Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Luận án tiến sĩ nhận thức luận trong duy thức học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 166 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THẮNG

NHẬN THỨC LUẬN TRONG DUY THỨC HỌC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THẮNG

NHẬN THỨC LUẬN TRONG DUY THỨC HỌC

Ngành: Triết học
Mã số: 9.22.90.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

HÀ NỘI - 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các tài liệu và số liệu trong luận án là trung thực, đảm
bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của luận án ..................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án .................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ..................................... 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ........................ 3
5. Đóng góp mới của luận án .................................................................... 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................... 4
7. Kết cấu của luận án ............................................................................... 4
Chƣơng 1: T NG QUAN T NH H NH NGHI N CỨU LI N QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN................................................................................. 5
1.1. Lƣợc khảo những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án................. 5
1.1.1 Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến nhận thức luận
Phật giáo ................................................................................................... 5
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến Duy thức học ............................. 8
1.1.3. Những nghiên cứu liên quan đến nhận thức luận trong Duy
thức học ................................................................................................... 14
1.1.4. Những nghiên cứu đánh giá ý nghĩa và vận dụng Duy thức học.. 19
1.2. Những kết quả được kế thừa và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu ...................................................................................................... 23
Chƣơng 2: NHẬN THỨC LUẬN, NHẬN THỨC LUẬN


PHẬT

GIÁO VÀ DUY THỨC HỌC....................................................................... 26
2.1. Nhận thức luận ....................................................................................... 26
2.2. Nhận thức luận Phật giáo ...................................................................... 33
2.2.1. Hoàn cảnh ra đời triết học Phật giáo và nhận thức luận trong
triết học Phật giáo ................................................................................... 33
2.2.2. Nhận thức luận Phật giáo qua các thời kỳ .................................... 37
2.3. Duy thức học và nhận thức luận trong Duy thức học ........................ 59
2.3.1. Khái quát về tác giả và kinh điển của Duy thức học .................... 59


2.3.2. Nhận thức luận trong Duy thức học .............................................. 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 69
Chƣơng 3: NHẬN THỨC LUẬN TRONG DUY THỨC HỌC - MỘT
SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN .............................................................................. 70
3.1. Thuyết Tám thức của Duy thức học ..................................................... 70
3.2. Bản chất nhận thức trong Duy thức học .............................................. 76
3.3. Đối tƣợng nhận thức trong Duy thức học ............................................ 78
3.4. Con đƣờng và phƣơng pháp nhận thức trong Duy thức học ............. 84
3.5. Tiến trình nhận thức trong Duy thức học............................................ 96
3.6. Mục đích của nhận thức và vấn đề Chân lý ...................................... 103
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 106
Chƣơng 4: NHẬN THỨC LUẬN TRONG DUY THỨC HỌC - GIÁ
TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA .................................................................. 108
4.1. Giá trị của nhận thức luận trong Duy thức học ................................ 109
4.1.1. Giá trị của nhận thức luận trong Duy thức học đối với lịch sử
triết học Phật giáo ................................................................................. 109
4.1.2. Lý luận nhận thức trong Duy thức học chứa đựng những yếu tố

riêng và biện chứng ............................................................................... 119
4.1.3. Lý luận nhận thức của Duy thức học góp phần nhận thức một
cách đầy đủ hơn về lý luận nhận thức của triết học Mác – Lênin và
Tâm lý học S. Freud .............................................................................. 127
4.2. Hạn chế của nhận thức luận trong Duy thức học ............................. 130
4.3. Ý nghĩa của nhận thức luận trong Duy thức học đối với đời sống xã
hội .................................................................................................................. 136
KẾT LUẬN .................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TR NH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LI N
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 161


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Lý luận nhận thức là học thuyết về bản chất và khả năng nhận thức của
con người, về nguồn gốc xuất hiện và phát triển của nhận thức cũng như về con
đường, cấp độ nhận thức và phương pháp nhận thức..., đây là một bộ phận căn
bản của triết học. Nhận thức luận còn là hệ thống quan niệm về ý thức, về mối
quan hệ giữa ý thức và vật chất và không tách rời tưởng triết học về con người.
Trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo, đến thế kỷ
thứ IV sau công nguyên, một trường phái mới thuộc giai đoạn Phật giáo Đại
thừa ra đời – Duy thức học. Với chủ trương: “vạn pháp duy thức” – tức xuất
phát từ “thức” để tiếp tục lý giải những nội dung tư tưởng của triết học Phật
giáo giai đoạn Nguyên thủy và Bộ phái, đặc biệt là những vấn đề liên quan
đến lý luận nhận thức, nhận thức luận của Duy thức học đã đưa đến cho con
người một nhận thức mới về sự giác ngộ qua hành trình tìm hiểu về Tâm. Con
đường này dường như khơng hề giống với lịch sử nhận thức của các trào lưu
triết học Ấn Độ, cũng như của phương Tây đương thời, trước đó, và cho đến

hiện nay. Những bổ sung của Duy thức học về lý luận nhận thức có vai trị
khơng chỉ hồn thiện hệ thống tư tưởng triết học về lý luận nhận thức một
cách nhất quán với Bản thể luận (Dun Khởi, Tính Khơng, Vơ Ngã) độc đáo
của riêng Phật giáo, mà còn bổ sung thêm hướng tiếp cận đa dạng cho lý luận
nhận thức trong triết học nói chung.
Điểm mới của Duy thức học là trình bày lý luận nhận thức qua học
thuyết Bát thức (tám thức). Duy thức học đã phân tích và hệ thống hóa một
cách chi tiết các vấn của lý luận nhận thức như: đối tượng của nhận thức, các
hình thái của nhận thức, cấp độ của nhận thức cũng như tiến trình nhận thức,
con đường nhận thức, khả năng nhận thức (chân lý). “Duy thức học đã phân
tích tâm lý con người một cách có hệ thống và rất chi tiết, mối quan hệ giữa năm
giác quan con người (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân) và sự vật (sắc, thanh, hương, vị,

1


xúc) cùng với tâm thể (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức). Ngồi
ra, cịn có giác quan thứ sáu (Ý), khi tiếp xúc với Pháp trần tạo ra Ý thức. Nó có
cơng năng nhận thức sự vật này hay sự vật khác và làm chủ cuộc sống của chúng
ta. Ngồi Thức thứ sáu cịn có Thức thứ bảy (Mạt na thức: khát vọng sinh tồn)
và Thức thứ tám (A lại da thức: chứa đựng chủng tử). Bao gồm những yếu tố
này là hoạt động sự sống tồn tại của một con người” [81, tr.9].
Ngày nay, nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI với những bước tiến
vượt bậc của khoa học – kỹ thuật, nhận thức của con người vì thế cũng phát
triển khơng ngừng. Tuy đã đoạn tuyệt dần với những xiềng xích của lễ giáo
hà khắc, con người trở nên tự do hơn, nhưng vẫn đang bị chi phối bởi nhiều yếu
tố như kinh tế, là suy nghĩ phải tìm kiếm lợi ích vật chất bằng mọi giá…Vì thế,
những vấn đề như phẩm chất đạo đức, hay ý nghĩa đích thực của đời sống, nhân
sinh… đang được đặt ra và cần thiết phải có câu trả lời đúng đắn.
Dẫu biết rằng lý luận nhận thức Duy thức học xây dựng chưa phải đã là

một phương pháp nhận thức tối ưu, tuy nhiên, xét ở một góc độ nhất định, nó
vẫn chứa đựng những giá trị và ý nghĩa đối với đời sống con người hiện nay.
Việc nghiên cứu nhận thức luận của Duy thức học sẽ giúp chúng ta nhìn nhận
đúng hơn những giá trị tích cực cũng như hạn chế của triết học Phật giáo, từ
đó có thể phát huy mặt mạnh và điều chỉnh mặt hạn chế của nó trong lý luận
nhận thức của nhân loại. Vì thế, bàn về nhận thức luận của Duy Thức học là
rất cần thiết đối với công tác nghiên cứu, giảng dạy triết học, đặc biệt là triết
học Phật giáo. Do đó, tác giả chọn: “Nhận thức luận trong Duy thức học” làm
đề tài luận án Tiến sĩ Triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ những nội dung chủ yếu
của vấn đề nhận thức trong Duy thức học Phật giáo, tìm hiểu giá trị, hạn chế
và ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của Phật giáo nói riêng, lý luận nhận
thức nói chung và đối với đời sống xã hội.

2


Trên cơ sở mục đích đó, người nghiên cứu đặt ra nhiệm vụ là:
+ Khái qt những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
+ Khái quát chung về nhận thức luận và nhận thức luận Phật giáo.
+ Khái quát sự ra đời của Duy thức học Phật giáo.
+ Phân tích nội dung lý luận nhận thức của Duy thức học.
+ Đánh giá giá trị và hạn chế của nhận thức luận Duy Thức học đối với
triết học Phật giáo và đối với nhận thức luận của nhân loại (so sánh).
+ Đánh giá ý nghĩa của nhận thức luận Duy Thức học đối với đời sống
xã hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
it


ng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những nội

dung chủ yếu của nhận thức luận Phật giáo, đặc biệt là những nội dung của
nhận thức luận trong Duy thức học.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung nhận thức
luận của Duy Thức học qua những tác phẩm kinh điển và những tài liệu có
liên quan đến hệ thống triết học Phật giáo. Đặc biệt là hai trước tác Duy Thức
Tam Thập Tụng (của Thế Thân) và Bát Thức Quy Củ Tụng (của Huyền
Trang), cùng một số tài liệu gốc và thứ cấp đã được biên soạn hoặc biên dịch
bằng tiếng Việt.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án là thế giới quan, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm cơ bản
của Đảng, Nhà nước về khai thác các giá trị văn hóa tư tưởng tích cực của tơn giáo.

Ph ơng pháp nghiên cứu của luận án là phép biện chứng duy vật trong
triết học Mác - Lênin. Bên cạnh đó, luận án vận dụng nghiên cứu liên ngành
triết học với sử học, văn bản học, chú giải học... Để giải quyết các nhiệm vụ
của luận án, chúng tôi kết hợp sử dụng các phương pháp chung của khoa học
xã hội như phân tích và tổng hợp, phương pháp lơgíc - lịch sử, phương pháp
đối chiếu - so sánh và chú giải các tài liệu…

3


5. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, Luận án phân tích và hệ thống hóa q trình hình thành nhận
thức luận Phật giáo và Duy thức học.
Thứ hai, làm rõ những nội dung chủ yếu của nhận thức luận trong Duy
thức học Phật giáo.

Thứ ba, đánh giá và làm rõ những giá trị cơ bản, những đóng góp chủ
yếu cũng như hạn chế và ý nghĩa của nhận thức luận trong Duy thức học đối
với lý luận nhận thức và đối với đời sống xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần bổ túc tri thức về triết học Phật
giáo, về Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là những luận giải về Duy thức học và
nhận thức luận của Duy thức học
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án là tài liệu để nghiên cứu về triết học Phật
giáo nói chung và Duy thức học Phật giáo nói riêng.
Luận án có thể dùng làm tài liệu trong nghiên cứu và giảng dạy ở các
trường Phật học, trong những nghiên cứu về triết học Phật giáo và lịch sử triết
học ở các trường đại học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục các cơng trình đã công bố
liên quan đề tài luận án và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có 4
chương, 14 tiết.

4


Chƣơng 1
T NG QUAN T NH H NH NGHI N CỨU LI N QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Duy thức và Trung quán là hai trường phái lớn của Phật giáo Đại thừa tập
trung phát triển hệ thống lý luận về nhận thức trong triết học Phật giáo. Sự ra đời
của Duy Thức được xem là tiếp tục mở rộng và phát triển triết lý Đại thừa đến
trình độ cao hơn. Đóng góp được xem là quan trọng nhất của trường phái triết
học này là xây dựng một nhận thức mới về sự giác ngộ qua hành trình tìm hiểu
về Tâm với giáo lý Tám thức, và rồi Duy Thức học đã thiết lập một con đường
thực hành, tạo nên một triết thuyết, đưa nội dung của tư tưởng Đại thừa tiếp tục

có những bước phát triển mới trong lịch sử triết học Phật giáo.
Với ý nghĩa ấy, Duy thức học là chủ đề được các nhà nghiên cứu trong
và ngoài Phật giáo quan tâm, bàn luận với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.
Tùy vào tính chất, mục tiêu, mục đích, phạm vi nghiên cứu và góc độ tiếp cận
mà nội dung của chủ đề này có nhiều cách lý giải. Việc phân tích, tổng hợp,
đánh giá các cơng trình nghiên cứu có liên quan sẽ giúp cho luận án tránh
được sự trùng lặp và tạo ra tính mới ở nội dung nghiên cứu.
1.1. Lƣợc khảo những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1 Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến nhận thức luận Phật giáo
Trong Tìm hiểu nguồn gốc Duy Thức học [107], Ấn Thuận cho rằng: “Duy
Thức học là môn Tâm lý học Phật giáo, tuy nó đã được xác lập vào khoảng thế kỷ
thứ tư sau Tây lịch, nhưng nếu căn cứ theo lịch sử để khảo cứu nguồn gốc và sự
diễn biến qua quá trình phát triển của tư tưởng này, vấn đề tất yếu là chúng ta phải
nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy” [107, tr.11].
T.R.V.Murti trong Tánh không - cốt tủy triết học Phật giáo [68] đưa ra
một cách nhìn về lập trường nhận thức chủ quan của triết học Phật giáo có từ
nguyên thủy: “Triết học Phật giáo có khuynh hướng cho rằng mọi sự nhận

5


thức đều mang tính chủ quan; ngay từ thời nguyên thủy nó đã phủ nhận thực
tại tính khách quan của mọi thực thể được xem là thực hữu...và quy kết các
hình tướng đó thành vọng tưởng phân biệt. Nghĩa là xem chúng chỉ thuần là
lý tưởng.” [68, tr.149-150].
Tuy không đi vào bàn luận trực tiếp về Duy Thức học, song những tác
phẩm như: Tổng quan Phật giáo [84], Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận
[92], Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận [93], Đại thừa Phật giáo tư tưởng
luận [94], đã cho chúng tơi những cách nhìn mới về sự vận hành tư tưởng
Phật giáo Ấn Độ từ thời Nguyên thủy qua Tiểu thừa rồi đến Đại thừa.

Trong Lịch sử triết học Ấn Độ [30], Thích Mãn Giác tập trung phân
tích sự ra đời của Duy thức học khơng chỉ trong hệ thống triết học Phật giáo
mà đặt trong bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội Ấn Độ đương thời và
sự tác động của các trường phái tơn giáo ngồi Phật giáo như: Samkhya,
Yoga, Mimamsa, hay Vaisésika đến sự vận hành của tư tưởng Phật giáo. Theo
ông, chỉ đến khi Duy thức học ra đời, tư tưởng Trung đạo của Phật giáo mới
phát triển đến đỉnh cao về luận giải tư tưởng.
Trong Tìm hiểu trung luận – Nhận thức và không tánh [33], Hồng
Dương Nguyễn Văn Hai nhận định: “nhận thức luận Phật giáo chú trọng khảo
sát những tác dụng và hành động phát hiện trong mối quan hệ giữa nhận thức
và đối tượng nhận thức [33, tr.90]. Tác giả đã bàn luận lời Đức Phật để giải
thích và làm rõ các quan năng của nhận thức theo quan điểm của triết học
Phật giáo “nhận thức là tác dụng tâm lý lấy năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân)
làm điểm tựa để phân tích và quán sát sự thật” [33, tr.93].
Kinh Kim Cương [51] xác nhận những tri giác đa tạp về thế giới bên
ngoài chỉ xảy đến trong tâm thức con người khi có sự tiếp xúc giữa “căn” và
“trần”, tức có sự tương tác giữa các giác quan với những khách thể tương ứng.
Chính sự tiếp xúc này là cơ sở để nảy sinh cảm giác, và cảm giác chỉ xuất hiện
khi có sự hiện diện của thức.

6


Nghiên cứu vấn đề này, trong Luận giải Trung luận – Tánh khởi và duyên
khởi [34] và Luận Phật tính [32] đã đề cập đến vai trò của các giác quan trong
q trình nhận thức, chúng đã có trong những lời thuyết giảng của Đức Phật:
“Đức Phật đã có lần nêu rõ cái gọi là thế giới chẳng qua chỉ thành lập trên quan
hệ nhận thức tương đãi và tương thành giữa sáu căn và sáu trần” [34, tr.447],
“Hết thảy thế giới tuy được thành lập trên quan hệ nhận thức sáu căn, sáu cảnh,
nhưng trong đó phương diện nhận thức trực tiếp nhất không phải là khách

quan, mà là phương diện chủ quan. Nghĩa là phải dựa vào yếu tố chủ quan thời
yếu tố khách quan mới được thành khách quan” [34, tr.447-448].
Tác giả Thích Tâm Phương trong tác phẩm Tìm hiểu lộ trình tâm qua
luận pháp thắng tập yếu [78] nhận xét rằng, Đức Phật đặt nặng sự chú ý vào
tâm và những hiện tượng tâm linh, vì đời sống nội tâm đóng một vai trị rất
lớn làm phát khởi hành động của con người. An lạc hay khổ tâm đều ở nơi
tâm. Tâm lý học Phật giáo hướng dẫn hành giả vào đường lối phân biệt và
khảo sát nhằm khuyến khích mỗi người tự phát triển năng lực nhận thức và
phẩm chất nội tâm.
Bàn về Thức trong Phật giáo thời kỳ nguyên thủy, Thích Chơn Thiện,
trong Lý thuyết nhân tính qua kinh tạng Pali [103] đã bàn luận lời của Đức
Phật: “Thế nào là thức? - Đức Phật dạy: “Có sáu nhóm thức: nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức”. Thức được giải thích rằng:
“Này các Tỷ kheo, tại sao gọi là Thức? - Rõ biết, này các Tỷ kheo, nên gọi là
Thức. Rõ biết gì? - Rõ biết chua, đắng, cay, ngọt, rõ biết chất kiềm...không
phải chất kiềm, rõ biết mặn, không phải mặn. Rõ biết này các Tỷ kheo, nên
gọi là Thức”, “Bàn về sáu trần, như Đức Phật xác định, là suối nguồn của kiến
thức, lòng đắm trước và khổ đau của con người. Nó làm khởi sinh danh sắc và
các phần tố khác của Duyên khởi, nó là chủ thể của nhận thức, đối tượng của
nhận thức, và là nội dung của nhận thức. Nó có mặt trong thân hành, khẩu
hành và ý hành” [103, tr.67-68].

7


Tổng quan những nghiên cứu trên đã giúp tác giả bước đầu nhìn nhận
được bối cảnh ra đời, lịch sử phát triển và các tác phẩm chủ yếu của nhận thức
luận Phật giáo, từ đó có một cái nhìn tương đối hệ thống về trường phái triết
học này, đặc biệt là bối cảnh xuất hiện Phật giáo Đại thừa và Duy thức học.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến Duy thức học

Duy thức và Trung quán là hai trường phái lớn của Phật giáo Đại thừa
tập trung phát triển hệ thống lý luận nhận thức trong triết học Phật giáo. Sự ra
đời của Duy Thức được xem là tiếp tục phát triển triết lý Đại thừa đến trình
độ cao hơn. Với vai trò quan trọng ấy, Duy Thức học là một chủ đề được
nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài giới Phật học. Những tác phẩm
viết về Duy Thức học đầu tiên phải kể đến:
Tác phẩm Tìm hiểu nguồn gốc Duy Thức học [107] của Ấn Thuận là một
cơng trình nghiên cứu rất tỉ mỉ về tư tưởng Phật giáo qua các thời kỳ. Đặc biệt, tác
giả đã dày cơng tìm hiểu tất cả hệ thống giáo lý của từng thời kỳ Phật giáo có liên
quan đến sự hình thành Duy Thức học: “Trước hết là tìm hiểu tư tưởng Duy Thức
trong Phật giáo nguyên thủy, rồi bước qua giai đoạn Phật giáo Bộ phái, cuối cùng
là Phật giáo Đại thừa, hay còn gọi là Phật giáo thời Duy tâm luận” [107, Lời tựa].
Đồn Trung Cịn trong Lịch sử nhà Phật [13], khi đánh giá vai trị của
Vơ Trước và Thế Thân trong việc xây dựng Duy thức học và Đại thừa đã thấy
được Phật giáo Đại Thừa phát triển từ nội bộ Phật giáo Nguyên thủy: “Phật
giáo thịnh hành đến cực điểm vào khoảng hai thế kỷ thứ năm và thứ sáu Tây
lịch; bấy giờ nhiều nhà thông thái, nhiều bậc văn nhân ra đời làm cho thời kỳ
ấy hóa ra thời kỳ vẻ vang hơn hết về Phật học” [13, tr.116], “Ngài huynh
trưởng Vơ Trước cịn ở bên Tiểu thừa, sau thọ giới theo Đại Thừa...Ngài soạn
được kinh sách mà các nhà cao học đều kính phục và hoan nghênh”[13,
tr.116], “Em của ngài, đức Thiên Thân1...tổ sư thứ 21 cũng không kém. Từng
làm một đại sư cao học bên phái tả thực Tiểu thừa, ngài kích bác Đại thừa dữ
1

Thiên Thân – còn gọi là Thế Thân

8


dội lắm. Nhưng sau nhờ có huynh trưởng làm cho ngài cảm giáo lý cao siêu

Đại thừa phái Du - già, ngài bèn bỏ Tiểu thừa...được đức Di - Lặc giúp sức
cho ngài dọn xong bộ Duy thức luận” [13, tr.117]. Đại ý của Duy thức luận
của ngài Thiên Thân là: “Duy có cái thức, cái tư tưởng là thật mà thơi. Nó
chứa tất cả vào trong nó. Vạn vật mà ta nhận thấy đều là sự phát hiện của cái
thức, cho nên đều là mộng ảo cả” [13, tr.117].
Với Biện chứng giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ [42], Nghiêm Xuân
Hồng đã cố gắng phác lược những nét cơ bản về bối cảnh chính trị - xã hội
của Ấn Độ cho sự ra đời của Duy thức học: “Khoảng thế kỷ thứ IV sau Tây
lịch, trong số tăng lữ, lại thấy xuất hiện hai tay kiệt hiệt nữa: Vô Trước và Thế
Thân” [42, tr.153], “Theo Vô Trước và Thế Thân, vấn đề cần đặt ra là nhận
thức luận, để tìm chỗ quan hệ giữa chủ quan nhận thức của con người và
ngoại giới khách quan” [42, tr.154]. Khi đi tìm cách trả lời cho câu hỏi: làm
thế nào để đưa thức giác con người tới chỗ thể nhập Chân không, Vô Trước và
Thế Thân đã đến với Duy thức luận. Các ông cho rằng: “Chân không hoặc
Tâm thể đều hàm chứa trong tiềm năng của mình tất cả ba ngàn thế giới. Song
sự phát hiện của ba ngàn thế giới đó...đều là do Thức, hay thức cảm giác của
con người và chúng sinh tạo nên”, “Các hiện tượng, các pháp, các thế giới,
các cảm giác, các cảnh giới nội tâm, cũng như cái giả tướng về Ta của mọi
chúng sinh, đều do Thức mà có. Nếu khơng có Thức, thì khơng thể có sự phân
biệt thành chủ quan khách quan, thành Ta và khơng Ta...Vì thế kinh Phật có
câu: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”” [42, tr.154-155].
Theo dịng lịch sử phát triển của Phật giáo thì Duy thức là giai đoạn thứ
3 của sự phát triển Phật giáo tại Ấn Độ. Khi giải thích về lý do Pháp Tướng
Tông ra đời, Thế Thân, trong Pháp tướng tông Duy thức Tam thập tụng [99]
nhận định: “Từ Hữu, Vô đến chấp chặt và làm lệch ý nghĩa đích thực của Có
và Khơng theo tinh thần trung đạo của Phật giáo. Do đó, xuất hiện một phát
triển từ kho tàng giáo lý đã có là hiển nhiên” [99, tr.5]. Luận điểm trung tâm

9



trong hệ thống lý thuyết của Tông Pháp Tướng hay Tơng Duy thức chính là
Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân: “Nội dung luận điểm Tam Thập
Tụng quan trọng đến độ có đến mười hai luận sư giải thích…Những ai muốn
nghiên cứu Tông Pháp Tướng không thể bỏ qua luận điểm này…Bởi thiếu
kiến thức Duy thức thì khó lý giải Đại thừa Phật giáo” [99, tr.6].
Trong Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận [94], Kimura Taiken đã sử
dụng phương pháp lịch sử để khảo nghiệm về lịch sử tư tưởng Phật giáo, tác
giả nhận định: “Phật giáo thời đại Long Thọ đã phá Tiểu thừa để phát huy Đại
thừa, nhưng đến thời đại Vơ Trước và Thế Thân thì, về một phương diện nào
đó, Tiểu thừa và Đại thừa đã được thông hợp làm một. Vô Trước và Thế Thân
lấy giáo lý Tiểu thừa làm nền tảng để đứng và đó là cái đặc sắc của Phật giáo
thời kỳ này” [94, tr.136]. Sự kế thừa và phát triển này không chỉ đã giải quyết
được những mâu thuẫn của xã hội đương thời, mà cịn góp phần đưa Phật giáo
thành khối thống nhất.
Thái Hư, trong [47] - Tân Duy thức luận với thể văn bạch thoại đã diễn
đạt ý nghĩa Duy thức một cách sinh động với nhiều thuật ngữ mới, dễ hiểu:
“Duy thức học là một môn học nhận biết, phân biệt mọi sự vật hiện tượng
trong đời sống con người. Trong vũ trụ có mn vàn hình thái diễn ra… đều
từ thức mà có. Hay nói khác đi, nếu khơng có thức, thì tất cả mọi vật khơng
thể nào nhận biết được. Chính nhờ thức mà ta phân biệt được mọi vật, sản
sinh ra muôn vật” [47, tr.9].
Trong Tâm lý học Phật giáo [104], Thích Tâm Thiện tập trung luận giải
về ý nghĩa của khái niệm duy thức Duy thức và hệ thống giáo lý Tám thức
trong quá trình nhận thức. Tác giả phân tích: “Duy có nghĩa là chỉ.
Vijnanavada hay Vijnanamatra có nghĩa là Duy thức, hay nói đầy đủ là: “Chỉ
có thức – biểu hiện”. Như thế, sự biểu hiện của thức bao giờ cũng đầy đủ cả
hai phần: chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức” [104, tr.39].

10



Nhất Hạnh với những trước tác quan trọng về Duy thức như “ Giảng luận
Duy biểu học” [38] hay “Vấn đề nhận thức trong Duy thức” [39], trong [39], tác
giả viết: “Duy thức học trước hết là một cơng trình khảo sát vạn pháp trên
phương diện hiện tượng” [39, tr.13]; “Duy thức học là một cánh cửa hiện tượng
luận mở nhìn vào vấn đề thực tại tuyệt đối, tức là vấn đề chân như [39, tr.9].
Đường Đại Viên trong Phương pháp khoa học của Duy thức [121] đã
vẽ nên một bức tranh lịch sử truyền thừa Duy Thức tông qua 9 vị tổ sư… và
cho người đọc một cái nhìn rõ ràng về khái niệm thức: “Thức cũng chính là
Tâm, nhưng theo tinh thần của kinh, nhấn mạnh nghĩa tập khởi, tạo tác, nên
gọi là Duy tâm; theo tinh thần của luận, nhấn mạnh nghĩa hiểu biết phân biệt,
nên gọi là Duy thức” [121, tr.12].
Chân Đế trong Duy thức triết học [26] đã lý giải về Tâm vương và vai
trò của Tâm thức trong quá trình nhận thức của Duy thức học: “Chỗ gọi là
Tâm vương, gồm có 8 thức, nếu khơng có 8 thức Tâm vương này, thì tâm sở
và các sắc pháp, đều không thể tồn tại, đây là điểm trọng yếu của các pháp,
chính là trở về với nghĩa Duy thức [26, tr.12].
Trong Luận thành Duy thức [109], Huyền Trang đã làm rõ những vấn
đề về sự khác biệt giữa tâm, ý và thức, “Thể của tâm, ý, thức là một. Tuy
nhiên trong đó cũng có sự phân biệt: nó tích lũy nên gọi là tâm. Nó tư duy nên
gọi là ý. Nó nhận thức khu biệt, nên gọi là thức” [109, tr.29].
Thích Thiện Hoa trong tác phẩm "Duy Thức học" [41] tập trung nghiên
cứu Duy thức và xem nó như là phương tiện đàm, giải thích vì sao gọi là Duy
thức, và đi sâu vào giáo lý Tám thức… Tác giả viết: “Tất cả sự vật trong vũ
trụ này đều khơng thật, duy có Thức mà thơi, cho nên gọi là Duy thức. Nói
chữ “Duy” nghĩa là ngồi Thức ra khơng có vật gì khác nữa [41, tr. 85].
Trong Luận thành duy thức [87], Thích Thiện Siêu đã trình bày lý thuyết
của Duy thức theo lơgic học Phật giáo với những từ ngữ mới lạ, giản ước, trong
đó chú trọng đến phạm trù Tâm. Các bộ phái Phật giáo đều tập trung triển khai


11


và hệ thống hóa các Tâm ấy: “Rõ nét nhất là phái Hữu bộ hệ thống hóa thành
75 pháp, trong đó tâm là chủ yếu. Đến Du già Sư Địa Luận hệ thống hóa thành
200 pháp, đến Duy thức tơng thì rút lại cịn 100 pháp, gom vào 5 vị, trong đó
tâm thức là chủ” [87, tr.15].
Bàn về Duy thức học, đặc biệt là vấn đề nhận thức luận Duy thức học,
các nhà nghiên cứu thường sử dụng hai tác phẩm Duy thức Tam Thập Tụng
của Thế Thân và Bát Thức Quy Củ Tụng của Huyền Trang.
Khi giải thích vì sao chọn Duy thức Tam Thập Tụng và Bát Thức Quy
Củ Tụng làm cơ sở để nghiên cứu Duy thức học, Thượng Tọa Quảng Liên
trong Duy Thức học [62] viết: “Sở dĩ chúng tôi chọn Duy thức Tam Thập tụng
của Ngài Thế Thân trong cuốn Duy Thức học này là vì chúng tơi nhận thấy
tác phẩm Duy Thức Tam Thập tụng được coi là một trong những bộ luận
chính yếu, có giá trị nhất. Tài khéo léo của Thế Thân Bồ Tát cô đọng yếu lý
Duy Thức gọn gàng nằm trong 30 bài tụng, xúc tích đầy đủ ba yếu điểm cảnh,
hạnh và quả là đối tượng nghiên cứu của Duy Thức học, lại gồm đầy đủ tướng
Duy Thức và tánh Duy Thức, hiện tượng các pháp và bản thể của các pháp.
Thiên Thân2 hướng dẫn hành giả nhận thức từ hiện tượng các pháp và hiện
tượng tâm lý dần dần đưa đến một ý niệm về bản thể đến cứu cánh Duy thức”
[62, tr.73]. “Duy thức Tam Thập Tụng của Thế Thân và Bát Thức Quy Củ
Tụng của Huyền Trang là hai tác phẩm được xem là phổ thông nhất trong lĩnh
vực sưu tầm Duy thức học của học giả Việt Nam” [62, tr.73].
Cũng trong Duy thức học, Thích Thiện Hoa bàn luận: « Khoảng 900
năm, sau khi Phật diệt độ, có ngài Bồ-Tát Thiên Thân, y theo các Kinh, viết ra
quyển « Duy Thức Tam Thập tụng »..., Đến đời Đường, ở Trung Hoa có ngài
Tam tạng Pháp sư Huyền Trang...rất thông về Duy Thức tông... phiên dịch rất
nhiều kinh sách, mà quyển Duy Thức Tam Thập Tụng của Bồ-Tát Thiên Thân

là một » [41, tr.264].
2

Thiên Thân – tên gọi khác của Thế Thân

12


Để làm rõ cho người đọc biết vì sao tác giả chọn Duy thức Tam Thập
Tụng của Thế Thân và Bát Thức Quy Củ Tụng của Huyền Trang làm căn cứ
chính trong khi nghiên cứu vấn đề nhận thức, trong Vấn đề nhận thức trong
Duy thức học, Nhất Hạnh chỉ rõ : « Tác phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng quả
là một tác phẩm căn bản nhất của phái Duy Thức. Không như tác phẩm Nhị
Thập Tụng chú trọng nhiều tới khía cạnh phá đỗ lý luận ngoại thuyết, tác
phẩm Tam Thập Tụng diễn bày một cách tích cực hệ thống lý thuyết Duy
thức. Gọi là Tam Thập Tụng bởi vì nó gồm ba mươi bài tụng tiếng Phạn...Ba
mươi bài tụng này rất cô đọng, bao hàm tất cả yếu nghĩa của Duy thức học »
[39, tr.15] ; « Tác phẩm Bát Thức Quy Củ Tụng cô đọng những nhận thức của
Huyền Trang về Duy thức học - Tác phẩm này chia làm bốn đoạn, mỗi đoạn
chỉ có vỏn vẹn mười hai câu, và như thế toàn bộ tác phẩm chỉ có bốn mươi
tám câu. Duy thức trong Bát Thức Quy Củ Tụng mang nặng tính chất luận lý
học và đó là điểm khác biệt giữa hai tác phẩm và cũng là điểm khác biệt giữa
Duy thức tiền - Trần Na và hậu - Trần Na » [39, tr.15-16].
Phật điển hành tư với Nghiên cứu Phật học qua lăng kính Tây phương
[116] đã nhận định rằng: « Thế Thân nổi tiếng qua hai quyển luận ngắn, luận
thuyết rằng tất cả đều chỉ Duy thức (Duy thức Nhị thập tụng và Duy thức Tam
thập tụng » [116, tr.403 - 404]. Quan điểm chủ đạo của Thế Thân trong Duy
thức Nhị Thập tụng và Tam Thập tụng là: «Tất cả mọi hiện tượng đều là sự
biến hiện của thức trong hành vi và hoạt động nội tại của chúng; những nhận
thức của chúng ta không phải do từ đối tượng ngoại tại tạo thành, những đối

tượng mà ta tưởng là hiện hữu bên ngoài và tạo thành ý nghĩ của chúng ta »
[116, tr.407].
Nghiên cứu những thuật ngữ trong Duy thức học là một điều khơng dễ
dàng vì “Khó với danh tướng, phiền tối danh từ, ý nghĩa khó khăn, ngoằn
ngo, một chữ có ngàn cách giải thích, một từ bao hàm vạn hình trạng” [2, tr.5].
Vì vậy, Từ điển Pháp tướng tông [2] của Vu Lăng Ba, Thuật ngữ Duy thức học

13


[65] của Giải Minh và Từ điển minh triết phương Đông [119] đã giúp tác giả
phần nào dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các nội dung về nhận thức trong
quá trình nghiên cứu Duy thức học như là một bộ phận quan trọng của triết học
Phật giáo.
Tổng quan những nghiên cứu trên đã giúp tác giả thấy được bối cảnh ra
đời, lịch sử phát triển và tác phẩm chủ yếu của Duy Thức học, từ đó có một
cái nhìn tương đối hệ thống về trường phái triết học này trong lịch sử triết học
Phật giáo ở giai đoạn Đại Thừa.
1.1.3. Những nghiên cứu liên quan đến nhận thức luận trong Duy thức học
Khi bàn về lý luận nhận thức, những nghiên cứu của Duy Thức học đã
tập trung giải quyết những vấn đề đối tượng nhận thức, hình thái nhận thức,
cấp độ nhận thức và quá trình nhận thức.
Điểm mới của Duy thức học so với lý luận nhận thức Phật giáo Nguyên
thủy và Bộ phái là đưa ra lý thuyết Tâm gồm 8 thức và tập trung luận giải cơ
chế vận hành của các thức này.
Với Biện chứng giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ [42], khi bàn về thức
giác, Nghiêm Xuân Hồng cho rằng trường phái Duy thức chủ trương có 8 thứ
thức gồm: “Sáu thức đầu tiên là: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý. Sáu thức này đều
thông thường và tương đối. Tiến lên một thức nữa là thức giác thứ bảy, gọi là
Mạt na thức. Mạt na có nghĩa là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, thức giác được chỗ

thức giác. Nhưng Mạt na thức vẫn cịn là một thức giác thấp kém, vì tương tự
như mặt gương trong sáng, nhưng cịn vướng tí chút bụi nhơ. Bụi nhơ đó là
vọng chấp vào Ta của con người nhận thức. Vượt qua khỏi được vọng chấp về
Ta, thức giác con người mới đạt tới thức giác thứ tám hay Alaida thức, hay vô
cấu thức. Vô cấu có nghĩa là khơng có bụi nhơ. Alaida có nghĩa là chứa đựng,
tức là thức này chứa đựng hết thẩy các mầm móng của các pháp” [42, tr.156].
ED Conze trong Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ [14] đã đề cập đến vai trò
của thức thứ 8 trong Duy thức: “Tàng thức là một ví dụ điển hình cho việc

14


chơi cả hai phe đối nghịch…”, “Thức này cung cấp nền tảng cơ sở cho các
hoạt động của dòng tương tục trong một thời gian khá dài, và làm người
chuyển tải tính di truyền tâm thức”, “Nó cịn là kho chứa mọi chủng tử sẽ
thành quả báo trong tương lai…, thức này còn được gọi là thức hạt giống căn
bản, là nơi tàng trữ các chủng tử thiện lẫn ác để sinh ra các chủng tử mới trong
chuỗi tâm thức” [14, tr.214-215].
Trong cơ cấu nhận thức của Duy thức học, Tàng thức ln giữ một vai
trị quan trọng, đánh giá vai trò của Thức này, Edward. Conze trong [15] Tinh hoa và sự phát triển của Đạo Phật và TS. Lâm Như Tạng trong Thức thứ
tám [91] viết: “Khái niệm của Duy Thức tông về “tàng thức” đáng chú ý
không phải vì giá trị đích thực của nó mà vì những động cơ ẩn sau nó.
Asanga3 ý định một ý thức vượt cá thể tính, nền tảng của mọi hoạt động của
thức. Những ấn tượng của toàn thể kinh nghiệm quá khứ được tàng chứa ở đó,
mọi hành động và kết quả của những hành động ấy” [15, tr.269]. Thức thứ
tám cịn gọi là tâm vương, ơng vua của tâm, là thức có quyền năng nhất đối
với bảy thức cịn lại.
Trong Siêu lý học [101], bàn về Tâm, tác giả nhận định: “Tâm là sự biết
cảnh, nhận thức được đối tượng (biết cảnh gọi là tâm, bị tâm biết gọi là cảnh).
Tâm, bản thể chỉ có một là sự biết, nhưng phân ra nhiều loại là vì căn cứ vào

căn mà đặt tên riêng cho tâm [101, tr.15].
Trong Giảng luận Duy biểu học [38], Nhất Hạnh đã trình bày một cách
cơ đọng về lý thuyết Duy thức: “thức nó biểu hiện ra làm hai phần: phân biệt
và bị phân biệt… Thức biểu hiện ra làm hai phần: chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức. Thị chư thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt. Và vì vậy
cho nên cả phần phân biệt và phần bị phân biệt đều từ thức mà ra cả. Vì vậy
cho nên mới có câu “chỉ có thức: Duy thức” là vậy” [38, tr.7-8].

3

Asanga - Vô Trước

15


Vơ Trước khi bàn về đối tượng và vai trị của ý thức trong hệ thống
giáo lý Tám thức, trong Nhiếp luận [113], tác giả viết: “ý thức lấy các thức
làm tướng phần và thức của ý thức làm kiến phần” [113, tr.158]. Theo ông, ý
thức chỉ kết hợp với năm thức trước mới nhận thức được đối tượng bên ngồi,
bản thân ý thức khơng có căn biểu lộ để tiếp nhận trực tiếp về đối tượng.
Trong Khảo sát lịch sử tư tưởng nhân minh luận Phật giáo [27],
Thích Kiêm Định đã khảo sát vấn đề nhận thức qua lý thuyết Nhân minh để
bàn đến các hình thái của nhận thức gồm có “Hiện lượng, Tỷ lượng và Phi
lượng” [27, tr.216, 218, 150]. Để minh định cho lý luận nhận thức của mình
trong Nhân minh luận, tác giả đã dẫn lời của Trần Na: “Sự nhận biết theo
Dignaga, có hai khía cạnh: ngoại diên và nội duyên. Ngoại diên tức là đối
tượng có hình dạng hoặc màu sắc có thể được nhận biết qua mắt. Nội duyên
tức là đối tượng khơng có hình dạng và khơng thể thấy biết bằng mắt mà nó
do ý thức kích hoạt hệ thống thức trong đó những hạt giống tiềm ẩn trong
trạng thức sinh khởi với những sắc thái tợ như thật nhưng không biểu hiện ra

ngồi. Đối tượng của nó được cân nhắc như những chủng tử với những sắc
thái riêng của nó được gieo trồng vào tạng thức từ thời vô thỉ” [27, tr. 137].
Ấn Thuận trong Tìm hiểu nguồn gốc Duy thức học đã dẫn lời của Thế
Thân khi bàn về thức: “Phải nói căn bản thức là nhân tố căn bản của tất cả các
thức, giống như rễ cây làm nhân cho cành lá, nếu lìa bỏ căn ấy thì cành lá
cũng không tồn tại” [107, tr.163].
Trong Triết học Thế Thân [98], Lê Mạnh Thát đã đưa ra một cái nhìn
tương đối hệ thống về quan niệm nhận biết và cơ cấu tự nhận biết. Trong Câu
Xá Luận, Thế Thân phát biểu rõ ràng rằng: “nhận biết (hiện kiến = hiện
lượng) là phương tiện quyết định nhất của nhận thức” [98, tr.218] , “Nhận biết
(hiện lượng) là một nhận thức chỉ từ tự thân đối tượng. Khi một nhận thức
sinh khởi chỉ do đối tượng mà nó đặt tên bởi đối tượng đó, chứ khơng phải do
cái gì khác, thì nhận thức này là sự nhận biết” [98, tr.219].

16


Để tìm cách trả lời cho khái niệm “Lượng” trong lý luận nhận thức của
Duy Thức học, tác giả Nguyễn Khuê trong Luận lý học Phật giáo [50] phân
tích: “Trong lịch sử tư tưởng của Ấn Độ, thời cổ đại, ban đầu “lượng” có
nghĩa là tiêu chuẩn để cân đo, lượng biết sự vật trong sinh hoạt hàng ngày; về
sau nó mới hàm nghĩa liên quan đến học thuyết nhận thức, chỉ tiêu chuẩn để
xét đoán sự đúng và sai của tri thức đối với sự vật chung quanh, tức đối tượng
lượng biết. Sau đó lượng lại chỉ bản thân tri thức. Đến nhân minh học, các
luận sư một mặt kế thừa truyền thống, vẫn gọi tri thức là lượng như hiện
lượng và tỷ lượng; Mặt khác lại tiến thêm một bước, dùng từ lượng để chỉ quá
trình hình thành tri thức và hình thức hoạt động của tri thức” [50, tr.259-260].
Minh Chi trong Nhân minh học Phật giáo [11] đã tập trung vào phân
tích đối tượng của nhận thức và các hình thái nhận thức tương ứng với nó:
“Mọi sự vật chia làm hai loại: những sự vật được nắm bắt và nhận thức trực

tiếp và sự vật được nắm bắt và nhận thức gián tiếp. Tỷ lượng là một nhận thức
khơng trực tiếp, một nhận thức đi vịng. Tức là nhận thức một sự vật ngang
qua dấu hiệu của nó” [11, tr.124].
Cũng bàn về nhận thức, trong Nguyên tắc lý do đủ - Lý duyên khởi [37],
Hồng Dương Nguyễn Văn Hai đã bàn luận xung quanh tư tưởng của Trần Na
và Pháp Xứng: “Một đặc điểm quan trọng của nhận thức luận Dharmakirti4
khơng thấy có trong Dignaga5 là đặc biệt quan tâm giải thích tồn bộ q trình
nhận thức bắt đầu với một đối tượng ở thế giới bên ngồi, tiếp theo đó là cảm
giác đối tượng, nhận diện hay phán đốn nó, nhận thức tỷ lượng hay nhận thức
ngơn ngữ căn cứ trên phán đốn, một ham muốn hành động hướng về phía đối
tượng cảm giác, một hành động..., và kết thúc với sự hoàn thành thực tế sự ham
muốn” [37, lời mở đầu - tr.VI].

4
5

Dharmakirti - Pháp Xứng
Dignaga - Trần Na

17


Huyền Trang với " Luận Thành Duy Thức" do Hòa thượng Tuệ Sỹ dịch
[109] được đánh giá rất cao trong lĩnh vực Duy thức học ở Việt Nam. Với
việc tập hợp và giải thích các bộ Nhị thập luận và Tam thập luận, tác giả
chứng minh tất cả tồn tại duy chỉ có thức: “…nói duy thức là nói rằng tất cả
tồn tại ngoại giới hết thảy đều là sự biến hiện của thức, được sáng tạo bởi
thức » [109, tr.13]. Theo tác giả, trong quá trình nhận thức, đối tượng được
nhận thức chẳng cịn tồn tại như chính nó mà được xử lý và cấu trúc lại: “Tồn
tại khi trở thành đối tượng của nhận thức, tồn tại ấy khơng xuất hiện trong

thức nó như là nó, mà xuất hiện qua ảnh tượng được xử lý hay được cấu trúc
bởi thức. Quá trình xử lý đối tượng nhận thức này, tức quá trình tái cấu trúc
thực hiện bởi thức này” [109, tr.14]. Quá trình nhận thức được Huyền Trang
phân tích và giảng giải một cách cụ thể: “Trong từng sát – na, từng đối tượng
cá biệt xuất hiện và được thức nắm bắt. Nhưng chỉ khi nào có sự xuất hiện và
đồng nhất tất cả những gì đã xuất hiện và đã biến mất trong nhiều sát – na,
bấy giờ nhận thức mới đạt đến phán đoán, biết rằng cái đó là cái gì. Q trình
nhận thức như vậy được phân tích thành hai giai đoạn: giai đoạn đối tượng
chưa được cấu trúc, và giai đoạn đã được tái cấu trúc” [109, tr.21].
Dưới góc độ lơgíc học hình thức, trong Lôgic học Phật giáo [82], Phạm
Quỳnh tập trung nghiên cứu Duy thức học, trên cơ sở đó chỉ ra những đóng
góp nhất định của logic học Phật giáo. Tác giả nhận định rằng: “Trong khi kế
thừa và phê phán Logic học cổ Ấn Độ, Dignaga và Dharmakirti đã sử dụng
nhận thức luận của Duy thức học thay thế cho nhận thức luận của Nyaya Vaisesika. Đó là học thuyết Tam tự tính” [82, tr.90]. Học thuyết Tam tự tính
trong Duy thức học chỉ ra các cấp độ của quá trình nhận thức bao gồm: “Biến
kế sở chấp tính, Y tha khởi tính và Viên thành thực tính” [82, tr.90].
Trong Luận Phật tính, Thế Thân đã đề cập đến thế giới Tam tự tính bao
gồm: “Tính phân biệt, tính y tha và tính chân thật” [32, tr.59].

18


Trong Luận thành duy thức [87], tác giả Thích Thiện Siêu khi bàn về
quá trình nhận thức, cho rằng: “Mọi hiện hữu trong thế gian cũng vậy, do thức
phân biệt danh tướng, sắc, tâm, huân tập vào Tạng thức nhiều đời nhiều kiếp
thành chủng tử (tập khí, thói quen), cố hữu, nên khi thức móng khởi thì liền
hiện ra đủ các tướng đúng như khi được huân tập vào Tạng thức, và trong đó
tự phân biệt ra Kiến Phần có năng lực nhận biết và Tướng phần là đối tượng
của nhận biết. Kiến, Tướng phần như vậy là nhân duyên” [87, tr.12].
Các cơng trình vừa được tổng quan trên đây vừa gián tiếp, trực tiếp đề

cập đến một số khía cạnh nhất định của nhận thức luận có liên quan đến đề
tài. Những nghiên cứu này giúp tác giả có một cái nhìn sâu hơn về triết học
Phật giáo để lấy đó làm cơ sở trong việc nhìn nhận, phân tích và đánh giá về
nhận thức luận của Duy thức học.
1.1.4. Những nghiên cứu đánh giá ý nghĩa và vận dụng Duy thức học
Không trực tiếp bàn về Duy thức học, nhưng một số tác giả với những
tác phẩm như: Lối vào nhân minh học [85], Nhân quả đồng thời [35], Trung
luận [86], Siêu lý học [101] và Nietzsche và Đạo Phật [66] đã phần nào chỉ ra
giá trị của những tư tưởng triết học trong Phật giáo như quan niệm về Vô ngã;
hay trong Lối vào nhân minh học [85] cho thấy Ngài Vô Trước đã chỉ ra trong
Tam Tập luận là: “lập tôn, lập nhân, lập dụ, hiệp, kết, hiện lượng, tỷ lượng,
chí giáo lượng. Tám năng lập này gần giống tám năng lập của ngài Di - Lặc
trong Du - già - sư - địa Luận” [85, tr.37].
Cũng với nỗ lực hiện đại hóa Duy thức học, Thích Tâm Thiện trong Tâm
lý học Phật giáo [104], đã cố gắng trình bày theo một cách thức mới, khác
hẳn với logic trong lịch sử Duy thức học. Tác giả thể hiện mong muốn giải
quyết các vấn đề có tính quy mô rộng lớn của thực tiễn xã hội hơn là giải
quyết các vấn đề chun mơn thuật ngữ. Tồn bộ nội dung của tác phẩm đặt
trọng tâm vào khai thác mảng tâm lý học của Duy thức học.

19


Với Tư tưởng Phật giáo trong triết học của Gilles Deleuze [36], Hồng
Dương Nguyễn Văn Hai đã nỗ lực chỉ ra những so sánh giữa triết học Deleuze
và Phật giáo. Deleuze đã đối chiếu tư tưởng của Phật giáo với nhiều tư tưởng
triết học thời hiện đại như: Heidegger, Bergson, Spinoza, Kant....Chẳng hạn,
trong khi bàn về vận động và hình ảnh, Deleuze bắt đầu với sự tóm lược phương
pháp phân tích vận động của Bergson nhằm giải thích khái niệm Tất cả là Vô
thường. Bergson nhận định: “Bộ máy nhận thức của chúng ta không chỉ là một

máy chiếu phim mà cịn là một tốn học gia tự nhiên. Quả vậy, ngay cả khi sự
liên tục được chấp nhận, các giác quan cũng chỉ có thể khêu ra những cảm
giác tức thời, và công việc tái tạo lại sự liên tục là phận sự của lý trí” [36,
tr.231]. Khác với tư tưởng của Bergson, theo giáo lý Phật giáo: “Thời tục là
một cấu tạo, cảm giác tức thời là thực”, “Cảm giác tức thời, theo Trần Na, là
một hình thái nhận thức (hay phương cách nhận thức) mệnh danh là hiện
lượng... Hiện lượng trực tiếp nhận thức tự tướng bằng cảm giác đơn thuần, Tỷ
lượng gián tiếp nhận thức tổng tướng bằng suy luận”; “Hiện lượng là phương
cách nhận thức của năm thức đầu tức năm thức cảm giác: thấy, nghe, nếm,
ngửi và xúc chạm; sự lượng biết còn trong sát na thứ nhất nghĩa là chưa qua
tư duy phân biệt” [36, tr.231 - 232].
Khi đề cập đến thức Alạida của Duy thức, Garma C.C. Chang trong
Triết học Phật giáo Hoa nghiêm tơng [9] đã đưa ra những phân tích để đối
sánh lý thuyết của Hoa Ngiêm Tông, Duy thức và Berkeley: “Từ tâm được
dùng trong Hoa Nghiêm cũng như Duy thức có một ý nghĩa rất rộng. Nó cùng
một lúc có tính chất tâm lý và siêu hình, ln lý và tơn giáo. Nó là tồn thể
tâm lý của con người, bao gồm cả hữu thức và vô thức” [9, tr.271], “Duy thức
dường như đi xa hơn Beckeley khi cả quyết rằng thế giới vật lý là một phóng
hiện của Alaida, có thể thực sự chuyển hóa, nếu Alaida được chuyển hóa.
Đấng Thần linh biến tại hay Thượng Đế, đấng bao hàm và truyền sức sống
cho “thế giới khách quan” của Beckeley rõ ràng là gợi mở cho chúng ta nhớ

20


×