Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Bài giảng Cơ sở văn hóa Việt Nam - ĐH Phạm Văn Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 125 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI
----------------------

Bài giảng học phần

CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chương trình Đại học ngành Sư phạm Ngữ văn

Người biên soạn: NGUYỄN THỊ MỸ THUẬN

QUẢNG NGÃI, NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI
----------------------

Bài giảng học phần

CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chương trình Đại học ngành Sư phạm Ngữ văn

Người biên soạn: NGUYỄN THỊ MỸ THUẬN

QUẢNG NGÃI, NĂM 2021
1


LỜI NĨI ĐẦU
Mục tiêu chính của học phần Cơ sở văn hóa Việt Nam là trang bị cho sinh viên những


kỹ năng, phương pháp tiếp cận và những hiểu biết cơ bản về những vấn đề của văn hóa học và
văn hóa Việt Nam, giúp sinh viên nhận thức và có thái độ đúng đắn về vai trị, vị trí của văn
hóa trong cuộc sống hiện tại, biết cách sử dụng hữu hiệu kiến thức đã học, hỗ trợ việc học tập,
nghiên cứu các môn học liên quan và tham gia một cách có ý thức vào việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc. Theo đó, cấu trúc của bài giảng học phần Cơ sở văn hóa Việt
Nam cũng sẽ được chia làm 4 chương với các nội dung tương ứng:
Chương 1: Cơ sở văn hóa học.
Chương 2: Định vị văn hóa Việt Nam.
Chương 3: Các lĩnh vực văn hóa.
Chương 4: Bản sắc văn hóa Việt Nam và vấn đề bảo tồn, phát huy và xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Bài giảng sử dụng tài liệu tham khảo chính là giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam của
Trần Ngọc Thêm (Nxb Giáo dục, 2000).

1


Chương 1. CƠ SỞ VĂN HĨA HỌC
1.1. Ngành văn hóa học
Vì văn hóa bao qt một phạm vi q rộng cho nên trong một thời gian dài, người ta
chỉ chú ý đến các khoa học bộ phận như triết học, sử học, địa lý học,… mà khơng có khoa
học nào lấy văn hóa làm đối tượng. Văn hóa học với tư cách là một bộ mơn khoa học độc lập
thì phải đợi đến thế kỷ XIX mới bắt đầu được ra đời và phát triển.
Sự ra đời và phát triển của văn hóa học với tư cách là một mơn khoa học độc lập gắn
liền với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể.
- Đó là q trình phát hiện ra các vùng đất mới, việc mở rộng thuộc địa của các nước
châu Âu dẫn đến những tiếp xúc về kinh tế, hàng hóa, những nhu cầu nghiên cứu văn hóa các
dân tộc để khai thác, quản lý
- Sự khảo cứu vấn đề lịch sử và lý luận văn hóa trong cơng trình của các nhà triết học
thời khai sáng (TK XVIII)

- Sự phát triển của nhiều ngành khoa học
Năm 1871, lần đầu tiên văn hóa đã được E.B. Tylor định nghĩa trong tác phẩm Văn
hóa nguyên thủy (Primitive Culture) xuất bản ở London.
Nhưng văn hóa như đối tượng của một khoa học độc lập thì phải đến năm 1885 mới
hình thành rõ nét với cơng trình hai tập mang tên Khoa học chung về văn hóa của Gustav
Kleimm (1802-1867) người Đức, trong đó trình bày sự phát sinh phát triển toàn diện của loài
người như một lịch sử văn hóa.
Bản thân thuật ngữ Văn hóa học (Culturology) xuất hiện vào năm 1898 tại Đại hội
giáo viên sinh ngữ ở Viên (Áo), song mãi đến khi cơng trình The Science of Culture của
Leslie White xuất bản năm 1949 ở Mỹ thì thuật ngữ này mới trở nên phổ biến .
Trong sự phát triển của văn hóa học nửa đầu tk. XX có sự đóng góp quan trọng của
các nhà nhân học văn hóa Mỹ về việc mở rộng đối tượng và quy mô nghiên cứu (những năm
2


30-40, phong trào nghiên cứu văn hóa và ngơn ngữ của thổ dân Mỹ phát triển khá rầm rộ) và
của C. Lévi-Strauss về phương pháp nghiên cứu (cuốn Anthropologie Structutral của ông
xuất bản tại Paris năm 1958 đánh dấu việc đưa phương pháp cấu trúc từ lĩnh vực ngôn ngữ
học áp dụng vào việc nghiên cứu văn hóa).
Có thể nói, thế kỷ XX chính là thế kỷ phát triển nở rộ các ngành khoa học về văn
hóa.
Văn hố có thể được xem xét từ nhiều hướng, do vậy văn hóa học có thể được nghiên
cứu và trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau, tạo nên nhiều mơn, phân mơn.
Dưới góc độ thời gian, mơn lịch sử văn hóa (văn hóa sử) khảo sát tiến trình văn hóa
của một dân tộc theo từng giai đoạn lịch sử với các tình tiết và sự kiện, mở rộng hiểu biết về
văn hóa theo chiều dọc.
Dưới góc độ khơng gian, mơn địa lí văn hóa (địa văn hóa) có trách nhiệm khảo sát
văn hóa dân tộc theo chiều ngang, trong mối quan hệ với địa lí quốc gia, tìm hiểu đặc điểm
của các vùng văn hóa.
Dưới góc độ lí luận khái qt chung, văn hóa học đại cương có trách nhiệm nghiên

cứu các quan niệm, các học thuyết, các cách tiếp cận văn hóa và văn hóa học nói chung.
Cơ sở văn hóa là mơn học trình bày những đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình
thành và phát triển của một nền văn hóa cụ thể. Đối với sinh viên ngành văn hóa, đây là một
mơn học mang tính chất nhập mơn; cịn đối với sinh viên các ngành khác, nó trang bị những
hiểu biết tối thiểu về một nền văn hóa, một dân tộc để khi bước vào đời, có thể tham gia một
cách có ý thức vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc.
1.2. Đại cương về văn hóa
1.2.1. Khái niệm văn hóa
Từ “Văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm
hết sức khác nhau. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa hẹp để chỉ học thức
(trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn
3


minh của một giai đoạn (văn hóa Đơng Sơn),… Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả,
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống.
Ở phương Đơng: văn hóa ≈ “văn”, đối lập với “võ”. “Văn hoá” (văn trị giáo hoá) =
“lấy ‘văn’ để giáo hoá thiên hạ”, giống như dạy con trong nhà: nói ngọt khơng được mới
phải dùng roi. Cách nhìn tổng quát rất gần với cái mà nay ta gọi là văn hoá: nho y lý số gắn
liền, văn triết sử bất phân. Phương pháp nghiên cứu rất gần với cái mà nay ta gọi là phương
pháp liên ngành.
Ở phương Tây: khái niệm cultura, culture xuất phát từ động từ colere trong tiếng
Latinh khởi đầu chỉ có nghĩa là ‘trồng trọt’, ‘chăm sóc’ (cây cối), ‘hồn thiện’. (Cultura juris
= hoàn thiện quy tắc ứng xử, cultura linguage = hồn thiện năng lực ngơn ngữ, cultura animi
= hồn thiện tâm hồn...)
Đến tk. 18, các ngôn ngữ châu Âu mới bắt đầu dùng cultura với nghĩa là ‘chăm
sóc’/ ‘giáo dục’/ ‘hồn thiện con người’ (= văn hóa).
Chủ nghĩa tư bản phương Tây ra đời, thúc đẩy sự phát triển của văn minh. Tk. XIX,
Nhật Bản mở cửa tiếp thu văn minh phương Tây, khái niệm culture đã được dịch thành 文化
(‘văn hóa’, tiếng Nhật đọc là Bunka). Từ Nhật Bản, khái niệm ‘văn hoá’ với cách hiểu mới

đã nhập trở lại vào tiếng Hán.
* Một số định nghĩa văn hóa
- E.B.Tylor (1871): Văn hóa, hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói
chung gờm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng
lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội.
- Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tờn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
4


Phạm Văn Đồng: Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng
lớn, bao gờm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người
trong suốt quá trình tờn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao
gờm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng,
sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng
đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh”.
- UNESCO (1994) văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
+ Theo nghĩa rộng: Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về
tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đờng gia
đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa khơng chỉ bao gờm nghệ tḥt, văn
chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị,
những truyền thống, tín ngưỡng…
+ Nghĩa hẹp: Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách
ứng xử và giao tiếp trong cộng đờng, khiến cộng đờng đó có đặc thù riêng…
Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm năm 1991:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên
và xã hội của mình.
1.2.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa
Định nghĩa văn hóa của Trần Ngọc Thêm cung cấp cho ta chùm bốn đặc trưng cơ
bản của văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử. Đây là bộ cơng cụ
cần và đủ để xác định khái niệm văn hóa. Mọi đặc trưng khác đều nằm trong hoặc phái sinh từ
bốn đặc trưng cơ bản này.
1.2.2.1. Các đặc trưng của văn hóa
a. Tính hệ thống
Hệ thống là một tập hợp các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Mọi hiện tượng,
sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Nhược điểm lớn nhất của
5


nhiều định nghĩa văn hóa lâu nay là ở chỗ coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của
những tri thức bộ phận, chẳng hạn định nghĩa của E.B.Tylor.
Với tư cách là một khoa học lý luận, VĂN HÓA HỌC có nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa
như một đối tượng riêng biệt trên cơ sở tư liệu của những ngành khác (dân tộc học, sử học,
ngôn ngữ học, tôn giáo học,…) cung cấp với mục đích phát hiện các đặc trưng, những quy
luật hình thành và phát triển. Nghiên cứu văn hóa khơng chỉ tìm hiểu “Cái gì?” mà chủ yếu là
tìm hiểu “Tại sao?” và “Như thế nào?”. Nhờ đi vào bề sâu, tìm những mối liên hệ có tính bản
chất giữa các sự kiện, văn hóa học sẽ cho phép ta suy ngẫm và lý giải các tư liệu văn hóa mà
ta bắt gặp.
b. Tính giá trị
Trong từ Văn hóa thì Văn có nghĩa là “vẻ đẹp” (= giá trị), Hóa có nghĩa là “trở thành”,
Văn hóa có nghĩa là “trở thành đẹp”, “thành có giá trị”. Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các
giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Tuy nhiên, giá trị là một khái niệm có tính tương đối, phụ thuộc vào Khơng gian, Thời
gian và Chủ thể định giá.
Chẳng hạn, mắm tơm có giá trị ở Việt Nam nhưng khơng có giá trị ở phương Tây

(khơng gian); có giá trị vào bữa ăn nhưng khơng có giá trị vào lúc đang họp hội nghị (thời
gian); và chỉ có giá trị đối với người biết ăn (chủ thể).
Cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện
được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng, sự vật có thuộc phạm trù văn hóa hay khơng
phải xem xét mối tương quan giữa mức độ “giá trị” và “phi giá trị” trong chúng. Chẳng hạn,
nói dối là khơng trung thực, là lừa dối người khác, nhưng đôi khi nói dối lại mang lại lợi ích
cho bản thân mình cũng như tạo niềm vui cho người khác nên có giá trị; ăn trộm tuy mang
lại nguồn lợi cho người ăn trộm và gia đình anh ta, nhưng lại làm tổn hại đến quyền lợi của
nhiều người khác nên không có giá trị,…
Văn hóa hoặc phi văn hố hiểu theo nghĩa tuyệt đối là khơng có. Một sự vật/hiện
tượng có thể là phi văn hoá trong trong hệ toạ độ này, nhưng lại là văn hóa trong hệ toạ độ
6


khác. Và ngược lại, một sự vật/hiện tượng có thể là giá trị, là văn hóa trong hệ toạ độ này,
nhưng lại là phi giá trị, phi văn hoá trong một hệ toạ độ khác.
Vì vậy, muốn xác định được giá trị của một sự vật (khái niệm) thì phải xem xét nó
trong hệ toạ độ K-C-T (khơng gian - thời gian - chủ thể) cụ thể, trong mối tương quan giữa
mức độ “giá trị” và “phi giá trị” mà nó có.
c. Tính nhân sinh
Văn hóa là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Theo nghĩa này, văn hóa đối lập
với tự nhiên: nó là cái nhân tạo, trong khi tự nhiên là cái thiên tạo. Tuy nhiên, văn hóa
khơng phải là sản phẩm của hư vơ mà có nguồn gốc tự nhiên. Tự nhiên là cái có trước, tự
nhiên quy định văn hóa:
Thứ nhất, tự nhiên tạo nên con người; con người tạo nên văn hóa; văn hóa là sản phẩm
trực tiếp của con người và gián tiếp của tự nhiên. Thứ hai, trong quá trình sáng tạo văn
hóa, con người vẫn phải sử dụng năng lực tự nhiên tiềm tàng của chính mình (bộ não).
Và thứ ba, trong q trình sáng tạo văn hóa, con người vẫn phải sử dụng các tài nguyên
phong phú của tự nhiên. Tóm lại, văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.
Sự tác động của của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (luyện quặng

để chế tạo đồ dùng, dùng gỗ để đẽo tượng,…) hoặc mang tính tinh thần như đặt tên, tạo truyền
thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long, hịn Vọng Phu,…
d. Tính lịch sử
Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một q trình
và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề một chiều sâu và chính
nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống
(truyền: chuyển giao, thống: nối tiếp) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua khơng
gian và thời gian trong cộng đồng.

7


1.2.2.2. Chức năng của văn hóa
a. Chức năng tổ chức xã hội
Xã hội loài người được tổ chức theo những cách thức đặc biệt thành những làng xã,
quốc gia, đô thị, hội đồn, tổ nhóm, v.v. mà giới động vật chưa hề biết tới – đó là nhờ văn hóa.
Làng xã, quốc gia, đô thị… của mỗi dân tộc mỗi khác nhau. Cùng là chủ nghĩa tư bản,
nhưng chủ nghĩa tư bản Mỹ khác với chủ nghĩa tư bản châu Âu và khác với chủ nghĩa tư bản
Nhật Bản. Tất cả những khác biệt đó đều do sự chi phối của văn hóa. Chính tính hệ thống của
văn hóa là cơ sở cho chức năng này.
b. Chức năng điều chỉnh xã hội
Mọi sinh vật đều có khả năng thích nghi với mơi trường xung quanh bằng cách tự
biến đổi mình sao cho phù hợp với tự nhiên qua cơ chế di truyền và chọn lọc tự nhiên. Con
người thì hành xử theo một cách thức hoàn toàn khác hẳn: dùng văn hóa để biến đổi tự nhiên
phục vụ cho mình bằng cách tạo ra đồ ăn, quần áo, nhà cửa, vũ khí, máy móc, thuốc men…
Chức năng điều chỉnh xã hội hình thành trên cơ sở của tính giá trị và tính biểu trưng
của văn hố. Các giá trị văn hóa khơng phải là bất biến. Tuỳ theo hệ giá trị đã được điều
chỉnh mà mọi ứng xử, hành động sẽ được điều chỉnh một cách tương ứng. Nhờ có chức năng
điều chỉnh, văn hóa trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển trong xã hội loài người.

c. Chức năng giao tiếp
Xã hội khơng thể hình thành và tồn tại được nếu thiếu sự giao tiếp. Văn hóa tạo ra
những điều kiện và phương tiện cho sự giao tiếp ấy, văn hóa là mơi trường giao tiếp của
con người. Đến lượt mình, văn hóa cũng là sản phẩm của giao tiếp. Tính nhân sinh là cơ sở
cho chức năng giao tiếp của văn hóa.
d. Chức năng giáo dục
Văn hóa thực hiện được chức năng giáo dục trước hết là do nó có năng lực thơng tin
hồn hảo.
Ở động vật, thơng tin được mã hóa trong cấu trúc tế bào thần kinh và truyền đạt bằng
8


con đường di truyền; ở động vật cao cấp, thông tin còn được truyền đạt bằng cách quan sát
và bắt chước hành vi của cha mẹ. Trong cả hai trường hợp, từ thế hệ này sang thế hệ khác,
lượng thông tin khơng tăng lên.
Nhờ văn hóa, thơng tin được mã hóa bằng những hệ thống ký hiệu tạo thành những
sản phẩm nằm ngồi con người. Chúng được cố định hóa và khách quan hóa dưới dạng
ngơn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận... Do vậy mà chúng được chuyển
giao qua không gian (tạo nên sự giao lưu văn hóa) và qua thời gian (tạo nên truyền thống văn
hóa). Đó chính là chức năng giáo dục của văn hóa. Nhờ chức năng này, thơng tin được tích
luỹ, được nhân bản và tăng lên nhanh chóng.
Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trị quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con
người, tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa đưa con người gia nhập vào cộng đồng
xã hội; bởi vậy mà có người gọi chức năng này của văn hóa là chức năng xã hội hóa.
Văn hóa bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Văn hóa vừa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực phát triển của xã hội xuyên suốt thời gian và
khơng gian. Chức năng thứ năm này là tổng hồ của cả bốn chức năng trên, bao gồm chúng
trong mình; bởi vậy, khi đã nói đến bốn chức năng kia thì khơng nhất thiết phải nói đến chức
năng này, và, ngược lại, khi đã nói đến chức năng này thì khơng nhất thiết phải nói đến bốn
chức năng kia.

1.2.3. Phân biệt văn hóa và văn minh, văn hiến, văn vật
Lâu nay, khơng ít người vẫn sử dụng khái niệm VĂN MINH (civilization) như một từ
đồng nghĩa với VĂN HÓA. Tuy nhiên, khi nhắc đến văn minh người ta thường nghĩ đến các
tiện nghi vật chất. Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau trước hết ở tính giá trị: trong khi
văn hóa là một khái niệm bao trùm, chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần thì văn minh
thiên về các giá trị vật chất mà thôi.
Văn hóa và văn minh khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa ln có bề dày của
q khứ (tính lịch sử) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ cho biết trình độ phát triển
của văn hóa. Văn minh ln là đặc trưng của một thời đại. Chẳng hạn, nếu như đầu thế kỷ
9


XIX, chiếc đầu máy hơi nước là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỷ XX, nó trở thành
biểu tượng của sự lạc hậu, nhường chỗ cho tên lửa vũ trụ và máy vi tính,…
Sự khác biệt về giá trị và tính lịch sử của văn hóa và văn minh dẫn đến sự khác biệt về
phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và tính lịch sử, mà cái tinh
thần và cái lịch sử là của riêng của một dân tộc; cịn văn minh có tính quốc tế, nó đặc trưng
cho cả một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà vật chất thì
dễ lây lan, phổ biến.
Về nguồn gốc, văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương đơng nơng nghiệp, cịn văn minh
gắn bó nhiều hơn với phương Tây đơ thị. Các nền văn hóa cổ đại hình thành nên 2000 năm
TCN như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa,… đều là sản phẩm của phương Đơng. Nền
văn hóa phương Tây sớm nhất là Hy Lạp thì cũng xuất hiện sau các nền văn hóa phương
Đơng hàng nghìn năm (thế kỷ XI-III TCN) và được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành
tựu của các nền văn hóa phương Đơng gần nó nhất là Ai Cập và Lưỡng Hà (hệ thống thần
thoại, lịch pháp, chữ viết).
Về vị trí và đặc điểm kinh tế thì các nền văn hóa phương Đơng đều hình thành ở lưu
vực các con sơng lớn là những nơi sản xuất nông nghiệp. Trong ngôn ngữ phương Tây thì văn
hóa bắt nguồn từ chữ cultus tiếng Latinh có nghĩa là “trồng trọt”, từ “trồng trọt” phát triển ra
nghĩa “chăm sóc” (cây cối), từ “chăm sóc” (cây cối) dẫn đến “giáo dục” (chăm sóc con

người). Trong khi đó thì từ “văn minh” trong các ngơn ngữ phương Tây đều bắt nguồn từ chữ
civitas, tiếng Latinh có nghĩa là “thành phố”.
Như vậy, VĂN MINH là khái niệm mang tính quốc tế, có ng̀n gốc từ phương Tây đơ thị
và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.
* Ở Việt Nam cịn có khái niệm văn hiến, văn vật.
Văn hiến (văn: văn hóa, hiến: hiền tài): Văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do
những người có tài đức chuyên chở. Một nước văn hiến là nước có truyền thống văn hóa lâu
đời, có đời sống văn hóa tinh thần phát triển thể hiện ở văn chương, sách vở, phong tục tập
quán, điển chương chế độ và nhân tài, anh hùng hào kiệt.
10


Văn vật là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và nhiều di tích lịch sử.
Ta có thể thấy văn hiến và văn vật là hai khái niệm bộ phận của văn hóa. Chúng chỉ
khác nhau ở mức độ bao quát các giá trị: Văn hiến là văn hóa thiên về “truyền thống lâu đời”,
mà truyền thống lâu đời cịn lưu giữ được khơng bị chiến tranh và thời gian hủy hoại chính là
các giá trị tinh thần, cịn văn vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, cơng
trình, hiện vật).
Văn hóa

Văn hiến

Văn vật

Văn minh

Bao gồm cả giá trị

Thiên về giá trị


Thiên về giá trị

Thiên về giá trị vật

vật chất lẫn tinh

tinh thần

vật chất

chất – kỹ thuật

thần
Có bề dày lịch sử

Chỉ trình độ phát
triển

Có tính dân tộc

Có tính quốc tế

Gắn bó nhiều với

Gắn bó nhiều với

phương Đơng nơng nghiệp

phương Tây đơ thị


1.3. Cấu trúc của văn hóa
1.3.1. Cấu trúc hai thành phần
1.3.1.1. Văn hóa vật chất và tinh thần
Văn hóa vật chất thường được xem là bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt
động sản xuất vật chất của con người tạo ra: đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hàng
ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại…
Văn hóa tinh thần thường được xem là bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt
động sản xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng - tơn giáo, nghệ thuật,
phong tục, lễ hội, đạo đức, ngơn ngữ, văn chương…
Sự phân biệt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần này mới nhìn tưởng như khá rõ
11


ràng và hiển nhiên, song khi đi vào xem xét từng trường hợp cụ thể thì sẽ gặp rất nhiều lúng
túng.
Sự phức tạp của việc xác định giá trị của một đối tượng là vật chất hay tinh thần
trước hết nằm ở tính thống nhất cao, cũng là tính nước đơi, của các đối tượng văn hóa: Mọi
đối tượng đều được làm ra bằng cả chất liệu vật chất lẫn tinh thần; cái vật chất và cái tinh
thần luôn đi đơi với nhau.
Các sản phẩm văn hóa vật chất trước khi được làm ra trên thực tế đã phải được
làm ra (hình dung) trong óc. Do vậy, mọi giá trị văn hố vật chất đều mang trong mình giá
trị tinh thần; nếu giá trị vật chất khơng có giá trị tinh thần thì chưa trở thành văn hố.
Ngược lại, các giá trị văn hoá tinh thần muốn phát huy được tác dụng thì ln phải tồn
tại trong giá trị văn hố vật chất; sản phẩm tinh thần mà khơng vật chất hóa (làm thành pho
tượng, quyển sách...) thì khơng thể nào chuyển giao và phát huy tác dụng được.
Sự phức tạp của việc xác định giá trị của một đối tượng là vật chất hay tinh thần còn
do khả năng chuyển hoá giữa giá trị vật chất & tinh thần. Trong thực tế, giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần có thể chuyển hóa cho nhau.
1.3.1.2. Văn hóa vật thể và phi vật thể
Để khắc phục những rắc rối khi dựa vào chất liệu để phân loại các đối tượng thành

văn hoá vật chất và tinh thần, nhất là trong công tác kiểm kê và lưu giữ các giá trị văn hóa,
UNESCO đã có sáng kiến thay cặp đối lập “vật chất - tinh thần” bằng cặp đối lập tangible intangible (“hữu hình - vơ hình” hay “vật thể - phi vật thể”).
Văn hóa vật thể, hay hữu hình (tangible), là tiểu hệ các giá trị do con người sáng tạo
và tích lũy bằng hoạt động biến đổi tự nhiên, tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, có thể nhận biết
bằng các giác quan như đồ vật, nhà cửa, đình chùa, đền miếu, lăng mộ, v.v..
Văn hóa phi vật thể, hay vơ hình (intangible), là tiểu hệ các giá trị do con người
sáng tạo và tích lũy khơng có biểu hiện vật chất, khơng thể nhận biết bằng các giác quan.
Văn hóa phi vật thể bao gồm những loại giá trị như ngôn ngữ, huyền thoại, văn
chương truyền khẩu, nghệ thuật trình diễn, âm nhạc, nghi thức, phong tục, kinh nghiệm y
12


dược cổ truyền, bí quyết nấu ăn, bí quyết nghề thủ công truyền thống, v.v… Để lưu giữ,
chúng phải được vật chất hoá bằng những kỹ thuật đặc biệt như thu âm, thu hình.
1.3.2. Cấu trúc ba thành phần
Trần Ngọc Thêm (1991): Văn hóa nhận thức - tổ chức - ứng xử
Là cách phân loại các giá trị văn hóa theo hoạt động. Các giá trị văn hóa được chia làm
ba loại theo cách thức hoạt động là: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử.
Văn hóa nhận thức nếu xét về đối tượng nhận thức thì có thể chia tiếp thành văn hóa
nhận thức về vũ trụ và văn hóa nhận thức về con người. Cịn xét về mức độ nhận thức thì văn
hóa nhận thức có thể chia thành văn hóa nhận thức cảm tính (như tín ngưỡng, tơn giáo, tri
thức dân gian, tri thức đạo học) và văn hóa nhận thức lý tính (khoa học kỹ thuật truyền
thống).
Văn hóa tổ chức xét về đối tượng tổ chức thì có thể chia thành văn hóa tổ chức đời
sống tập thể và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân.
Văn hóa ứng xử với mơi trường xét về đối tượng ứng xử thì có thể chia thành văn hóa
ứng xử với mơi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với mơi trường xã hội. Cịn xét về cách
thức ứng xử thì có thể chia thành văn hóa tận dụng mơi trường và văn hóa đối phó với mơi
trường.
CÂU HỎI

1. Nêu định nghĩa văn hóa của Trần Ngọc Thêm, các đặc trưng và chức năng của văn hóa rút
ra từ định nghĩa này.
2. Phân biệt các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật.
3. Trình bày cấu trúc của văn hóa và các bộ phận của nó.

13


Chương 2. ĐỊNH VỊ VĂN HĨA VIỆT NAM
2.1. Loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp
Nói đến sự khác biệt văn hóa, lâu nay thường hay nhắc đến sự khác biệt phương
Đơng và phương Tây.
Phương Đơng và phương Tây dưới góc độ văn hóa được hình thành trong khu vực cựu
lục địa Á-Âu (Eurasia). Phương Đông = Đông Nam; phương Tây = Tây Bắc. TÂY BẮC:
Lạnh, khơ, băng tuyết, địa hình đơn giản. ĐƠNG NAM: Nóng, ẩm, sơng nước, địa hình
phức tạp.
Từ sự khác biệt ban đầu này về điều kiện tự nhiên dẫn đến hàng loạt khác biệt về văn
hoá (kinh tế, lối sống, tổ chức xã hội...).
Môi trường sống của cư dân phương Đơng (Đơng Nam) là xứ nóng sinh ra mưa nhiều
(ẩm), tạo nên các con sông lớn với những vùng đờng bằng trù phú. Cịn phương Tây (= Tây
Bắc) là xứ lạnh với khí hậu khơ, khơng thích hợp cho thực vật sinh trưởng, có chăng chỉ là
những vùng đờng cỏ mênh mơng. Hai loại địa hình này khiến cho cư dân hai khu vực phải
sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng trọt và chăn nuôi.
Kinh tế trồng trọt bắt buộc người dân phải sống định cư để chờ cho cây cối lớn lên, ra
hoa kết quả. Kinh tế chăn ni thì khác, tài sản của dân du mục là gia súc, gia súc ăn cỏ và
không cố định như cây trồng. Ăn hết bãi cỏ này lại đi đến bãi cỏ khác. Do đó mà người du
mục phải sống du cư, nay đây mai đó lang thang.
PHƯƠNG

PHƯƠNG TÂY


ĐƠNG
Đơng – Nam

Tây – Bắc

Tự nhiên

Nóng – nước

Lạnh – khơ

Tự nhiên

Địa hình

Phức tạp

Thảo ngun

Địa hình

Kinh tế

Trồng trọt

Chăn ni

Kinh tế


14


Lối sống

Định cư

Du cư

Lối sống

TC xã hội

Nông thôn

Thương nghiệp

Kinh tế

Định cư

Lối sống

Đô thị

TC xã hội

Công nghiệp

Kinh tế


Văn minh

Thành tựu

Thành tựu

Văn hóa

VĂN HĨA GỐC NƠNG NGHIỆP

VĂN HĨA GỐC DU MỤC

Xét về đặc tính, văn hố gốc nơng nghiệp phương Đơng thiên về tính tĩnh (âm tính),
văn hố gốc du mục phương Tây thiên về tính động (dương tính).
*Mỗi loại hình văn hố này có một chùm đặc trưng điển hình như sau:
a. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc người dân phải
sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên nên dân nơng nghiệp có ý thức tơn trọng và ước vọng sống hòa hợp với tự
nhiên. Người Việt mở miệng là nói "lạy trời", "nhờ trời", "ơn trời"...
Cịn dân du mục thì nếu thấy nơi này khơng thuận tiện thì dễ dàng bỏ đi nơi khác, dẫn
đến tâm lý coi thường thiên nhiên. Bởi vậy mà các nền văn hóa phương Tây trọng động
ln mang trong mình tham vọng chinh phục và chế ngự thiên nhiên.
Mỗi thái độ đều có mặt hay dở của nó. Tơn trọng thiên nhiên có cái hay là gìn giữ
được mơi trường sống tự nhiên nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt rè, e sợ. Coi
thường thiên thiên có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với tự nhiên,
khuyến khích khoa học phát triển nhưng có cái dở là hủy hoại mơi trường.
Vì nghề nơng, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả
mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời, trông đất, trơng mây; trơng mưa, trơng gió, trơng
ngày, trơng đêm...) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp

kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ,
mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn
15


biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho
kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa;
Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau
mùa lúa...
Ngược lại, đối tượng quan tâm của nghề chăn nuôi không tản mạn mà tập trung vào
đàn gia súc, con vật. Do đó mà trong lĩnh vực nhận thức thì thiên về tư duy phân tích (theo
lối khách quan, lí tính và thực nghiệm, dẫn đến kết quả là khoa học phương Tây phát triển),
đồng thời chú trọng các yếu tố (dẫn đến lối sống thực dụng, thiên về vật chất)
b. Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo ngun tắc trọng
tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ
sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bờ cái lí khơng bằng một tí cái tình. Lối sống trọng tình cảm
tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà => coi trọng cái bếp =>
coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là người quản lí
kinh tế, tài chính trong gia đình - người nắm tay hịm chìa khóa. Chính bởi vậy mà người
Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ơng khơng bằng cờng bà...; cịn theo kinh nghiệm dân
gian thì Ruộng sâu trâu nái, khơng bằng con gái đầu lịng. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là
người có vai trị quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái
mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là "mẹ" đã
mang thêm nghĩa "chính, quan trọng": sơng cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón
tay cái, máy cái...
Khơng phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả
phương Tây gọi là "xứ sở Mẫu hệ" (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các dân
tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hồn tồn khơng chịu ảnh
hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai...), vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn:

phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ... Cũng
không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc
của họ là mê phum, mê sóc (mê=mẹ), bất kể đó là đàn ơng hay đàn bà.
16


Đến với phương Tây thì nguyên tắc tổ chức cộng đồng là trọng sức mạnh, trọng tài,
trọng võ, trọng nam giới. Vào thời La Mã cổ đại, phụ nữ không hề có tên riêng. Cho đến
nay, nhiều nước châu Âu vẫn giữ tục lệ phụ nữ mang họ và tên chồng trong các văn bản
chính thức. Truyền thuyết Thiên chúa giáo coi đàn bà chỉ là cái xương sườn của đàn ông mà
thôi. Trong các ngôn ngữ phương Tây, nhiều danh từ chỉ nghề nghiệp hoặc chức vụ đều
mang giống đực hoặc cấu tạo với từ căn mang nghĩa người đàn ông: Chairman, hedman,
shopman, tradesman, newsman, oilman,
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nơng nghiệp
cộng với ngun tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp
với từng hồn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc
áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy...
Sống theo tình cảm, con người cịn phải biết tơn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ
với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương Đông
và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí
coi trọng cộng đồng, tập thể. Người nơng nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, ln có
tập thể đứng sau. Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc
(giờ cao su), sự thiếu tơn trọng pháp luật... Lối sống trọng tình làm cho thói tùy tiện càng trở
nên trầm trọng hơn: Một bờ cái lí khơng bằng một tí cái tình... Nó dẫn đến tệ "đi cửa sau"
trong giải quyết công việc: Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế... Trọng tình và linh hoạt
làm cho tính tổ chức của người nơng nghiệp kém hơn so với cư dân các nền văn hóa gốc du
mục.
Ngược lại, tư duy phân tích và siêu hình của văn hóa trọng động dẫn đến cách thức tổ
chức cộng đồng theo nguyên tắc. Cuộc sống du cư của tổ tiên khi xưa địi hỏi con người
ln phải sống có tổ chức, phải tn thủ kỷ luật với tính tổ chức cao. Để duy trì được nguyên

tắc, kỷ luật, văn hóa trọng động tạo ra cách cư xử là quyền lực nằm tuyệt đối trong tay người
cai trị (quân chủ).
Tư duy phân tích, cách tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc đã dẫn đến một đặc điểm
quan trọng của văn hóa phương Tây là trọng cá nhân.
17


c. Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt
còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam khơng những khơng có chiến
tranh tơn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên
chúa giáo...) đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người Việt
Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi
khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng, cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa,
"trải chiếu hoa" cho giặc về, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự.
Trong khi đó, tinh thần trọng võ, lối sống theo nguyên tắc của văn hóa trọng động dẫn
đến lối ứng xử độc tôn trong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó.
Tiêu chí

VĂN HĨA TRỌNG

VĂN HĨA TRỌNG

TĨNH (gốc nơng nghiệp)

ĐỘNG (gốc du mục)

Đồng bằng (ẩm, thấp)

Đồng cỏ (khô, cao)


Trồng trọt

Chăn nuôi

Định cư

Du cư

Ứng xử với mơi

Tơn trọng, sống hịa hợp

Coi thường, tham vọng

trường tự nhiên

với tự nhiên

chế ngự thiên nhiên

Lối nhận thức, tư

Thiên về tổng hợp, biện

Thiên về phân tích, siêu

duy

chứng (trọng quan hệ);


hình (trọng yếu tố);

chủ quan, cảm tính, kinh

khách quan, lý tính, thực

nghiệm

nghiệm

Trọng tình, trọng đức,

Trọng sức mạnh, trọng

trọng văn, trọng nữ

tài, trọng võ, trọng nam

Linh hoạt, dân chủ, trọng

Ngun tắc, qn chủ,

cộng đồng

trọng cá nhân

Đặc

Địa hình


trưng

Nghề

gốc

chính
Lối sống

Tổ

Ngun

chức

tắc tổ

cộng

chức CĐ

đồng

Cách
thức tổ

18


chức CĐ

Ứng xử với môi

Dung hợp trong tiếp nhận,

Độc tôn trong tiếp nhận,

trường xã hội

mềm dẻo, hiếu hòa trong

cứng rắn, hiếu thắng

đối phó

trong đối phó

Đây là hai loại hình văn hóa cơ bản có tính cách bao trùm. Mọi nền văn hóa trên thế
giới đều khơng thốt ra ngồi hai loại hình văn hóa này. Tuy nhiên, khơng nên vận dụng chúng
một cách máy móc.
2.2. Chủ thể văn hóa
Trước đây, đã từng có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam
(gốc bản địa, gốc Trung Hoa, gốc Tây Tạng, gốc quần đảo Thái Bình Dương).
Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu về sự hình thành và phân bố của các chủng
người trên trái đất, có thể khẳng định rằng của thể của văn hóa Việt Nam ra đời:
- Trong phạm vi của trung tâm lồi người phía Đơng
- Trong khu vựa hình thành của đại chủng phương Nam.
Trong những giai đoạn sau, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia
thành ba giai đoạn:
a. Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dịng người thuộc đại
chủng Mongoloid thiên di từ vùng Tây Tạng tới Đông Nam và dừng lại ở vùng Đông Dương

ngày nay. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanésien bản địa dẫn đến sự
hình thành chủng Indonésien với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp. Từ đây
lan tỏa ra, người Indonesien cư trú trên tồn bộ Đơng Nam Á cổ đại.
b. Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5.000 về trước), tại khu vực nay
là Nam Trung Hoa và Bắc Đơng Dương (phía nam sơng Dương Tử đến phía Bắc sông Hồng
Hà), trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình Indonesien bản địa dưới tác động của việc tiếp xúc
thường xuyên với đại chủng Mongoloid từ phía Bắc đã hình thành nên một chủng mới là

19


chủng Nam - Á. Với chủng Nam - Á, các nét đặc trưng Mongoloid lại càng nổi trội nên được
xếp vào ngành Mongoloid phương Nam.
c. Sau đó, chủng Nam – Á được chia tách thành một loạt các chủng tộc mà thư tịch cổ
Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt: Điền Việt (Vân Nam), Nam Việt (Quảng Đông),
Lạc Việt (Quảng Tây và Bắc Bộ Việt Nam), Mân Việt, Đông Việt, Dương Việt,... Các cộng
đồng cư dân này sinh sống khắp khu vực phía Nam sơng Dương Tử cho tới tận Bắc Trung Bộ
ngày nay, họp thành những khối dân cư lớn như Môn – Khơme, Việt – Mường, Tày – Thái,
Mèo – Dao. Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dần dần dẫn đến sự hình thành các dân
tộc cụ thể. Người Việt đã tách ra khối Việt – Mường vào khoảng cuối thời Bắc thuộc (TK VII
– VIII).
Trong khi đó, ở phía Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người
Indonésien. Thời gian đã làm cho họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Cuộc sống biệt lập
khiến cho họ vẫn lưu giữ được những đặc điểm truyền thống của văn hóa các cư dân hải đảo.
Đó là tổ tiên của người Chàm, Raglai, Êđê, Giarai, Churu,…
(Xem bảng 3.1, trang 27, Trần Ngọc Thêm (2000): Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục)
Như vậy, có thể khẳng định, tuyệt đại bộ phận các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ
một nguồn gốc chung là nhóm loại hình Indonesien. Điều đó đã tạo nên tính thống nhất trong
sự đa dạng của con người và văn hóa Việt Nam.

2.3. Khơng gian văn hóa
2.3.1. Khơng gian địa lý – khí hậu
Ba đặc điểm cơ bản:
- Việt Nam nằm trong xứ nóng => mưa nhiều (lượng mưa trung bình trong năm vào
loại cao nhất thế giới (2000 mm).
- Mưa nhiều => vùng sông nước => vùng nơng nghiệp lúa nước. Nhiều địa danh có
yếu tố Dak, Nậm, Krơng (đều có nghĩa là nước) như Dak Lak, Dak Tô, Nậm U, Nậm Rốm,
Krông Ana,… Quốc gia của người Việt cũng chính là Nước.
20


- Đây là nơi giao điểm của các nền văn hóa, văn minh. Đây là nơi gặp gỡ của các
luồng giao thông thủy bộ: từ bắc xuống nam, từ lục địa ra biển và ngược lại, là bến cảng ngã
ba đường Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương.
2.3.2. Khơng gian văn hóa
Trong phạm vi hẹp, khơng gian gốc của văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú
của người Bách Việt. Có thể hình dung đó là một tam giác với cạnh đáy ở sông Dương Tử và
đỉnh là Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là khu vực mà thời tiết phân biệt rõ bốn mùa xuân – hạ
– thu – đông, là cái nôi của nghề nông nghiệp lúa nước, nghệ thuật đúc đồng. Đây cũng là đất
nước của họ Hồng Bàng theo truyền thuyết.
Trong phạm vi rộng, khơng gian văn hóa của người Việt nằm trong khu vực cư trú của
người Indonesien lục địa. Có thể hình dung đó là một tam giác rộng hơn, trùm lên ngồi hình
tam giác thứ nhất với cạnh đáy vẫn là sông Dương Tử là đỉnh là vùng đồng bằng sông Mê
Kơng ở phía Nam.
Tuy sau này, trong q trình giao lưu với khu vực, văn hóa Việt Nam trở nên gắn bó
mật thiết với văn hóa Trung Hoa, tiếp thu khá nhiều từ văn hóa Trung Hoa, nhưng từ trong cội
nguồn thì khơng gian văn hóa Việt Nam vốn được định hình trên nền của khơng gian văn hóa
khu vực Đơng Nam Á.
Khơng gian văn hóa khu vực Đơng Nam Á được hình dung như một hình trịn bao
qt tồn bộ Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Đây là địa bàn cư trú của người

Indonésien cổ đại nói chung. Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của vùng
văn hóa Đơng Nam Á. Và với vị trí đặc biệt của mình, Việt Nam là nơi hội tụ đầy đủ nhất mọi
đặc trưng của văn hóa khu vực – một Đơng Nam Á thu nhỏ.
2.2.3. Vùng văn hóa
6 vùng văn hóa (Trần Quốc Vượng)
a. Vùng văn hóa Tây Bắc
b. Vùng văn hóa Việt Bắc
21


c. Vùng văn hóa đờng bằng Bắc Bộ
d. Vùng văn hóa duyên hải Trung Bộ
e. Vùng văn hóa Tây Nguyên
f. Vùng văn hóa Nam Bộ.
(Xem thêm Trần Ngọc Thêm (2000): Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, trang 31
– 34).
2.4. Thời gian văn hóa
Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: Văn hóa thời tiền sử, văn
hóa Văn Lang – Âu Lạc (lớp văn hóa bản địa), văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại
Việt (lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực), văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại
(lớp văn hóa giao lưu với phương Tây).
2.4.1. Lớp văn hóa bản địa
Lớp văn hóa bản địa được tạo nên chủ yếu trong hai giai đoạn: giai đoạn văn hóa thời
tiền sử và giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc. Đặc trưng của lớp văn hóa này là sự hình
thành trong cả khu vực Đơng Nam Á cổ đại một nền văn hóa đặc sắc với nghề nơng nghiệp
lúa nước là chủ đạo. Có thể xem thành tựu văn hóa thời kỳ này là thành tựu chung của cả một
khối cư dân lớn sinh sống trên khu vực Đông Nam Á cổ đại.
2.4.1.1. Giai đoạn văn hóa thời tiền sử
Thành tựu lớn nhất là sự hình thành nghề nông nghiệp lúa nước. Đông Nam Á là một
trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng sớm nhất trên thế giới. Đây cũng là trung tâm nông

nghiệp cổ xưa nhất bởi lẽ đây là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về động thực vật
cũng như cảnh quan sinh thái. Ở các di chỉ khảo cổ khác nhau của Việt Nam như Sũng Sàm,
Tràng Kênh, Gò Bơng, Đồng Đậu, Gị Mun,… đã phát hiện được những dấu tích của bào tử
phấn lúa, vỏ trấu, gạo cháy, mảnh chõ xơi, đồ nghiền hạt,… có niên đại khoảng vài nghìn
năm trước CN.
Những thành tựu chủ yếu của Đơng Nam Á cổ đại:
22


- Nghề trồng lúa và các loại cây như khoai sọ, bầu bí, trầu cau,…
- Nghề trồng dâu ni tằm, dệt vải làm đồ che thân và tục uống chè.
- Thuần dưỡng một số gia súc đặc thù như trâu, lợn, gà,…
- Làm nhà sàn để ở.
- Dùng các cây thuốc để chữa bệnh
Thần Nông là nhân vật truyền thuyết điển hình. Sau đó nhân vật này đã được bổ sung
vào kho tàng văn hóa Trung Hoa (Chú ý trật tự chính – phụ. Trung Hoa: Nơng Thần)
2.4.1.2. Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc
- Khơng gian văn hóa: Khu vực cư trú của người Nam Á – Bách Việt: từ Bắc Trung
Bộ đến hồ Động Đình (phía Nam sông Dương Tử - tam giác nhỏ)
- Thời gian: Khoảng năm 2879 trước CN
- Chủ thể văn hóa: Gắn liền với truyền thuyết về người Việt Nam, họ Hồng Bàng
- Thành tựu chính: sau nghề nông nghiệp lúa nước là nghề luyện kim đồng. Đồ đồng
Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã được tìm thấy khắp nơi – Nam Trung Hoa, Thái Lan, tồn
bộ Đơng Nam Á hải đảo.
Chính những thành tựu của thế giới Đơng Nam Á cổ đại mà trong đó có phần đóng
góp của tổ tiên các dân tộc Việt Nam đã làm nên cái nền vững chắc cho sự phát triển của văn
hóa Việt Nam sau này.
2.4.1.3. Chữ viết của lớp văn hóa bản địa
Dựa trên những nhận định mới về quy mô, tầm cỡ của văn hóa phương Nam trong lịch
sử khu vực cộng với những dấu vết chữ viết đã phát hiện được như trên đá ở thung lũng

Sapa, trên qua đồng Thanh Hóa, trên lưỡi cày Đơng Sơn, trống đồng Lũng Cú, những ghi
chép của sử sách Trung Hoa về một thứ chữ “khoa đẩu” (hình con nịng nọc bơi) của người
phương Nam, ta có thể nghĩ đến giả thuyết rằng có một hệ thống văn tự trong lớp văn hóa
bản địa.
23


×