dụng cơng nghệ thông tin và truyền thông – gọi tắt là
năng lực sử dụng cơng nghệ. Cơng nghệ phát triển càng địi hỏi con người phải nâng
cao năng lực sử dụng công nghệ đó. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19 gây ảnh hưởng
lớn đến toàn cầu, việc ứng dụng các nền tảng công nghệ trong học tập và làm việc trực


tuyến đang vơ cùng phát triển và lớn mạnh, có thể kể đến những nền tảng như Google
Classroom, Microsoft Team, Zoom.us,…
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Đánh giá năng lực sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông của sinh viên trong học tập trực tuyến qua các
nền tảng ứng dụng trong bối cảnh dịch Covid – 19 (Nghiên cứu trường hợp sinh viên
trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN)” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận cuối kỳ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu

Vấn đề đánh giá năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thơng đã được
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước quan tâm từ lâu, cụ thể như sau:
Các nghiên cứu nước ngoài

Giáo dục dựa trên năng lực (Competency – based education – CBE) nổi lên từ
2.1.

những năm 1970 ở Mỹ. Với hình thái này, giáo dục hướng tới việc đo lường chính xác
kiến thức, kĩ năng và thái độ của người học sau khi kết thúc mỗi chương trình học
(Guskey, 2005). Nếu giáo dục truyền thống được coi là giáo dục theo nội dung, kiến thức
(content – based education) tập trung vào việc tích lũy kiến thức, nhấn mạnh tới các năng
lực nhận thức và việc vận dụng kiến thức tập trung vào việc thực hành kĩ năng chứ không
hướng tới việc chứng minh khả năng đạt được và đánh giá của giáo dục truyền thống
cũng tập trung đo lường kiến thức thơng qua các bài thi viết và nói (Chang, 2006) thì giáo
dục theo năng lực tập trung vào phát triển các năng lực cần thiết để học sinh có thể thành
cơng trong cuộc sống cũng như trong cơng việc (Chyung, Stepich & Cox, 2006). Các
năng lực thường được tập trung phát triển bao gồm năng lực xử lí thông tin, giải quyết
vấn đề, phản biện, năng lực học tập suốt đời (Jackson, 2007). Do đó đánh giá cũng hướng
tới việc đánh giá kiến thức trong việc vận dụng một cách hệ thống và các năng lực cần
đạt được cần phải đánh giá thông qua nhiều công cụ và hình thức trong đó có cả quan sát
và thực hành trong các tình huống mơ phỏng (Kaslow, 2004). [1]
Tuy nhiên đến tận cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, nhiều nhà giáo dục Mỹ như
Steven Cohen, Irwin Unger Timothy J. Newby, Judith H, Sandholtz... mới đề cập đến
việc sử dụng CNTT trong dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của người học trong
đó chúng tơi đặc biệt quan tâm một số vấn đề mà các tác giả trên đã đề cập như vai trò


của CNTT & TT như là một công cụ hỗ trợ các hoạt động dạy học, nhất là yếutố đa
phương tiện (Multimedia) có tác động tích cực đến các giác quan của người học; đề xuất
các ý tưởng sư phạm trong q trình dạy học có sự hỗ trợ của phương tiện kĩ thuật theo
hướng phát huy vai trò chủ động, tích cực của người học; xác định các yêu cầu, thuận lợi
và khó khăn khi ứng dụng CNTT & TT vào dạy học.
Thế nhưng, các cơng trình nghiên cứu trên chỉ mới bàn luận đến các loại năng lực
cũng như chỉ mới khơi gợi về việc đưa công nghệ vào giảng dạy chứ chứ có sự đánh giá

về năng lực sử dụng công nghệ của người dùng cụ thể hơn là của sinh viên.
2.2.
Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam đã có một số nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề năng lực sử dụng
công nghệ trong giảng dạy và học tập cũng như đánh giả khả năng sử dụng công nghệ
thông tin như sau:
Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Yến “Phát triển năng lực sử dụng công nghệ
thông tin cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 10 ở trường Trung học phổ thông” đã
cho kết quả khảo sát rằng: “Đối với học sinh, năng lực sử dụng công nghệ thông tin là
năng lực công cụ quan trọng trong cuộc sống cũng như trong học tập, do đó việc phát
triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin cho học sinh là điều vô cùng quan trọng..
Tại bậc đại học, tác giả Trần Thị Quý đã nghiên cứu “Năng lực sử dụng công nghệ
thông tin của sinh viên Việt Nam – Yếu tố quyết định đến sự thành công của việc sử dụng
và xây dựng học liệu mở” đã kết luận rằng: “Năng lực thơng tin của sinh viên Việt Nam
hiện nay cịn nhiều hạn chế về mọi yêu cầu và cần phải có chiến lược trang bị năng lực
thông tin cho giảng viên, sinh viên mà trước hết phải là sinh viên.”
Trên Tạp chí Giáo dục số 433 (Kỳ 1- 7/2018) trang 50 -55, Phạm Văn Bằng và
Nguyễn Phương Thảo đề cập đến việc “Phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin
và truyền thông cho sinh viên ngành Sư phạm tại Trường Đại học An Giang qua học phần
“Tin học Chuyên ngành” . Nhóm tác đã xây dựng Khung năng lực ICT dành cho giáo
sinh/giáo viên. Điều đó đã thấy được sự quan tâm sắc đối với những người lái đò tương
lai với mong muốn có thể truyền đạt tri thức một cách tốt nhất đến các bạn học sinh cũng
như vai trị của kỹ năng sử dụng cơng nghệ thơng tin trong nền giáo dục.


Và gần đây nhất, qua quá trình tiến hành học tập trực tuyến, Luận án Tiến sĩ của
Phan Chí Thành tên “Đánh giá năng lực sử dụng công nghệ thông tin của giảng viên
trong giảng dạy trực tuyến” cũng đã xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá năng lực sử dụng
công nghệ thông tin gắn với ITCFL-OT được xây dựng nhằm cung cấp một nền tảng lý
luận dạy học về ứng dụng cơng nghệ và khai thác tính ứng dụng của công nghệ thông tin

trong dạy học và dạy học trực tuyến.
Trong kết quả cuộc điều tra “Tìm hiểu ảnh hưởng của internet đối với học sinh, sinh
viên hiện nay” được thực hiện trên trên 647 học sinh, sinh viên do viện Văn hóa- Nghệ
thuật Việt Nam tổ chức cho thấy nhiều kết quả bất ngờ: Bài nghiên cứu này đề cập chủ
yếu về mục đích sử dụng internet của người sử dụng internet, tuy nhiên với đề tài là
“Đánh giá năng lực sử dụng công nghệ” nên tác giả cũng đưa những thông tin này nhằm
thể hiện rõ hơn việc sử dụng công nghệ của sinh viên Việt Nam.
Phan Anh Tài (2014), đưa ra quan niệm riêng về một số vấn đề nghiên cứu, như:
năng lực, năng lực giải quyết vấn đề, các thành tố của năng lực và đánh giá năng lực giải
quyết vấn đề, và đề xuất hướng tiếp cận quá trình giải quyết vấn đề, trên cơ sở đó xác
định các thành tố của năng lực giải quyết vấn đề và xây dựng các tiêu chí, thang đo để
xác nhận các mức độ năng lực giải quyết vấn đề. [17].
3.

Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chính:
Đánh giá năng lực sử dụng cơng nghệ của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – ĐHQGHN trong học tập trực tuyến trong bối cảnh dịch Covid – 19.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu, các cơng trình nghiên cứu làm rõ các khái niệm và tiêu chí
đánh giá năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên, xây dựng bảng hỏi và khảo sát với
đối tượng là sinh viên trường đại học KHXH&NV, ĐHQGHN.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả khảo sát về thực trạng năng lực sử dụng
công nghệ của sinh viên trường đại học KHXH&NV, ĐHQGHN cùng những nhân tố tác
động đến năng lực đó.


- Đưa ra định hướng giải pháp nhằm nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của sinh
viên
4.

4.1.

Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chính:
Sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN trong học tập
trực tuyến trong bối cảnh dịch Covid – 19 như thế nào?
4.2.

Câu hỏi nghiên cứu bổ trợ:

- Năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại học KHXH&NV, ĐHQGHN
có sự khác nhau như thế nào ?
- Những nhân tố nào ảnh hướng đến năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên
trường đại học KHXH&NV, ĐHQGHN ?
5.
-

Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu, cơng trình nghiên cứu về nhận diện, đánh
giá các nền tảng, ứng dụng học tập mà sinh viên của trường đã sử dụng (UPM Elearning,

-

Zoom.us, Microsoft Team, LMS,…)
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: xây dựng hệ thống các câu hỏi trong bảng hỏi để

-

làm cơ sở đưa ra những đánh giá về năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên.
Phỏng vấn sâu: đặt câu hỏi, đưa ra tình huống để tìm hiểu được những thái độ, hành

động từ các đối tượng tham gia phỏng vấn. Đối tượng phỏng vấn gồm 05 sinh viên trong
đó có 03 nữ, 02 nam về những khó khăn khi học tập trực tuyến qua các nền tảng ứng
dụng học tập và cách khắc phục nó.

6.

Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Sinh viên và giảng viên trường Đại học KHXH &

-

NV, ĐHQG Hà Nội
Không gian: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN
Thời gian: Từ 25/08/2021 đến 10/08/2021 (trong vòng 15 ngày)
Nội dung nghiên cứu: Năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trong việc học tập trên

-

các nền tảng online trong mùa dịch Covid – 19
Số phiếu : 80/95 hợp lệ


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG HỌC TẬP
TRỰC TUYẾN CỦA SINH VIÊN VÀ DỊCH COVID 19
1.3.
Hệ khái niệm
1.3.1. Năng lực

Năng lực (Competency) được hiểu là kiến thức, kỹ năng, khả năng và hành vi mà

người lao động cần phải có để đáp ứng yêu cầu công việc, và là yếu tố giúp một cá nhân
làm việc hiệu quả hơn so với những người khác.
Còn với F. Weinert cho rằng, “năng lực là những kỹ năng kỹ xảo học được hoặc có
sẵn của cá thể nhằm giải quyết được những tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về
động cơ, xã hội và khả năng vận dụng để giải quyết các vấn đề một cách có trách nhiệm,
hiệu quả trong những tình huống linh hoạt” [1]
Theo Joe Bolger - Tư vấn của cơ quan phát triển quốc tế Canada trong bài: “Phát
triển năng lực- tại sao? Phát triển cái gì và phát triển như thế nào?”. Năng lực được hiểu
là “Khả năng, kỹ năng, sự hiểu biết, thái độ, các giá trị các mối quan hệ, hành vi, động
lực, nguồn lực, và điều kiện cho cá nhân tổ chức, ngành nghề và hệ thống xã hội rộng lớn
hơn để thực hiện các chức năng và đạt được các mục tiêu của họ theo thời gian.[2]
1.3.2. Công nghệ

Theo Wikipedia, công nghệ (tiếng Anh: Technology) là sự phát minh, sự thay đổi,
việc sử dụng, và kiến thức về các cơng cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ
thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn
tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể đòi hỏi hàm lượng chất xám
cao.
Ở Việt Nam, trước đây thường có quan niệm cho rằng “công nghệ” là kiến thức, kết
quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lời”.
Tuy nhiên, cách phổ biến nhất hiện nay, phù hợp với các quan điểm, chính sách phát triển


và quản lý cơng nghệ, và nhóm tác giả sẽ sử dụng trong nghiên cứu này là khái niệm về
công nghệ đã được quy định tại Luật Khoa học và Công nghệ 2013: “Công nghệ là tập
hợp các phương pháp, quy trình kỹ năng, bí quyết, cơng cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm…” [3]
1.3.3. Học trực tuyến

Theo wikipedia tiếng việt học trực tuyến là là phương thức học ảo thông qua một

thiết bị nối mạng đối với một máy chủ ở nơi khác có lưu giữ sẵn bài giảng điện tử và
phần mềm cần thiết để có thể hỏi/yêu cầu/ra đề cho học sinh học trực tuyến từ xa. Giáo
viên có thể truyền tải hình ảnh và âm thanh qua đường truyền băng thơng rộng hoặc kết
nối không dây (WiFi, WiMAX), mạng nội bộ (LAN). Mở rộng ra, các cá nhân hay các tổ
chức đều có thể tự lập ra một trường học trực tuyến (e-school) mà nơi đó vẫn nhận đào
tạo học viên, đóng học phí và có các bài kiểm tra như các trường học khác.[4]
Khái niệm học trực tuyến được dùng như một thuật ngữ chỉ môi trường học tập mà
trong đó, người học có thể tương tác với mơi trường học tập thông qua Internet hoặc các
phương tiện truyền thông điện tử khác. Đây là mơi trường có khả năng chia sẻ cao, vận
hành không phụ thuộc vào không gian, thời gian, tạo điều kiện để mọi người trao đổi, tìm
kiếm, học tập một cách dễ dàng. Việc học khơng chỉ bó hẹp cho học sinh, sinh viên ở các
trường mà dành cho tất cả mọi người, không kể tuổi tác, hoàn cảnh sống…[5]
1.3.4. Dịch Covid 19

Theo cuốn 100 câu hỏi đáp về dịch covid của Học Viên Quân Y được cập nhật vào
ngày 17/02/2020 tại văn phòng Hội y học Thành Phố Hồ Chí Minh cho rằng Dịch Covid19 viết tắt của cụm từ “Coronavirrus disease 2019”, là dịch bệnh do virus corona gây ra
và xuất hiện lần đầu năm 2019. Dịch bệnh này xuất hiện đầu tiên ở thành phố Vũ Hán,
tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, trong đó nhiều người cùng bị viêm đường hô hấp cấp. Tác
nhân gây bệnh sau đó được xác định là một chủng mới của virus Corona.
Vấn đề gọi tên dài dòng, phức tạp và khó phát âm (nhất cụm từ “2019-nCoV”)
khơng chỉ xảy ra trong tiếng Việt mà ngay cả trong các ngơn ngữ quốc tế khác. Bên cạnh
đó, chủng virus này cịn được một số phịng thí nghiệm khác ký hiệu là SARS-CoV-2.
Sau khi thống nhất các chuyên gia toàn cầu, ngày 11 tháng 02 năm 2020, Tổ chức Y tế


Thế giới (WHO) đã chính thức gọi tên bệnh này là Covid-19 (viết tắt của cụm từ
“Coronavirrus disease 2019”) với ý nghĩa là bệnh do virus Corona gây ra và xuất hiện lần
đầu năm 2019. Phương thức đặt tên mới này cũng được WHO xác định làm công thức
chuẩn để đặt tên những bệnh mới khác có thể xuất hiện trong tương lai, trong đó có quan
tâm cả vấn đề dễ phát âm, Phiên bản 1.0 Cập nhật ngày 17 tháng 02 năm 2020...[10]

1.4.
Vai trò của học tập trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh
1.4.1. An ninh xã hội

Trước tình hình dịch bệnh phức tạp việc triển khai học tập trực tuyến đã tuân thủ
theo quy định giãn cách xã hội của Nhà nước theo phương châm “Yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, ai ở chỗ nào, ở yêu chỗ đó”. Điều đó đã giúp đảm bảo sức khỏe của cộng đồng cũng
như góp phần kiểm sốt dịch bệnh.
1.4.2.

Giáo dục
Việc tiến hành học tập trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh đã giúp nền giáo dục vận
hành đúng tiến trình đào tạo đã vạch ra trước đó. Q trình giảng dạy và học tập của
giảng viên, học sinh, sinh viên vẫn được diễn ra đúng và đủ chương trình.
Trau dồi kỹ năng sử dụng công nghệ cho giảng viên cũng như học sinh, sinh viên,
họ được học tập và sử dụng thanh thạo các phần mềm học tập. Các bạn học sinh, sinh
viên học thêm cách làm việc nhóm khi khơng thể gặp mặt, biết sắp xếp thời gian học
online, làm việc nhóm với việc gia đình
Khơng chỉ dừng lại ở đó, việc tiến hành học tập trực tuyến đã mở ra cho nền giáo
dục một cánh cửa mới với phương thức đào tạo trực tuyến, là nền tảng để phát triển
những chiến lược giáo dục mới.

1.4.3.

Kinh tế
Chúng ta không thể phủ nhận rằng việc học trực tuyến đã tiết kiệm một khoản
tương đối lớn cho người dạy và người học như chi phí đi lại, chi phí cơ sở vật chất điện
nước cắt giảm dẫn tới học phí của học sinh, sinh viên cũng giảm đi phần nào. Khơng chỉ
có vậy, các doanh nghiệp viễn thơng cũng đã nhanh chóng tung ra các gói hỗ trợ người
dạy, người học nhằm thu hút khách hàng, nâng cao thương hiệu như: Công ty cổ phần

FPT đã cung cấp giải pháp VioEdu - trợ lý học tập sử dụng AI, đang hỗ trợ khá hiệu quả


cho các trường, thầy cơ và học sinh vì có thể học và làm bài tập online trong thời gian
học sinh nghỉ học vì dịch nCoV. Cịn với VNPT thì đã đưa ra chương trình miễn phí elearning cho tất cả các trường học, giúp thầy trị có thể dạy và học từ xa, trao đổi sách vở
bài giảng, giao bài tập và chấm điểm cho học sinh…Từ đó sẽ hứa hẹn đem lại doanh thu
lớn cho các nhà mạng.
1.4.4.

Xã hội
Việc học tại nhà đã khiến cha mẹ hiểu hơn về quá trình học tập của mình cũng như
con cái có thể giúp cha mẹ những cơng việc nhà đơn giản điều đó khiến tình cảm gia đình
thêm khăng khít, gắn bó.
Đồng thời, khi việc học online trở nên phổ biến thì cả những người khơng học tập
cũng đã quen thuộc với cụm từ “học online” để rồi họ có một tâm lý sẵn sàng ứng biến
với mọi tình hình phức tạp của dịch bệnh.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CỦA SINH
VIÊN Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
2.1.

Thực trạng năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn
Qua quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất xây dựng các tiêu chí đánh giá năng

lực sử dụng cơng nghệ phù hợp với đối tượng khảo sát bao gồm 03 tiêu chí đánh giá:
Năng lực tiếp nhận công nghệ, năng lực vận hành công nghệ, năng lực khai thác và xử lý
thông tin.
2.1.1. Năng lực tiếp nhận công nghệ
Biểu đồ 2.1: Độ tuổi tiếp xúc với các nền tảng cơng nghệ

Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện, 2021
Qua phân tích nhận thấy có đến 66,7% đối tượng tham gia khảo sát (58/115 người)
tiếp xúc với nền tảng công nghệ từ cấp trung học cơ sở (trên 11 đến 15 tuổi); ngồi ra có
đến 34,5% (30/115 người) tiếp xúc với nền tảng công nghệ từ cấp tiểu học (Từ 7 đến 11
tuổi). Như vậy có thể thấy, đối tượng tham gia khảo sát có cơ hội được tiếp xúc với nền


tảng công nghệ từ sớm, đây điều kiện để nắm bắt những xu hướng công nghệ mới trên
thế giới và tơi luyện cho mình năng lực sử dụng cơng nghệ một cách thuần thục.

Biểu đồ 2.2: Thời gian trải nghiệm học tập trực tuyến qua các nền tảng ứng dụng học
tập online
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện, 2021
Qua phân tích số liệu với 4 nền tảng học tập trực tuyến là UPM E learning, LMS,
Zoom.us, Microsoft Team (những nền tảng được sử dụng để giảng dạy và học tập tại
trường đại học KHXHNV, ĐHQGHN), thời gian trải nghiệm của đối tượng tham gia
khảo sát chiếm tỉ trọng lớn nhất là 41,4% với khoảng thời gian là từ 3 đến 6 tháng;
khoảng thời gian trải nghiệm dưới 3 tháng chiếm 35,65% và khoảng thời gian từ 6 đến 12
tháng chiếm 28,75%.

Biểu đồ 2.3: Biểu đồ đánh giá mức độ thuận tiện khi sửa dụng cho học tập của
các nền tảng, ứng dụng


Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện, 2021
Trong q trình học tập trực tuyến, người tham gia khảo sát đã nhận được sự hỗ
trợ cơng nghệ từ giảng viên, gia đình và bạn bè, đặc biệt là sự hỗ trợ từ bạn bè (92,4%) và
sự hỗ trợ từ giảng viên (88,1%).
Tuy nhiên, khi được khảo sát câu hỏi về hình thức học tập hiệu quả nhất với bản
thân, thì chỉ có 6 trên 115 đối tượng (5,2%) lựa chọn hình thức thức học tập trực tuyến.

Có đến 66,1% (76/115) người tham gia khảo sát lựa chọn hình thức học trực tiếp trên
giảng đường đem lại hiệu quả hơn, còn lại là ý kiến khác.
Biểu đồ2. 4: Biểu đồ thể hiện lựa chọn hình thức học tập hiệu quả nhất của đối
tượng nghiên cứu
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện, 2021
Như vậy có thể nhận định rằng, khoảng thời gian từ 3 đến 12 tháng là phù hợp để
người học có thể tiếp nhận và thích nghi, sử dụng được các nền tảng trên cho việc học.
Mặc dù vậy, tỉ trọng lựa chọn hình thức học tập học truyền thống trên giảng đường vẫn
chiếm đa số. Có thể vì nhiều ngun nhân khác nhau nhưng từ đó đã phản ánh được khả
năng tiếp nhận và thích nghi với cơng nghệ, với tính mới cịn chưa được cao.
Vì vậy, có thể đánh giá năng lực tiếp nhận công nghệ của sinh viên đại học
KHXH&NV, ĐHQGHN đã được tạo điều kiện để phát triển tương đối sớm. Tuy nhiên
đối với việc tiếp nhận các nền tảng ứng dụng học tập trực tuyến thì sinh viên lại có thời
gian tiếp cận ít và chưa mấy chủ động trong việc tìm hiểu, hứng thú với phương thức học
tập qua các nền tảng ứng dụng trực tuyến này.
2.1.2. Năng lực vận hành cơng nghệ

Khi đã có thời gian tiếp nhận, trải nhiệm nền tảng cơng nghệ nói chung và các nền
tảng học tập trực tuyến nói riêng, người sử dụng sẽ có cho mình những năng lực vận hành
cơng nghệ khác nhau, trong đó bao gồm năng lực sử dụng, kiểm tra kĩ thuật và vận hành
ổn định.
Qua nghiên cứu, khi được hỏi về mức độ thuận tiện của người học khi sử dụng các
nền tảng học tập trực tuyến khác nhau là UPM E learning, LMS, Zoom.us, Microsoft
Team thì phần lớn các nền tảng được người học đánh giá mức độ thuận tiện từ trung bình


đến khá thuận tiện. Điều đó chứng tỏ, sinh viên vẫn cịn gặp khó khăn, lúng túng khi sử
dụng và khai thác các chức năng của ứng dụng nền tảng đang học tập, phản ánh được
năng lực sử dụng thuần thục các nền tảng công nghệ cho học tập của sinh viên vẫn chỉ ở
mức trung bình và khá. Với bốn nền tảng ví dụ được đưa ra thì hệ thống học tập trực

tuyến UPM và nền tảng Zoom.us được nhiều người đánh giá cao về sự thuận tiện, cao
nhất là Zoom.us với mức đánh giá khá thuận tiện là 59 phiếu, rất thuận tiện là 10 phiếu;
với hệ thống UPM E learning đánh giá mức độ thuận tiện là 43 phiếu và rất tuận tiện là 8
phiếu.

Biểu đồ 2.5: Biểu đồ thể hiện đánh giá mức độ thuận tiện khi sử dụng cho học
tập của các nền tảng, ứng dụng
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện, 2021
Để làm rõ hơn về năng lực sử dụng, kiểm tra kĩ thuật và vận hành ổn định các nền
tảng học tập trực tuyến, nhóm tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với 5 mẫu
khảo sát cùng bộ câu hỏi tình huống về năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên. Bộ
câu hỏi được đặt ra bao gồm câu hỏi tình huống về xử lý kĩ thuật khi quá trình học tập
trực tuyến bị gián đoạn với các lí do khách quan và lỗi kĩ thuận như: hỏng hóc thiết bị
truy cập, vấn đề đường truyền, lỗi hệ thống,… Có hơn 80% câu trả được phỏng vấn cho
rằng họ liên hệ bạn bè, gia đình và thầy cơ để giúp đỡ. Số còn lại lựa chọn bị động chờ
vấn đề được giải quyết, tuy nhiên vẫn có sự khác nhau giữa các câu trả lời:
“Phần lớn khi gặp vấn đề về kĩ thuật trong lúc truy cập các nền tảng học tập trực
tuyến, tơi sẽ hoang mang và có chút lo sợ vì trong q trình học có thể bị điểm danh hoặc
gọi tên để trả lời câu hỏi, nếu vắng mặt sẽ bị trừ điểm chuyên cần. Vì vậy sinh viên chúng
tôi thường chủ động nhờ sự giúp đỡ của người thân, bạn bè, chọn truy cập bằng thiết bị
khác hoặc di duyển đến một môi trường học tập khác đủ điều kiện về đường truyền để
nhanh chóng truy cập vào lớp học. Tơi sẽ khơng lựa chọn tìm hiểu vấn đề, cũng khơng có
khả năng cho việc tự sửa chữa những lỗi kĩ thuật phức tạp khác”
(PVS số 1, Nữ, 20 tuổi, Sinh viên năm hai)


“Em thấy em và những người bạn của em đều rất kém trong xử lý các vấn đề về kĩ
thuật nói chung. Thường thì các bạn nam và các bạn khối ngành tự nhiên hay kĩ thuật sẽ
giỏi những việc này hơn. Nhiều lúc gặp vấn đề khác về công nghệ hay gặp lỗi kĩ thuật
trong quá trình học chúng em cũng khơng tự xử lý được, chỉ có thể nhờ giúp đỡ hoặc nếu

khơng có ai giúp thì chấp nhận vắng mặt buổi học đó”
(PVS số 2, Nam, 18 tuổi, Sinh viên năm nhất)
Nhìn chung, năng lực vận hành công nghệ của sinh viên trường ĐHKHXH&NV
trên các nền tảng, ứng dụng học tập ở mức tương đối. Tuy nhiên khả năng nhạy bén trong
xử lý vấn đề kĩ thuật, xử lý tình huống để vận hành ổn định cịn hạn chế. Kiến thức, kĩ
năng và kinh nghiệm xử lý vấn đề công nghệ - kĩ thuật chưa được tốt.
2.1.3. Năng lực khai thác và xử lý thông tin

Năng lực khai thác và xử lý thông tin là một trong những tiêu chí quan trọng để
đánh giá năng lực sử dụng cơng nghệ của sinh viên. Điều đó xuất phát từ việc các cá
nhân biết tìm kiếm, khai thác xử lý và áp dụng các thông tin được đăng tải trên các kênh
kỹ thuật số, các kênh truyền hình, trang web, đặc biệt là các nguồn học liệu chính thống
để phục vụ học tập và nâng cao vốn kiến thức, kỹ năng, tận dụng các lợi ích mà cơng
nghệ đem lại.
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ thể hiện nguồn tìm kiếm tài liệu học tập của đối tượng
khảo sát
Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện, 2021
Biểu đồ chỉ ra rằng, phần lớn sinh viên lựa chọn tìm kiếm tài liệu học tập qua
những nguồn tài liệu tham khảo trên mạng Internet (chiếm 94,7%). Bên cạnh đó sinh viên
vẫn tìm kiếm vào các tài liệu học tập qua những phương tiện truyền thống như thư viện,
từ giảng viên, anh chị, bạn bè,… Qua đó có thể nhận thấy được rằng, phần lớn sinh viên
thường tìm kiếm các nguồn tại liệu qua Internet thế nhưng việc tìm tài liệu trên Google
Scholar - một trang tài liệu chính thống thì chỉ chiếm số lượng ít. Việc tiếp nhận tài liệu
học tập nghiên cứu của sinh viên trên Thư viện điện tử của ĐHQG cũng chiếm tỷ lệ rất ít
trong khi đây là nguồn tài liệu từ thư viện được hóa số, rất thuận tiện cho các bạn sinh


viên tra cứu. Điều đó chứng tỏ rằng, năng lực khai thác và xử lý thông tin của sinh viên
trường đại học KHXH&NV, ĐHQGHN rất rộng, biết tận dụng nhiều nguồn, nhiều kênh
thông tin khác nhau nhưng chuyên sâu về khai thác – xử lý thơng tin vẫn cịn hạn chế,

chưa chuyên sâu và hiệu quả.
Tóm lại, năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại học KHXH&NV,
ĐHQGHN chỉ ở mức tương đối tốt. Việc tiếp nhận, vận hành các nền tảng ứng dụng học
tập trực tuyến còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó việc khai thác và xử lý thông
tin cũng chưa được hiệu quả và ổn định.
2.2.

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả năng lực sử dụng công nghệ của sinh
viên trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong học tập trực tuyến qua các
nền tảng ứng dụng trong bối cảnh dịch Covid – 19

2.2.1. Nhân tố bên trong

Khảo sát đã cho thấy thời điểm các bạn tiếp nhận công nghệ phần lớn ở độ tuổi
phù hợp là 12 – 15 tuổi, đó là nhân tố gián tiếp tạo điều kiện cho người được khảo sát có
cơ hội được làm quen và sử dụng công nghệ từ rất sớm. Bên cạnh đó là khoảng thời gian
tiến hành học tập trực tuyến, sinh viên đã được tiếp cận và sử dụng các ứng dụng nền
tảng học tập dựa trên các kỹ năng có sẵn vì vậy năng lực tiếp nhận công nghệ của sinh
viên trường ĐHKHXHNV ở mức tương đối tốt.
Tuy nhiên do xuất phát từ nhiều vùng miền khác nhau, điều kiện sống và nền tảng
công nghệ khác nhau. Thế nên có những bạn đã rất thành thạo với việc sử dụng cơng
nghệ thì vẫn cịn nhiều bạn gặp bỡ ngỡ, lúng túng trong việc thực hiện các thao tác công
nghệ. Chưa kể đến nhiều bạn sinh viên cịn khơng nghiên cứu, tìm hiểu về các ứng dụng,
tiếp nhận vận hành chúng, khai thác thông tin từ nền tảng số. Đó là nguyên nhân dẫn đến
nâng lực của mỗi sinh viên có sự khác nhau.
2.2.2. Nhân tố bên ngồi
• Ảnh hưởng của sự phát triển cơng nghệ trên thế giới: Hình thức học tập trực tuyến qua
các ứng dụng hay nền tảng Internet không phải quá mới lạ đối với xã hội hiện nay, đặc
biệt đi kèm với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Những phát mình đột
phá của khoa học và cơng nghệ là điều kiện thuận lợi để sáng tạo ra những thiết bị hay



các ứng dụng hữu ích, giúp đỡ nhiều cho con người, trong đó có sinh viên với cơng cuộc
học tập nghiên cứu của mình.
• Mơi trường ứng dụng năng lực sử dụng cơng nghệ: Mơi trường học tập có sự biến đổi từ
hình thức học tập truyền thống trên giảng đường nay phải thay đổi sang học trực tuyến
qua ứng dụng và nền tảng đã làm khơng ít sinh viên gặp khó khăn. Qua phỏng vấn, các
bạn sinh viên phản ánh rằng những khó khăn gặp phải phần lớn do tác động bởi yếu tố
bên ngoài như đường truyền, kĩ thuật và thiết bị và cả năng lực của bản thân còn hạn chế,
thiếu kinh nghiệm, kĩ năng,... Nếu các bạn không chủ động nâng cao năng lực tiếp nhận,
vận hành cơng nghệ, các bạn sẽ khơng thích nghi được với sự thay đổi mơi trường học
tập đó. Những yếu tố về môi trường và điều kiện học tập cũng như yêu cầu của việc làm
tương lai đã ảnh hưởng rất lớn đến năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
• Đặc thù ngành nghề: Các khối ngành đào tạo tại trường ĐHKHXH&NV phần lớn là
những ngành thiên về hàm lâm, nghiên cứu chuyên sâu chứ không mang các yếu tố máy
móc, các thao tác kĩ thuật như các khối ngành tự nhiên, công nghệ thông tin. Đây là một
nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên ban Xã hội..
2.3.
Đánh giá chung về năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn trong học tập trực tuyến qua các nền tảng ứng
dụng trong bối cảnh dịch Covid – 19.
Năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường ĐHKHXHNV nhìn chung ở
mức tương đối tốt. Trong đó có năng lực tiếp nhận là tốt nhất, khi sinh viên tiếp cận một
cách nhạy bén với các ứng dụng, nền tảng học trực tuyến. Khả năng khai thác và xử lý
thông tin được đánh giá ở mức khá mặc dù sinh viên biết tìm kiếm thông tin trên các nền
tảng số thế nhưng vẫn chưa mấy quan tâm đến các kênh, ứng dụng thông tin chính thống.
Tuy nhiên năng lực vận hành cịn nhiều hạn chế trong vấn đề kiểm tra kỹ thuật, sự cố.
Năng lực sử dụng công nghệ của sinh viên trường ĐHKHXHNV cũng có sự khác
nhau giữa các nhóm đối tượng như sinh viên chun ngành thực tế, du lịch, truyền thơng

thì đa phần có năng lực sử dụng cơng nghệ tốt hơn các sinh viên chuyên ngành nghiên
cứu chuyên sâu, hàn lâm khác. Hay giữa sinh viên các khóa K63, K64 khi được tiếp cận


với các nền tảng, ứng dụng học tập trực tiếp sớm hơn các bạn sinh viên K5 thì về năng
lực tiếp nhận có phần chiếm ưu thế hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngô Thị Nụ, (2018) Luận án tiễn sĩ, Chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. “Vấn đề phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay”. Chương I (I); tr 6-12.
[2] Ngô Thị Nụ (2016), Luận án tiến sĩ “Phát triển năng lực trí tuệ con người - một số
vấn đề lý luận”, Tạp chí Giáo dục và xã hội. Tập II (1); tr 11-18.
[3] Tham khảo ở Wikipedia (Bách Khoa Toàn Thư Mở): Truy cập từ
/>%20ngh%E1%BB%87%20.
[4] Nguyễn Đăng Dậu, Nguyễn Xuân Tài, (2007); Giáo trình “Quản lý công nghệ” Phần
(I), tr 7-15, Bộ môn Quản lý công nghệ, NXB ĐH Kinh tế Quốc dân; Hà Nội.
[5] Tổ hợp giáo dục Topical (2014) - Chương trình đào tạo từ xa- Trường Đại Học Kinh
Tế Quốc Dân; “Bài 1: Khái qt về cơng nghệ”; Phần (1), tr 3-8.
[6] Trích từ Wikipedia, Phần Khái Niệm: />%E1%BB%A5c_tr%E1%BB%B1c_tuy%E1%BA%BFn#:~:text=Gi%C3%A1o%20d
%E1%BB%A5c%20tr%E1%BB%B1c%20tuy%E1%BA%BFn%20.
[7] Nhóm tác giả: TS. Võ Thị Như Uyên Khoa Cơ khí làm chủ nhiệm, Các tác giả nghiên
cứu gồm có: ThS. Trần Anh Sơn, TS. Nguyễn Xuân Chung, TS. Nguyễn Thị Hương
Giang và PGS.TS Lê Huy Hồng; (31/05/2019); Trích từ đề tài: “Xây dựng bài giảng Elearning học phần Vẽ kỹ thuật tại trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội”; Phần (II), tr 2736. Công bố tại Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội.
[8] Tổ hợp giáo dục Topical (2014) - Chương trình đào tạo từ xa- Trường Đại Học Kinh
Tế Quốc Dân; “Bài 05: Năng Lực Công Nghệ”; Phần (5), tr 71-93.
[9] “Đánh giá công nghệ và năng lực công nghệ”; Chương(II), Phần (2), tr 20-26.
Link tại:
/>[10] Học Viên Quân Y, (17/02/2020); “Cuốn 100 câu hỏi đáp về dịch covid” Công bố tại

văn phịng Hội y học Thành Phố Hồ Chí Minh.
[11] Nguyễn Đăng Dậu, Nguyễn Xuân Tài (2007); Giáo trình “Quản lý công nghệ”, tr 73;
NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.


[12] Nguyễn Tấn Đại, & Marquet P. (2019). “Năng lực công nghệ số của sinh viên đáp
ứng nhu cầu xã hội: Nghiên cứu mơ hình ứng dụng sơ khởi tại Việt Nam”, Phần (5), tr
24-38; Tạp chí Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chính Minh.
[13] Nguyễn Hồng Liên, (03/2019), “So sánh các phương pháp đánh giá năng lực công
nghệ cho các doanh nghiệp, các ngành kinh tế”, Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ,
Hà Nội.
[14] Nguyễn Thị Hương Giang (2016), “Công nghệ DH trực tuyến dựa trên phong cách
học tập”, Phần (2), tr 34; Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Hà
Nội.
[15] Nguyễn Thị Kim Chi (2017), Phần (2), tr 37; “Quản lý phát triển chương trình giáo
dục nhà trường phổ thông theo tiếp cận năng lực”. Luận án Tiến sĩ khoa học Giáo dục;
Đại học Giao Dục, Hà Nội.
[17] Vũ Trọng Nghị (2010), “Đánh giá kết quả học tập của sinh viên cao đẳng kỹ thuật
công nghiệp dựa trên năng lực thực hiện qua mơn tin học văn phịng”. Luận án tiến sĩ lý
luận và lịch sử giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[18] Phan Anh Tài (2014), "Đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của học sinh trong dạy
học Toán lớp 11 THPT". Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Viện Khoa học Giao Dục Việt
Nam.


PHỤ LỤC




×