Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích các đặc trưng cơ bản của hiện tượng tội phạm (bài làm có ít nhất 5 điều luật của 5 văn bản pháp luật được trích dẫn) ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.64 KB, 20 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

.………………..

TIỂU LUẬN MÔN:

XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
Phân tích các đặc trưng cơ bản của hiện tượng tội phạm, cho ví dụ cụ thể
gắn với tội phạm xâm phạm tình dục (Bài làm có ít nhất 5 điều luật của 5
văn bản pháp luật được trích dẫn).

Hà Nội, 7/2021


PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện tượng tội phạm là hiện tượng xã hội- pháp lý
luôn ở trạng thái động vậy nên việc phòng chống
hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch là
vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Để phòng
chống được, trước tiên ta phải hiểu rõ về hiện
tượng tội phạm. Sau đây tôi xin đi sâu vào đề bài:
“Phân tích các đặc trưng cơ bản của hiện tượng
tội phạm, cho ví dụ cụ thể gắn với tội phạm xâm
phạm tình dục (Bài làm có ít nhất 5 điều luật của
5 văn bản pháp luật được trích dẫn).”
PHẦN NỘI DUNG
Khái niệm
1.1.
Tội phạm
1.



Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải
2
2


chịu hình phạt. Tội phạm là hiện tượng xã hội
được nhiều ngành khoa học nghiên cứu dưới các
góc độ khác nhau.
1.2.

Hiện tượng tội phạm

Hiện tượng tội phạm là hiện tượng xã hội- pháp
lý luôn ở trạng thái động, xuất hiện trong xã hội
có giai cấp, là thể thống nhất các tội phạm được
thực hiện trong xã hội nhất định và ở thời kì nhát
định, có các ngun nhân, các đặc điểm định
lượng và định tính của nó đồng thời có tính độc
lập tương đối.
1.3.
1.3.1.

Đặc trưng của hiện tượng tội phạm
Quyết định xã hội

Hiện tượng tội phạm, trước hết, là một hiện
tượng xã hội, có q trình hình thành, phát sinh,
tồn tại và phát triển cùng với quá trình vận động,

phát triển của bản thân xã hội. Hiện tượng tội
3
3


phạm chỉ có thể xuất hiện, tồn tại trong xã hội
lồi người, có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã
hội, mang nội dung xã hội, có các nguyên nhân
xã hội của nó và chịu sự quyết định bởi chính
thực tế xã hội. Chính vì vậy, hiện tượng tội phạm
mang tính quyết định xã hội và điều đó nói lên
bản chất xã hội của hiện tượng này.
Mặt khác, hiện tượng tội phạm mang tính quyết
định xã hội cịn vì nó được hình thành xuất phát
từ những hành vi phạm tội được thực hiện bởi
những cá nhân - thành viên của xã hội, biểu hiện
mặt trái, mặt tiêu cực trong hành vi của con
người, nghĩa là nó có tính độc lập tương đối.
1.3.2.

Pháp lý hình sự của hiện tượng tội phạm

Hiện tượng tội phạm không chỉ là một hiện
tượng xã hội, mà cịn là một hiện tượng pháp lí và
ln mang tính pháp lí hình sự. Khơng thể phán
4
4


xét, đánh giá về tội phạm nói chung, các hành vi

phạm tội cụ thể nói riêng một cách cảm tính hay
tuỳ tiện, mà cần phải căn cứ vào các nguyên tắc,
quy định của pháp luật hình sự. Trong hệ thống
pháp luật do nhà nước ban hành, chỉ có Bộ luật
Hình sự quy định về tội phạm và hình phạt, đưa
ra định nghĩa khái niệm tội phạm, rằng tội phạm
không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà
còn là hành vi trái với pháp luật hình sự. Hiện
tượng tội phạm, với tư cách là thể thống nhất các
tội phạm được thực hiện trong một xã hội nhất
định, không chỉ là hiện tượng nguy hiểm cho xã
hội, mà còn là hiện tượng trái với các nguyên tắc,
quy định của pháp luật hình sự. Đặc trưng này nói
lên bản chất pháp lý hình sự của hiện tượng tội
phạm. Nó có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ, quá
trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật hình
5
5


sự theo hướng tội phạm hóa hay khơng tội phạm
hóa những hành vi xã hội nào đó đều có tác động
nhất định tới hiện tượng tội phạm.
1.3.3.

Biến đổi về mặt lịch sử
Hiện tượng tội phạm cũng như những hiện

tượng xã hội khác ln ln ở trạng thái động,
nghĩa là nó thường xuyên vận động, biến đổi và

thay đổi qua các giai đoạn, thời kì lịch sử nhất
định. Điều đó có thể được thể hiện qua sự thay
đổi trong các quan điểm, quan niệm về hiện
tượng tội phạm, về các dấu hiệu nội dung của tội
phạm, tính chất và mức độ của hành vi phạm
tội... ở các thời điểm lịch sử khác nhau. Sự thay
đổi đó thường đi đơi và gắn liền với sự thay đổi
trong cơ cấu kinh tế - xã hội của xã hội, những
biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã
hội - nghề nghiệp... qua các hình thái kinh tế - xã
6
6


hội hoặc trong từng giai đoạn lịch sử nhất định
của một xã hội.
1.3.4

Giai cấp của hiện tượng tội phạm

Hiện tượng tội phạm chỉ xuất hiện trong các xã
hội có giai cấp, gắn liền với sự ra đời của nhà
nước và quá trình phân tầng Xã hội trong xã hội.
Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị, cầm quyền trong xã hội. Xuất phát từ nhu cầu
bảo vệ các giá trị, lợi ích vật chất hay tinh thần
của giai cấp mình, mỗi giai cấp nắm quyền thống
trị đều đề ra chính sách pháp luật hình sự, ban
hành bộ luật hình sự, trong đó quy định những
hành vi và nhóm hành vi nào là tội phạm và

khơng phải là tội phạm; quy định tính chất, mức
độ của mỗi loại tội phạm, đối tượng xã hội nào
phải chịu và không phải chịu sự trừng phạt. Với tư
cách là thể thống nhất các tội phạm được thực
7
7


hiện trong một xã hội nhất định, hiện tượng tội
phạm, do đó, cũng mang tính giai cấp. Đặc trưng
này nói lên bản chất giai cấp của hiện tượng tội
phạm.
1.3.5.

Xác định theo không gian và thời gian

Về nguyên tắc, không thể đề cập hiện tượng tội
phạm và các loại tội phạm một cách chung
chung, mà hiện tượng tội phạm phải luôn được
xác định rõ ràng về mặt vị trí địa lí, trong một
khung cảnh xã hội nhất định và vào một khoảng
thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa rằng, hiện
tượng tội phạm là hiện tượng phải được xác định
theo không gian và thời gian.
2.

2.1.

8
8


Phân tích về đặc trưng của hiện tượng
tội phạm
Quyết định xã hội


Đặc tính xã hội của tội phạm là tình trạng tội
phạm là hiện tượng xã hội cịn bởi vì nó được hình
thành từ các hành vi phạm tội của những con
người cụ thể sống trong xã hội gây ra, chống lại
toàn bộ xã hội hay một bộ phận xã hội, thậm chí
chống lại chính bản thân người đó. Do tính chất
phức tạp của các mối quan hệ xã hội, pháp luật
chỉ có khả năng mơ hình hóa những nhu cầu xã
hội khách quan đã mang tính điển hình, phổ biến
và thơng qua đó để tác động tới các quan hệ xã
hội khác hướng các quan hệ đó phát triển theo
hướng đã được nhà nước xác định. Tình hình tội
phạm được hình thành từ những hành vi xã hội
được luật hình sự xem là tội phạm và do những cá
nhân sống trong xã hội thực hiện dưới tác động
qua lại của nhiều mối quan hệ xã hội đa dạng
9
9


phức tạp mà chủ yếu là những quan hệ xã hội
tiêu cực.
2.2.


Pháp lý hình sự của hiện tượng tội phạm
Vì tội phạm bao giờ cũng được quy định trong

luậtt hình sự, mà tình trạng phạm tội là tổng hợp
tất cả những hành vi phạm tội xảy ra trong xã hội
có giai cấp cho nên tình trạng phạm tội cũng
mang đặc tính lháp luật hình sự. Tuỳ theo mỗi
quốc gia mà khái niệm tội phạm được quy định
khác nhau, tuy nhiên nói chung tội phạm bao giờ
cũng được quy định trong luật hình sự. Những
hành vi cụ thể có ảnh hưởng đến tình trạng phạm
tội, do đó việc xây dựng và ban hành hệ thống
pháp luật trong một nhà nước pháp quyền có vai
trị to lớn trong tồn bộ cuộc đấu tranh chống tôi
phạm. Tội phạm là khái niệm được định nghĩa bởi
đạo luật hình sự, những hành vi tạo nên tình hình
10
10


tội phạm trong xã hội là những hành vi bị luật
hình sự cấm đốn bằng việc đe doạ áp dụng hình
phạt.
2.3.

Biến đổi về mặt lịch sử

Chủ nghĩa Mác-Lê nin cho rằng: một hiện tượng
trong xã hội và trong tự nhiên khơng phải tự
nhiên mà có và nó cũng khơng phải là bất biến

mà nó ln có sự vận động, thay đổi. Điều này
hồn tồn đúng tình trạng tội phạm - một hiện
tượng xã hội. Với tính cách là hiện tượng xã hội
thì tình trạng tội phạm ln có sự thay đổi phụ
thuộc vào các điều kiện lịch sử, xã hội nhất định.
Điều đó thể hiện trên các khía cạnh như nội dung,
đặc điểm dấu hiệu của tình trạng tội phạm được
thay đổi mỗi khi có sự thay đổi từ hình thái kinh
tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác,
thậm chí ngay trong một hình thái kinh tế xã hội
11
11


nhưng vào các thời kỳ khác nhau mỗi khi có sự
thay đổi về cơ cấu kinh tế, phân tầng xã hội, cơ
cấu giai cấp...thì tình trạng tội phạm cũng khác
nhau. Tình hình tội phạm ln có sự vận động và
thay đổi từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến
tinh vi hiện đại.
2.4.

Giai cấp của hiện tượng tội phạm

Đặc tính giai cấp của tình trạng tội phạm thể
hiện ở nguồn gốc ra đời, ở những nguyên nhân,
điều kiện phát sinh và nội dung của từng tội
phạm cụ thể. Đây là đặc tính hết sức quan trọng,
nó quyết định bản chất của tình trạng tội phạm.
Trong giai cấp thống trị trong xã hội sẽ quy định

hành vi nào bị xem là tội phạm và hệ thống các
biện pháp trừng trị căn cứ vào tính chất mức độ
nguy hiểm của hành vi đó đối với lợi ích của giai
cấp mình, đồng thời chính giai cấp thống trị có
12
12


tồn quyền đề ra những trình tự thủ tục áp dụng
cho các hoạt động điều tra truy tố xét xử các
hành vi phạm tội và người phạm tội.
2.5.

Xác định theo không gian và thời gian

Xác định theo không gian, người ta thường đề
cập hiện tượng tội phạm trong phạm vi lãnh thổ
một quốc gia - nơi pháp luật hình sự có hiệu lực
chung, thống nhất và phân biệt với các quốc gia
khác. Cùng một hành vi xảy ra, ở nước này bị coi
là tội phạm trong khi ở nước khác lại không bị coi
là tội phạm; hoặc cùng một hành vi phạm tội, ở
nước này bị coi là tội phạm nghiêm trọng nhưng ở
nước khác lại chỉ coi là tội phạm ít nghiêm trọng.
Xác định theo thời gian, hiện tượng tội phạm
hay một loại tội phạm cụ thể có thể được nhìn
nhận khác nhau tuỳ thuộc vào sự thay đổi trong
chính sách pháp luật hình sự của các quốc gia ở
13
13



các khoảng thời gian khác nhau. Chẳng hạn, cùng
một hành vi xảy ra, trước đây hành vi đó bị quy
định là tội phạm, nhưng nay khơng cịn quy định
là tội phạm nữa; hoặc cùng một hành vi phạm tội,
trước đây bị pháp luật hình sự quy định là tội
phạm nghiêm trọng, nhưng trong giai đoạn hiện
nay chỉ bị coi là tội phạm ít nghiêm trọng.
3.

Ví dụ về đặc trưng của hiện tượng tội
phạm

Ngày 31/12/2019 sinh nhật tròn 18 tuổi của M tổ
chức tại một Villa ở Hải Phịng, M có mời các bạn
của mình cùng một vài người em. Trong đó có Y là
bạn nam cùng lớp (năm nay đã 18 tuổi) và N là
em gái họ hàng xa của M (năm nay 12 tuổi). Khi
đến buổi tiệc Y đã chú ý đến N vì nhỏ nhắn và
xinh xắn, Y đã chủ động tiếp cận và mời nước N.
Vì là bạn của chị họ nên N cũng khơng đề phịng
14
14


và hết sức vui vẻ trò chuyện cùng Y. Tới gần nửa
đêm khơng thấy N đâu, M đi tìm và phát hiện Y
đang xâm phạm tình dục N trong khi N đang
trong trạng thái bất tỉnh. Sau đó M đã gọi cơng an

tới làm việc và gia đình N đã kiện Y. Tại cơ quan
điều tra, Y khai báo rằng đã cho thuốc mê vào ly
nước ép trước khi mời N uống, sau đó đã tự ý
quan hệ tình dục với N hai lần, Y còn khai thêm 3
năm trước bạn của mình cũng có hành vi giao cấu
với bạn cùng lớp nhưng chỉ bị xử lý nhẹ và vì xem
trên Internet thấy rằng hiếp dâm ở Ấn Độ chỉ hơn
85% số vụ bị truy tố và chỉ 27% bị kết án nên nghĩ
rằng ở Việt Nam cũng sẽ không bị gì nặng vậy
nên mới có hành động như thế. Cịn về phía N,
sau khi tỉnh dậy và biết mình bị xâm hại, N đã
hoảng loạn và có biểu hiện tâm lý không ổn định
15
15


và đã được kết luận bị rối loạn tâm thần và hành
vi 45%. Với hành vi này của Y, ta có thể thấy:
Về những đặc trưng:
-

Quyết định xã hội: vì từng thấy bạn mình đã có
hành vi xâm hại người khác nhưng chỉ bị hình
thức phạt nhẹ (vì lúc đó bạn của Y mới 15 tuổi).
Y khơng biết điều đó nên nghĩ rằng việc hiếp
dâm là tội nhẹ, vậy nên Y đã làm hành vi phạm
tội như bạn mình. Đây là hành vi biểu hiện rõ
của đặc trưng quyết định xã hội, Y đã nhìn và

-


học theo hành vi xấu của bạn mình.
Pháp lý hình sự của hiện tượng tội phạm: N
được kết luận bị rối loạn tâm thần và hành vi
45%. Nếu như ở Khoản 2 Điều 141 của Bộ luật
Hình sự 2015 thì sẽ quy định tỉ lệ tổn thương là
11% đến 45% nhưng khi sửa đổi vào năm 2017
thì tỉ lệ đã tăng lên 31% đến 60%.

16
16


-

Biến đổi về mặt lịch sử: Y khai rằng ngoài việc
học theo hành vi của bạn thì Y cịn học theo
hành vi xâm phạm tình dục trên Internet. Ngày
xưa khơng có Internet nên vấn đề trẻ vị thành
niên xâm phạm tình dục trẻ khác là hồn tồn
khơng có, nhưng ngày nay vì sự phát triển quá
lớn mạnh của Internet nên vấn đề khiến trẻ học

-

theo rất nhanh khác xa với lịch sử.
Giai cấp của hiện tượng tội phạm: Y khai rằng vì
thấy ở Ấn Độ việc xử lý vụ xâm phạm tình dục
rất ít nên cho rằng Việt Nam cũng vậy. Điều này
hoàn toàn sai, mỗi đất nước mỗi giai cấp hồn

tồn khác nhau. Có thể ở Ấn Độ vì tệ nạn xâm
phạm tình dục quá nhiều nên vấn đề giải quyết
rất khó khăn. Nhưng ở Việt Nam thì khác, việc
xử lý là bắt buộc và đúng luật. Khơng có

17
17


chuyện bỏ qua cho những kẻ có hành vi như

-

vậy.
Xác định theo không gian và thời gian: Y đã
khai rằng mình đã xâm phạm N 2 lần, vậy là số
lần phạm tội là 02.
Đầu tiên, hiện tại Y đã đủ 18 tuổi và hành vi của

Y đã phạm vào Điều 141 của Bộ luật Hình sự
2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Thứ hai, Y đã xâm
phạm tình dục N, trong khi đó N mới 12 tuổi vậy
nên Y đã phạm vào Khoản 5 Điều 4 Luật Trẻ em
2016 sửa đổi, bổ sung 2018. Thứ ba, Y đã xâm
phạm N trong lúc N đang bị mất khả năng nhận
thức vì đã bị Y chuốc thuốc mê, theo đó Y sẽ bị
xét xử theo áp dụng tại Điểm b Khoản 7 Điều 3
NĐ06/2019/NQ-HĐTP. Thứ tư, những hành vi của
Y sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo Khoản 1 Điều
155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Cuối cùng, Y sẽ

18
18


phải bồi thường cho N theo quy định tại Điều 584
Bộ luật Dân sự 2015.
PHẦN KẾT LUẬN
Hoạt động phòng chống tội phạm muốn đạt hiệu
quả cao đòi hỏi trước hết phải luôn luôn tiến hành
đồng bộ các biện pháp đấu tranh phòng chống
hiện tượng tội phạm và hành vi sai lệch. Cùng với
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, bài
trừ tệ nạn xã hội được đẩy mạnh; an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, phục vụ
đắc lực công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

19
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

3.

Bộ luật Dân sự, Hà Nội, 2015;
Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội, 2015;
Bộ luật Hình sự, Hà Nội, 2015 sửa đổi bổ sung

4.


2017;
Luật Trẻ em, Hà Nội, 2016 sửa đổi bổ sung

1.
2.

6.

2018;
Nghị Quyết 06/2019/NQ-HĐTP, Hà Nội, 2019;
Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng xã hội

7.

học, Nxb. CAND, Hà Nội, 2010;
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xã hội

5.

học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2020;

20
20



×