Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.28 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BÀI THẢO LUẬN
MƠN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC

� HÀ NỘI – 2020�
LỜI CẢM ƠN


Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm 2 đã hồn thành đề tài
thảo luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc”
Đầu tiên, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn Th.s
Ngô Thị Huyền Trang đã giảng dạy, cung cấp cho chúng em những kiến thức, nội
dung để thảo luận. Những nhận xét, góp ý của cơ là những ý kiến q báu giúp nhóm
2 hồn thành chủ đề này.
Trong q trình thực hiện, khơng thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, vì
vậy, nhóm rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ cô và các bạn để rút kinh nghiệm
cho bản thân cũng như học hỏi và hoàn thiện kiến thức cịn thiếu sót.
Nhóm 2 xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2020
Nhóm thực hiện
Nhóm 2

MỤC LỤC
2



LỜI MỞ ĐẦU
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu
của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động
để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và
phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng
thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.

3


I.
I.1.

VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
Đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành cơng của cách mạng.

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng lồi người, nếu chỉ có tinh thần u nước
thì chưa đủ; cách mạng muốn thành cơng và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất
cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đồn kết dân tộc bền vững.
Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là vấn để có ý nghĩa
chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng, quyết định
thành cơng của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành
và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân
tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi
thành cơng: “Đồn kết là một lực lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn,
giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại

thành công”.
Thực tiễn cách mạng đã trả lời giữa đồn kết và thành cơng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau bởi phạm vi, mức độ, quy mô của thành công trước hết phụ thuộc vào chính
quy mơ và mức độ của khối đại đồn kết. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt
trận đúng đắn, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng khối đại
đồn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Hồ Chí Minh viết:
“Đồn kết trong mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách Mạng Tháng Tám
thành công, làm nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Đồn kết trong mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hịa
bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phóng Miền Bắc.
4


Đoàn kết trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong
công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc”.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…” và sự đồng lịng của
tồn dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc… ” đã phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc trong suốt 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ lâu dài,
gian khổ, để cuối cùng làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”.
Đặc biệt trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với khát vọng cháy
bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết.
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” đã được vận dụng một cách sáng tạo, phát
huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức phong phú trong điều kiện lịch sử mới. Trong

khói lửa ác liệt của chiến tranh, nhiều phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh
vực ở cả miền Nam và miền Bắc với khẩu hiệu hành động: “Quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ, xâm lược”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm
đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc khơng thiếu một cân, qn
khơng thiếu một người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị
đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua
vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất. Tất cả những hành động đó đã biểu thị tinh thần
đồn kết của toàn thể 31 triệu người dân Việt Nam xung quanh Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã huy động cao độ sức mạnh chính trị tinh
thần và nhân tài, vật lực to lớn lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ, để cuối cùng dốc sức cho thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975, kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. .
Có thể nói, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những
bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức, là chiến lược và cũng là điều kiện bảo đảm
thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tại Việt Nam.
I.2.

Đại đồn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và vì quần chúng. Đại đồn kết là u cầu
khách quan của sự nghiệp cách mang, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân
trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ được điều đó, Đảng cho
chỉ ra rằng đồn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết, sống còn đối với sự nghiệp
cách mạng, đồng thời là tơn chỉ, mục đích, là nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách
mạng cần hướng và đạt tới. Đại đoàn kết dân tộc cũng được coi không chỉ là nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, mà cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng.
5



Cách mạng muốn thành cơng nếu chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở
của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương
pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng,
tạo thực lực cho cách mạng.
�Nảy sinh nhu cầu đoàn kết và hợp tác trong quần chúng. Đại đoàn kết dân tộc là một
đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng dân tộc mình.
Với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng phải là chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là
mục tiêu lâu dài của cách mạng. Do đó, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người
u cầu khơng được có bất cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc. Xây dựng khối đại đồn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại trong nhận thức mà được
cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát triển của cách mạng, Người nói: “Ta
đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để
xây dựng nước nhà”. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là
một công việc hết sức hệ trọng, to lớn và vơ cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể
thành cơng khi quy tụ được sức mạnh đồn kết của tồn dân tộc vì đồn kết mới tạo
nên sức mạnh, tạo nên lực lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến thắng kẻ thù.
Thực tiễn đã được chứng minh trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt
Nam này 3 - 3 - 1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước tồn thể dân tộc:
“Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đồn kết toàn
dân, phụng sự tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở
cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng,
lắng nghe quần chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của
cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy: “Dễ trăm lần khơng dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong’’.
Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi là chưa đủ, cách mạng muốn
thành công và “thành công đến nơi," phải tập hợp tất cả các lực lượng, xây dựng được
khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ 19 bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước khơng đồn kết được thành
một khối thống nhất. Muốn cách mạng thành cơng phải có lực lượng cách mạng,
muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đồn kết.
Bác viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất
định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ
nhân dân giao phó cho chúng ta."
Khơng dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn
khẳng định nhiệm vụ của tồn Đảng là giữ gìn sự đồn kết. Trong Di chúc, Bác dặn lại
rằng "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng

6


chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình."
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ được xác định là mục
tiêu mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng, phải
được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt
động thực tiễn của Đảng. Trước cách mạng Tháng 8/1945 và trong kháng chiến :
nhiệm vụ tuyên huấn được đặt ra là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được những
việc sau: Là đoàn kết, là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi lại độc lập. Sau hiệp
định Giơnevơ, nhiệm vụ này vẫn tiếp tục đề cập đến đoàn kết nhưng thêm vào đó là
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.

II.
II.1.

LỰC LƯỢNG CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TỒN DÂN TỘC
Đại đồn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân


Đứng trên lập trường giai cấp cơng nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã
đề cập vấn để DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, tồn diện, có sức thuyết phục,
thu phục lịng người. Khái niệm dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa
được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo
quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của
khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Đây là một khái niệm có biên độ rộng lớn, chỉ chung “mọi con dân Việt Nam”“mỗi
một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín
ngưỡng hay khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt “già trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý
tiện” chỉ trừ bọn bán nước, hại dân, đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Nói đại đoàn kết dân tộc tức là phải tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người dân vào
một khối thống nhất, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tốn giáo,
lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, ở trong nước hay ở nước ngooài cùng hướng vào mục
tiêu chung. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói:”Đồn kết của ta khơng những rộng rãi mà
cịn đồn kết lâu dài…Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc;
ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng
sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ :
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải là đại đooàn kết đa số nhân dân mà đại đa số nhân
dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền tảng,
các gốc của đại đồn kết.
Vì vậy, chủ thể của khối đại đồn kết dân tộc ở đây chính là dân và nhân dân và đại
đoàn kết dân tộc chính là đại đồn kết tồn dân.
II.2.

Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc

7



Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai cấp, tầng lớp
cần phải đảm bảo những điều kiện sau đây
- Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
- Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người
- Phải có niềm tin vào nhân dân
II.2.1. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc

Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước trong hàng nghìn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm
sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua các thế hệ từ thời các vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, TRần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quan Trung…Trung thống đó là cội nguốn sức mạnh vơ địch để cả
dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được
trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
II.2.2. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người

Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu
điểm, khuyết điêm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có
lịng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người
mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: "Sông to, biển rộng bao
nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì
một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như
cái chén, cái đĩa cạn". Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,
nhưng cả năm ngón cùng thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện
đại đoàn kết. Người cho rằng: "Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên phải khoan hồng, đại
độ. Ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái
quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình nhân ái để cảm
hóa họ. Có như thế mới thành đồn kết, có đại đồn kết tương lai chắc chắn sẽ vẻ
vang".


II.2.3. Phải có niềm tin vào nhân dân
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của
nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc
"nước lấy dân làm gốc", "chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân", đồng thời là sự
quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Theo
Người, dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vơ tận và vơ địch của
khối đại đồn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nềngốc và chủ thể của Mặt
trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng
1-1955. Người chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết là phải đoàm kết đại đa số nhân
dân. mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nề, gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây.
Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác".
8


III.
III.1.

HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA KHỐI ĐẠI ĐOỒN KẾT TỒN DÂN
TỘC - MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
Mặt trận dân tộc thống nhất

Đại đoàn kết dân tộc biến thành sức mạng vật chết, trở thành lực lượng vật chất tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức, cá
nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân Việt, cả người trong nước và người nước
ngoài. Tùy vào từng thời kỳ và căn cứ vào nhiệm vụ của từng chặng đường cách
mạng, Mặt trân dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau như sau:
-


1930: Hội phản đế đồng minh
1936: Mặt trân dân chủ
1939: Mặt trân nhân dân phản đế
1941: Mặt trân Việt Minh
1946: Mặt trận Liên Việt
1960: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
1955-1976 (Miền Bắc): Mặt trận tổ quốc Việt Nam

�Dù tên gọi có thể khác nhau song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã
hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng
lớp, đan tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngồi
nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của tổ quốc, tự do và
hạnh phúc của nhân dân.
III.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trân dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh

cơng – nơng – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự,
chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
III.2.1. Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nơng dân – trí
thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trạn dân tộc thống nhất là nhằm tập
hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận là
khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nnền tảng khối liên minh giữa giai cấp công
nhân , giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây được coi là
nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, nó hồn

tồn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam
trong lịch sử, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ
được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong mặt trận. Người viết: “Lực lượng
chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là
nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên
9


minh cơng nơng làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm
cho xã hội sống. Vì họ đơng hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề nhất. Vì chí
khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”. Người căn dặn,
trong khi nhấn mạnh vai trị nịng cốt của liên minh cơng – nơng, cần chống lại
khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh cơng – nơng mà khơng thấy vai
trị và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với tầng lớp trí
thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đói với cách
mạng. Người nói: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và vẻ vang; và công – nông – trí cần
đồn kết chặt chẽ thành một khối”.
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc, song nó chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng
đói với mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho
mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Như vậy, Đảng vừa là thành
viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng khơng có lợi ích riêng mà gắn liền với lợi ích
của toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng lãnh đạo đối với mặt trận thể hiện ở khả năng nắm
bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường
lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của
mình là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp với độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội.
Để lãnh đạo mặt trận, Đảng phải có chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn, từng thời ký cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đại đa

số nhân dân. Người viết: “chính sách mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công
tác mặt trận là một công tác rất quan trọng trong tồn bộ cơng tác cách mạng”. Trong
quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, không được
quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên trong mặt trận; phải dùng phương pháp
vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lịng chân thành để đối xử, cảm hóa,
khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy quyền uy của mình để
buộc các thành viên khác trong mặt trận phải tuân theo.
III.2.2. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối

cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí Minh xác định củ thể, phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng đân tộc vào khối đại
đoàn kết. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ
sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng,
nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di, bất dịch, là ngọn cờ
đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn
giáo vào trong mặt trận. Tuy nhiên làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai
tầng nào, lực lượng nào trong mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết.
Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận,
mỗi người mới được thực hiện.
10


III.2.3. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương

dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ được hiểu là tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đưa ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí,
loại trừ mọi áp đặt hoặc dân chủ hình thức.

Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao
gồm nhiều tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau. Do vậy, hoạt động của
mặt trận đều phải được đưa ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai,
để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng
lãnh đạo mặt trận, nhưng cũng là một thành viên của mặt trận. Tất cả chủ trương,
chính sách của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước mặt trận, cùng với các
thành viên khác của mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp
tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi
các mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai cấp
cơng nhân, giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi
ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt…Phải làm cho tất cả các
thành viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải
đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với
lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tơn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ
phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của cách
mạng, thơng qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi
người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
III.2.4.

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ

Theo như Hồ Chí Minh, đồn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành viên
có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt, nên cần có sự bàn
bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy
cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; đồng thời Người cũng nêu rõ: “đoàn kết
phải gắn với đấu trang, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn
dặn mọi người cần phải khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều, địng thời phải có

tấm lịng nhân ái, khoan dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hịi, thiển cận, phải
nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa
tốt, nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người
viết: “Đồn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất
trí. Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước,
vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tồn dân cần đồn kết lâu dài,
đồn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.

11


IV.
IV.1.

Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Giá trị lý luận

Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được Hồ Chí Minh để ra từ rất sớm,
trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức
mạnh làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam, một đóng góp quan trọng vào lý
luận cách mạng thế giới. Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mac – Lênin
chưa đề cập vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy,đây là một đóng góp sáng tạo của
Người mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập tới một cách sâu sắc
và toàn diện. Điều này đã làm phong phú hơn lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về công
tác vận động và tổ chức quần chúng của Đảng Cộng Sản. Tư tưởng về đại đoàn kết
dân tộc mang giá trị lý luận cũng sự giá trị thực tiễn sâu sắc cho cách mạng Việt Nam
nói riêng và cách mạng thế giới nói chung.
IV.2.


Giá trị thực tiễn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam
đã và đang chứng minh sức sống kỳ diệu của tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh. Có
thể nói đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó
khăn thử thách để tiến tới mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Không những chỉ trong suốt quá trình đấu tranh giành lại độc lập cho
đất nước, đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc đã làm nên những thắng lợi vĩ
đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội mà đại đồn kết dân tộc
cũng góp phần lớn trong việc xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như
mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Thực tiễn tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh
trở thành ngọn cờ quy tụ tất cả mọi con dân nước Việt từ miền ngược tới miền xuôi, từ
nông thôn tới thành thị, từ rừng núi tới hải đảo vào Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo
nên sức mạnh vô địch đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1940, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, trong xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cũng trong suốt 90 năm thực
hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong hơn 30
năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của
sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh tiếp tục truyền sức mạnh vào sự nghiệp
đổi mới, quy tụ giai cấp công nhân giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân,
thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào
định cư ở nước ngoài. Đặc biệt, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân đã đóng được vai trị tập hợp, vận động,
đồn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh

tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng
12


thuận trong xã hội, tạo động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội xây dựng nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tiêu biểu như các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng do
Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện ngày càng đi vào
cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Trong đó, đồn kết giúp
nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành đùm lá rách, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân
dân, bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phịng, chống tội phạm, ma
túy, mại dâm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác cùng với cuộc vận động xã hội,
các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người
nghèo”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn
minh”, “Tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”… khơng chỉ có tác dụng thiết thực, tạo
nên sự gắn kết cộng đồng mà còn góp phần làm cho tư tưởng đại đồn kết tồn dân
tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước
nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
IV.3.

Vận dụng thực tiễn với cách mạng Việt Nam hiện nay

Trong điều kiện hiện nay, đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ chí Minh địi hỏi phải xây
dựng được một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, cán nộ, đảng viên
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; một chế độ thật sự do nhân dân là
chủ và làm chủ; một nhà nước thật sự của nhân dân, vì nhân dân; một hệ thống chính
trị có hiệu quả và hiệu lực thực tế. Với luật pháp, Đảng và nhà nước cần tiếp tục đổi
mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, hồn thiện chính sách dân tộc, chính sách

tơn giáo, chính sách đối với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt ở nước
ngoài, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường.

13


ĐỀ TÀI PHỤ
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ NHÀ NƯỚC
THỂ HIỆN QUYỀN LÀM
CHỦ CỦA NHÂN DÂN

14


15


Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận
thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư
tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng trong học thuyết Mác – Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao
mới vừa mang tính khoa học , vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Về quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trên ba phương diện:




1.

Nhà nước của dân
Nhà nước do dân
Nhà nước vì dân
Nhà nước của dân

Nhà nước của dân là Nhà nước tập trung mọi quyền lực thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước của dân được thể hiện:
Nhà nước phải là của tồn thể nhân dân mà khơng phải là của riêng giai cấp,
tầng lớp nào.
- Xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân
dân.
2. Nhà nước do dân
-

Nhà nước do dân lập tức là nhà nước do dân lập nên, dân ủng hộ, dân làm chủ
Nhà nước do dân tổ chức thông qua việc trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra các cơ quan
nhà nước. Các đại biểu do nhân dân bầu ra chỉ là những người được sự ủy quyền của
nhân dân nên chỉ là “công bộc”, là “đầy tớ” của dân.
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy Hồ Chí Minh
thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu,
làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức
trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình.
- Quyền tham gia xây dựng và quản lý nhà nước của dân được thể hiện:
● Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ

đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan

khác của nhà nước
● Nhân dân có thể trực tiếp làm việc trong các cơ quan nhà nước khi được bầu,
bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, qua đó trực tiếp nắm giữ và thực hiện quyền lực
nhà nước
● Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan đến
vận mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
● Nhân dân phê bình, xây dựng và giúp đỡ để Nhà nước ngày càng trong sạch,
vững mạnh hơn
16


3. Nhà nước vì dân

Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ cho lợi ích và đáp ứng tốt nhất những nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. “Vì con người, cho con người và bảo vệ con người” là
mục tiêu cao nhất của mọi chính sách, quy định của pháp luật và hoạt động của nhà
nước.
Nhà nước vì dân được thể hiện :
-

Nhà nước phải liêm chính, trong sạch, khơng có bất cứ một đặc quyền đặc lợi
nào, phải kiến tạo sự phát triển và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất
nước.

Người cán bộ cách mạng do dân chọn ra nên phải hết mình phục vụ cho lợi ích của
nhân dân, “thuyền bị lật mới biết sức dân mạnh như sức nước, nước có thể chở thuyền
nhưng nước cũng có thể lật thuyền”.
-

Cán bộ, cơng chức, viên chức nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo,

hướng dẫn nhân dân hoạt động nên phải luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy với
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Phải lắng nghe ý kiến và chịu sự giám
sát của nhân dân; phải thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ
tư, khơng đặc quyền đặc lợi.

Cán bộ, công chức, viên chức không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ
nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của
mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ
nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: "Tơi tuyệt nhiên không
ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng
bào ủy thác thì tơi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của
quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi rất vui lịng lui...
Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá,
trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, khơng dính líu
gì với vòng danh lợi".
Nhận rõ được tầm quan trọng của nhân dân cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị - xã
hội của nước. Vì vậy, quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ thống
quyền lực của đất nước. Trong hệ thống cấu trúc quyền lực nhà nước mới của nước ta
từ tháng 9/1945 đến nay đã được ghi vào 05 bản Hiến pháp là: tất cả mọi quyền lực
đều thuộc về nhân dân. Trong đó quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất
cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân được thể hiện
rõ trong 2 bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Người lãnh đạo soạn thảo. Cụ
thể như, tại Điều 32, Hiến pháp năm 1946 cũng từng viết "Những việc liên quan đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...". Thực chất đó là chế độ trưng
cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Thực tiễn hiện nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều
này được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam như tại Điều 6, Hiến pháp
17



(2013) có quy định: “Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua
các cơ quan khác.”

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo,NXB Chính trị Quốc
gia sự thật (2018)
[2] Slide bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh của trường ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
[3] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật

[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các năm 1946,2013
[5] Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Giáo trình Trường Đại học Luật Hà
Nội (2016), NXB Tư pháp.

19



×