LUẬN VĂN:
Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh
viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên - sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn lực quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa
xuân của xã hội". Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của
mỗi quốc gia, dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Chính vì vậy,
trong các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả về trình độ học vấn, chuyên môn đến lý
tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị v.v để sinh viên trở thành người chủ tương lai của
dân tộc vừa “hồng” vừa “chuyên”, là lớp người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ bao cấp và
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức
đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh mặt tích cực, quá trình toàn
cầu hoá cũng bộc lộ không ít hạn chế, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, tác
động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực đạo
đức.
Sinh viên là một tầng lớp xã hội “đặc thù”, năng động, sáng tạo trong học tập, có ý
chí vươn lên, thích tìm tòi cái mới và dễ thích nghi với cái mới v.v. nhưng do kinh
nghiệm và vốn sống còn hạn chế, sự trải nghiệm chưa nhiều… nên sinh viên cũng dễ bị
ảnh hưởng từ mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, từ những phức tạp của xu thế toàn cầu
hoá.
Thực tế cho thấy, bên cạnh đại bộ phận sinh viên say mê trong học tập, chịu khó
trong trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất nhân cách để trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên sống thực dụng, xa
hoa, lãng phí, thậm chí có lối sống “thác loạn”, xa rời truyền thống đạo lý của dân tộc.
Tại đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự
gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [17, tr.172 - 173]
Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận sinh viên, để không
ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan
cộng sản cho sinh viên, đào tạo các thế hệ sinh viên Việt Nam kế tục và phát huy
nguyên khí quốc gia, lực lượng bổ sung quan trọng cho đội ngũ trí thức trong tương lai,
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thì “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay” càng trở nên cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, bài viết, nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu
về công tác giáo dục đạo đức, lối sống và lý tưởng cách mạng cho thanh niên - sinh viên
trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tiêu biểu là một số công trình sau đây:
- Nhóm các đề tài và luận văn viết về đạo đức thanh niên - sinh viên, có:
+“Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện mới”, Báo
cáo khoa học của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1996-1997).
+ Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002): “Giá trị truyền thống trước
thử thách toàn cầu hoá” Nxb Chính trị Quốc gia.
+ “Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp”, đề tài cấp Đại
học Quốc Gia Hà Nội (năm 2003).
+ “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của TS Võ Minh
Tuấn (2003).
+ “Xây dựng lối sống có văn hoá của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong
công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa", Luận án TS của Đặng Thành
Quang (2005).
+ “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay”, Kỷ
yếu hội thảo của Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng (2005); “Xây
dựng bản lĩnh thanh niên hiện nay” do TS Hồ Bá Thâm (chủ biên) (2006).
+ “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”,Báo cáo khoa học
chuyên đề Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2007.
+ Lê Hữu Nghĩa, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên) “ Xu thế toàn cầu
hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007.
+ “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - thực
trạng và giải pháp (qua khảo sát một số trường Đại học và Cao đẳng ở Hà Nội)”, luận văn
thạc sỹ triết học của Vũ Thanh Hương ( 2004).
+ “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua
thực tế một số trường Đại học và Cao đẳng ở thành phố Hà Nội)”, luận văn thạc sỹ triết
học của Doãn Thị Chín (2004); v.v
- Nhóm các bài trên các tạp chí viết về đạo đức trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay:
+ Đặng Cảnh Khanh (2000): “Vấn đề toàn cầu hoá và thế hệ trẻ Việt Nam hiện
nay” Tạp chí Cộng sản; Vương Thị Bích Thuỷ (2000)
+ “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống ở nước ta trong bối cảnh
toàn cầu hoá”, Tạp chí nghiên cứu lý luận.
+ “Toàn cầu hoá: lợi và hại”, Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội năm 2000; Lê Thị
Tuyết Ba (2003) “Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Triết học.
+ Nguyễn Trọng Chuẩn (1995) “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của
các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”.
+ Tạp chí triết học; Đỗ Huy (1998) “Định hướng xã hội chủ nghĩa về quan hệ đạo
đức cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay”.
+ Tạp chí Triết học; Nguyễn Trọng Chuẩn (2001) “Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”.
+ Tạp chí Triết học; Đỗ Huy (2002) “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những
hành vi đạo đức cá nhân”.
+ Tạp chí Triết học; Nguyễn Thế Kiệt (1996) “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”.
+ Võ Minh Tuấn (2004) “Tác động toàn cầu hoá đến đạo đức sinh viên hiện nay”.
+ Tạp chí Triết học; Phạm Hữu Tiến (2005): “Đấu tranh chống mặt tiêu cực của
toàn cầu hoá” Tạp chí Cộng sản.
+ Trần Văn Miều (2007) “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”, Tạp chí
Xây dựng Đảng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên, từ nhiều góc độ
khác nhau, đã làm sáng tỏ tác động hai mặt của bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới, đề ra
một số phương hướng để đẩy mạnh quá trình xây dựng đạo đức trong bối cảnh toàn cầu
hoá. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Những
đề tài trên đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả đi sâu
nghiên cứu những vấn đề mà đề tài của tác giả đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó luận văn đề xuất các giải pháp chủ yếu để xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận của đạo đức mới và tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức
mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Phân tích, đánh giá ưu, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân của những mặt tồn tại hạn
chế trong thực trạng đạo đức mới của sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ phức tạp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng đạo đức
mới, tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trong toàn quốc,
chủ yếu là sinh viên hệ chính quy.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, kế thừa có chọn lọc
những giá trị của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích và tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, các phương pháp chuyên ngành và liên ngành
khác.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hoá .
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về xây dựng
đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên.
- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình khoa
học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên quan đến
vai trò đạo đức trong đời sống xã hội của con người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY
1.1. ĐẠO ĐỨC MỚI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HOÁ
1.1.1. Khái niệm đạo đức và đạo đức mới
- Khái niệm đạo đức (Morality)
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử loài người
và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Vì vậy,
trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề đạo đức luôn luôn được xã hội
quan tâm, đặc biệt là các nhà triết học.
Cho đến hiện nay bàn về đạo đức có nhiều hệ thống lý thuyết tiêu biểu, tiếp cận đạo
đức theo các khuynh hướng khác nhau.
Một là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm khách quan và của
các nhà thần học. Các nhà triết học duy tâm khách quan Platôn và Hêghen lấy “ý niệm”
hoặc “ý niệm tuyệt đối” để lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức. Còn các nhà thần học
cho đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh, con người và xã hội chẳng qua chỉ là những
hình thái biểu hiện cụ thể khác của đấng thần linh và những chuẩn mực đạo đức do thần
thánh tạo ra để giáo dục con người.
Hai là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Họ coi đạo
đức như là năng lực “tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay “thiện ý” theo
cách gọi của I.Kantơ: là một năng lực có tính nhất thành, bất biến, có trước kinh
nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con
người.
Ba là, các khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy vật. Họ đã nhìn thấy
đạo đức trong quan hệ của con người, nhưng con người chỉ là một thực thể trừu tượng,
bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Tiêu biểu cho quan niệm này là nhà triết học cổ điển Đức: Phoi ơ Bắc.
Bốn là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khác với các
cách tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm khách quan và duy vật tầm thường, C.Mác và
Ph.Ăngghen dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã xây dựng một
học thuyết đạo đức có tính cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức
gắn với phương thức sản xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội “Xét đến cùng
mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế
của xã hội lúc bấy giờ”[50, tr.137]. Như vậy, các hiện tượng đạo đức ở các thời đại khác
nhau nó có tính chất khác nhau, trong xã hội có giai cấp thì đạo đức có tính giai cấp.
Cho nên, không thể coi đạo đức là nhất thành, bất biến, vĩnh viễn như lý thuyết của một
số nhà đạo đức trước kia đề ra.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức giống mọi hình thái khác là phản ánh tồn tại xã hội của con người. Tiếp tục
phát triển quan niệm đạo đức nói trên, G.Bandzeladze cho rằng: “Đạo đức là hệ thống
những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong
quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung. Bản chất đạo đức là sự quan
tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi ích xã hội” [31, tr.104]
Đến nay, các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về đạo đức. Để có
một sự thống nhất cao về khái niệm đạo đức, là vấn đề rất khó. Ở đây, chúng tôi đồng ý
với quan niệm của tập thể các nhà khoa học ở Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh cho rằng:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
với niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [33,
tr.8].
Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Đạo
đức đánh giá hành vi của con người theo chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành
khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự
phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy có tính tích cực, có tính nhân đạo. Ngược lại, nếu hệ
thống giá trị đạo đức không phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy mang tính
tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
- Khái niệm đạo đức mới
Sự vận động phát triển của xã hội loài người là một quá trình “lịch sử -tự nhiên” từ
thấp đến cao, thông qua sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Phù hợp
với mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể có một kiểu đạo đức tương ứng.
Hình thức sơ khai của các quan hệ đạo đức đã xuất hiện rất sớm, trong xã hội Cộng
sản nguyên thuỷ. Lúc đó, đạo đức được biểu hiện thông qua các hành vi giao tiếp, ứng
xử trong các điều cấm kỵ như: không được lấy phần của nhau, không được đàn áp nhau,
không được nói dối. Do điều kiện kinh tế, sinh hoạt xã hội còn ở trình độ lạc hậu, đạo
đức bị lẫn lộn vào tập quán, phong tục, tín ngưỡng, lễ nghi tôn giáo. Các quy ước, chế
định có tác dụng điều chỉnh hành vi con người mang ý nghĩa, giá trị đạo đức.
Cùng với sự vận động phát triển của nền sản xuất xã hội, mối quan hệ giữa người
với người ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và phong phú hơn. Xã hội chiếm hữu nô
lệ ra đời, xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp và đạo đức mang tính giai cấp: Đạo
đức chủ nô và đạo đức nô lệ. Đặc điểm lớn của đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ là
thừa nhận phẩm chất cao quý và quyền uy tuyệt đối của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ
nô, những kẻ đặc quyền, đặc lợi, tự cho phép mình là người thượng lưu, là tầng lớp quý
tộc, và chỉ họ mới là người có đạo đức. Còn nô lệ, họ đề cao phẩm chất người lao động
và quyền tự do, bình đẳng của con người, giai cấp nô lệ hiểu rõ được giá trị đích thực
của lao động, của những tình cảm nảy sinh phát triển từ trong quá trình lao động. Họ coi
lao động là nguồn gốc, là cơ sở của đạo đức, là niềm tin hạnh phúc lớn lao của cuộc
sống con người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ đã thể hiện xung đột của hai loại hình
đạo đức trái ngược nhau, điều đó phản ánh điều kiện kinh tế và lợi ích giai cấp trong xã
hội đó. Tuy nhiên, đạo đức của giai cấp chủ nô - giai cấp thống trị xã hội đóng vai trò
chi phối, thống trị đời sống đạo đức xã hội lúc bấy giờ.
Xã hội phong kiến ra đời thay thế cho xã hội chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất
phong kiến được xác lập, kéo theo những thay đổi lớn trong đời sống xã hội, trong đó
có đời sống đạo đức. Xã hội phong kiến phần nào đã cho con người lao động được giải
thoát khỏi kiếp nô lệ, nhưng đồng thời lại trói buộc con người vào những thiết chế xã
hội khắc nghiệt và xuất hiện kiểu bóc lột mới - kiểu bóc lột phong kiến. Giai cấp địa chủ
phong kiến luôn trói buộc con người vào những luật lệ hà khắc, xơ cứng, tạo ra sự đối
kháng về mặt đạo đức trong xã hội. Đó là sự phụ thuộc, phục tùng những đấng bề trên,
phụ thuộc và phục tùng vương quyền, thần quyền.
Quần chúng nhân dân lao động, những người được coi là tầng lớp dưới của xã hội,
xuất phát từ địa vị kinh tế- xã hội, từ lợi ích của mình đã tạo ra những chuẩn mực đạo đức
riêng phù hợp với đời sống của họ. Bản chất đạo đức của nhân dân lao động vẫn là tình
thương yêu đối với con người, với nội dung ứng xử chủ yếu là công bằng, bình đẳng, tương
thân, tương ái đối với mọi người.
Chế độ tư bản thay thế chế độ phong kiến là một bước tiến trên con đường phát triển
của lịch sử xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xoá bỏ tình trạng cát cứ
của phong kiến, mở ra những quan hệ kinh tế mới. Sự thay thế quan hệ sản xuất phong
kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự biến đổi cả hệ thống đạo đức xã
hội. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ thâm nhập vào tất cả đời sống xã hội, phá tan những sợi
dây đạo đức trói buộc con người. Ở chế độ tư bản chủ nghĩa, cá nhân được giải phóng
khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ đẳng cấp khắc nghiệt, ý thức con người đã bắt đầu thích
nghi với những nguyên tắc, của nền kinh tế thị trường đang thâm nhập vào các quan hệ
đạo đức. Khi mới ra đời, đạo đức tư sản là một bước tiến bộ lớn. Nó đấu tranh xoá bỏ
quan hệ chật hẹp đẳng cấp, giải phóng cá nhân khỏi mọi áp bức của xã hội phong kiến
và Giáo hội Thiên Chúa giáo, đề cao chủ nghĩa cá nhân, sự thừa nhận tự trị và những
quyền tuyệt đối của các cá nhân trong xã hội. Nhưng trong quá trình phát triển của mình
với những quan điểm “duy lợi”, “vị kỷ” và định hướng giá trị chung là sự giàu có, tiện
nghi coi đó là những giá trị cao nhất. Điều này, đã làm cho chủ nghĩa cá nhân ngày càng
trở nên phản nhân đạo, đưa ra sự giàu có của cá nhân làm nguyên tắc quyết định mọi
quan hệ đạo đức trong xã hội. Chủ nghĩa tư bản làm nảy sinh ra một lớp người sống xa
hoa trên sự đau khổ của người khác, nhân cách con người ngày càng bị tha hoá. Về vấn
đề này, C.Mác viết:
Mọi sự dường như chất chứa mâu thuẫn, chúng ta cho rằng máy móc có
một sức mạnh kỳ diệu rút ngắn lao động của con người, làm cho lao động sản
xuất dồi dào hơn, nhưng nó đem lại cho con người nạn đói và sự kiệt quệ.
Những nguồn của cải mới, từ trước đến nay chưa từng có, do một phép lạ nào
kỳ quặc và khó hiểu biến thành ngọn nguồn của sự nghèo khổ. Chiến thắng
của kỹ thuật dường như được mua bằng giá của sự sa đoạ về đạo đức. Người
ta có cảm tưởng rằng nhân loại càng chinh phục được bao nhiêu thì con người
càng trở thành nô lệ của người khác hoặc trở thành nô lệ của sự đê tiện của
chính mình bấy nhiêu [49, tr.10]
Những mâu thuẫn trong đạo đức của xã hội tư bản cần phải được khắc phục, được xoá bỏ
bởi sự ra đời của một nền đạo đức tiến bộ hơn. C.Mác - Ph.Ăngghen đã dự báo cho sự xuất
hiện nền đạo đức mới với tính cách là biểu hiện về mặt đạo đức của xã hội mới, xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sự hình thành đạo đức mới trên cơ sở của đạo đức vô sản gắn liền với cuộc đấu
tranh giải phóng của giai cấp vô sản và do đó giải phóng nhân loại ra khỏi áp bức, bóc
lột, bất công. Đây là cuộc cách mạng mà giai cấp bóc lột về cơ bản bị xoá bỏ, người dân
lao động từng bước được giải phóng về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Cùng với thắng
lợi của cách mạng vô sản và thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức mới được
hình thành và phát triển trên mảnh đất hiện thực. Đạo đức mới là thành quả tiến bộ của
đạo đức xã hội loài người, đây là đạo đức có tính người thực sự, là đạo đức của nhân
dân lao động. Tính tự giác của quá trình hình thành và phát triển của đạo đức mới, đòi
hỏi phải nắm được quy luật vận động và phát triển của xã hội, đặc biệt ở các nước đang
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng, phản ánh
những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và
giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công đem lại hạnh phúc chân chính
cho con người. Cho nên, đạo đức của những người vô sản là tiến bộ và trở thành một thực
tế lịch sử, mang nội dung nhân đạo cả về mặt thực tiễn và mặt nhận thức. Tư tưởng nhân
đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản là: Tất cả vì con người, tôn trọng con người, thương yêu
con người, giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để con người được tự do và toàn diện
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể. Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cộng
sản là một quá trình lâu dài, phức tạp, mang tính tự giác.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, đứng trên lập trường
duy vật lịch sử Lênin đã chỉ ra cuộc đấu tranh giai cấp sẽ còn tiếp tục sau khi nhân dân
lao động giành được chính quyền từ tay bọn thống trị. Vì vậy, nhiệm vụ của người cách
mạng là làm cho tất cả mọi lợi ích phải phục tùng cuộc đấu tranh đó và Lênin khẳng
định: “Đạo đức, đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn áp bức bóc lột và
góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo
ra xã hội mới” [44, tr.369]. Như vậy, tính chất và nội dung của đạo đức mới, đạo đức cộng
sản bị quy định bởi yêu cầu của sự nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận đạo đức nói riêng
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di
sản tinh thần vô cùng quý giá, trong đó có tư tưởng đạo đức của Người.
Hồ Chí Minh coi đạo đức mới, đạo đức cách mạng là “gốc” là “nền tảng” của người
cách mạng: “Cũng như song thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [56, tr.252-253]. Trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ
nghĩa” [59, tr.186]
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng: “Không phải là đạo đức thủ cựu. Nó
là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của các cá nhân mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc và loài người” [56, tr.252]. Đạo đức mới là đạo đức chiến đấu
vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc
của mỗi người. Mục đích cuối cùng của nó là góp phần giải phóng triệt để con người, trước
hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi mọi áp bức, bất công trong xã
hội. Do vậy, đạo đức mới là đạo đức trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định phẩm chất
cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là sự kế thừa đạo đức của dân tộc và đạo đức
nhân loại. Người đã thể hiện một thái độ cách mạng khoa học đối với các hệ thống đạo
đức cũ. Trên cơ sở nắm vững phép biện chứng duy vật và thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Người đã biết “gạn đục khơi trong” kế thừa những yếu tố tích cực, hợp lý của các
hệ thống đạo đức trước góp phần hình thành nên lý luận về đạo đức mới ở Việt Nam.
Nội dung đạo đức mới được thể hiện ở: chủ nghĩa tập thể, lao động cần cù, sáng tạo, ý
thức học tập, rèn luyện vươn lên, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế và
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa … Từ những nội dung cơ bản đó, tuỳ thuộc vào
yêu cầu cơ bản trong mỗi giai đoạn khác nhau của cách mạng, Đảng ta luôn bổ sung và
phát triển, cụ thể hoá nội dung đạo đức mới.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười viết: Đạo đức thể hiện lòng trung thành với lý
tưởng, với mục đích cách mạng của Đảng; ở sự vững vàng về chính trị, sự kiên định
trước mọi thử thách có phẩm chất trong sáng, trung thực, đặt lợi ích chung lên trên hết,
trước hết, một lòng vì nước, vì dân; ở hành động của mình thực sự tỏ rõ là người lao
động, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đạo đức còn thể hiện ở nếp sống trong
sạch của bản thân và gia đình mình, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
tích cực đấu tranh chống tham ô, quan liêu, lãng phí, góp phần xây dựng Đảng ta thực
sự trong sạch vững mạnh (Báo Nhân Dân, ngày 22 - 4 -1996).
Từ sự phân tích trên cho phép chúng ta đi đến kết luận:
Đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
tiến bộ, phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hoà các giá trị và chuẩn mực tạo nên nền
tảng nhân cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
[35, tr.60]
1.1.2. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hoá
1.1.2.1. Toàn cầu hoá - xu thế tất yếu hiện nay
Ngày nay, “Toàn cầu hoá” (Globalization) đang là xu thế khách quan diễn ra mạnh
mẽ và phức tạp, nó tác động tới hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Việt
Nam không là ngoại lệ.
Toàn cầu hoá có cả những tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực đối với các quốc
gia, dân tộc trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi toàn cầu hoá được đón
nhận, cổ vũ ở nhiều nước đang phát triển thì phong trào chống toàn cầu hoá (Anti-
globalization) lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… Tình
hình đó đặt ra vấn đề buộc các quốc gia dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước chậm
phát triển về kinh tế phải suy ngẫm để tìm ra phương thức hành động đúng đắn khi tham
gia vào quá trình toàn cầu hoá.
Xu thế toàn cầu hoá đã được C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ ra như một tất yếu khách quan
trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1848). Trong tác phẩm này, C.Mác,
Ph.Ăngghen đã dự báo rằng, với sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự phân
công lao động xã hội rộng rãi làm mở rộng nhu cầu trao đổi hàng hoá: trao đổi hàng hoá
mở rộng ra phạm vi thế giới hình thành thị trường thế giới, thị trường thế giới đến lượt
nó liên kết các quốc gia khu vực trên toàn cầu.
Lịch sử xã hội loài người là sự phát triển đi từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã
hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Sự vận động, phát triển ấy bắt đầu
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển theo cho phù
hợp, từ góc độ này C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ ra nhân tố tác động và tính chất giai cấp
của quốc tế hoá: do bị thúc đẩy bởi việc trao đổi sản phẩm và các yếu tố của quá trình
sản xuất giữa người với người, đặc biệt là thị trường tiêu thụ mà giai cấp tư sản đã xâm
lấn khắp toàn cầu, thiết lập các mối khai thác tài nguyên và thị trường. Vì mục tiêu lợi
nhuận, giai cấp tư sản đã gây nên quá trình quốc tế hoá, quá trình phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa lan rộng khắp thế giới.
Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, của cải làm ra
chỉ đảm bảo cho những nhu cầu tối thiểu của con người, các yếu tố của quá trình tái sản
xuất vận động trong phạm vi cai quản của lãnh chúa phong kiến theo kiểu “nội bất
xuất”. Thị trường, do đó cũng bị vây chặt trong địa hạt của từng lãnh chúa.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra, lực lượng sản xuất phát triển thì
quan hệ sản xuất phong kiến không thể dung nạp nổi sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Chủ nghĩa tư bản ra đời, trước đó đã phá bỏ các rào cản do các lãnh chúa thiết lập
và áp chế. Có thể nói công lao của chủ nghĩa tư bản, như một nấc thang phát triển của
xã hội loài người, nó đã tạo ra: “Một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất,
một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang tính giai cấp và một hàng
rào thuế quan thống nhất” [48, tr.603].
Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, thị trường dân tộc không chứa nổi nhu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế, nhà nước tư sản đã tiến hành những cuộc
phát kiến địa lý và tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Xét đến cùng,
phát kiến địa lý và chiến tranh xâm lược là để tìm kiếm thị trường: thị trường nguyên
liệu, thị trường sức lao động và thị trường tiêu thụ sản phẩm dồi dào hơn, rẻ hơn và rộng
lớn hơn.
Nói tới xu thế trên đây, C.Mác - Ph.Ăngghen đã có nhiều lần đề cập đến. Hai ông
cho rằng: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới” (48, tr.598); và chính “do bóp
nặn của thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả
các nước mang tính chất thế giới” [48, tr.601]. Đến lượt nó, thị trường thế giới “thay cho
tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát
triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc mà sản xuất vật chất
đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế [48, tr.602]. Và cũng chính:
Nhờ cải biến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện
giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến tất cả những
dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của
những giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và
buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng
phục [48, tr.602].
Giai cấp tư sản trong quá trình phát triển, do nhu cầu về thị trường tiêu thụ,
chúng đã mở rộng địa bàn hoạt động trên phạm vị toàn thế giới. Điều này cũng đã được
C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ rõ: “vì luôn bị thúc đẩy bởi những nhu cầu về những nơi tiêu
thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi,
trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi” [48, tr.601]…
Những phân tích trên của C.Mác - Ph.Ăngghen cho thấy, sự phát triển của lực
lượng sản xuất và quốc tế hoá sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản đã làm cho các nước gắn
bó lại với nhau và tạo ra xu thế toàn cầu hoá.
Xu thế toàn cầu hoá đã diễn ra từ lâu, nhưng thuật ngữ “toàn cầu hoá” chỉ mới xuất
hiện lần đầu tiên vào năm 1961, và cho đến nay, khi mà toàn cầu hoá đã trở thành một
xu thế khách quan, tác động tới mọi quốc gia trên thế giới thì số lượng các khái niệm về
toàn cầu hoá và tần suất sử dụng khái niệm này ngày càng lớn.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “toàn cầu hoá” được dùng rộng rãi vào những năm 1980
của thế kỷ trước. Từ đó đến nay, thuật ngữ này thường xuất hiện trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về toàn
cầu hoá. Có quan niệm cho rằng, toàn cầu hoá là biểu hiện và là kết quả của sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo
ra mối liên hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên
quy mô toàn cầu trong sự vận động và phát triển. Quan niệm khác lại cho là, toàn cầu
hoá là giai đoạn cao của quá trình phát triển lực lượng sản xuất thế giới, là kết quả phát
triển tất yếu của kinh tế thị trường và khoa học - công nghệ. Cũng ở góc độ kinh tế, có
quan niệm nhìn nhận, toàn cầu hoá là xu hướng bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh
tế thị trường; là hệ thống mở, không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới
dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Uỷ ban châu Âu cho rằng:
Toàn cầu hoá có thể được định nghĩa như một quá trình mà thông qua
đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ
thuộc lẫn nhau do sự năng động của việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ cũng
như do có sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ. Đây không phải là hiện
tượng mới mà là sự tiếp tục của một tiến trình đã được khơi mào từ lâu [63,
tr.18].
Theo quan niệm này, thực chất toàn cầu hoá là toàn cầu hoá về kinh tế.
Ở Việt Nam, cũng có quan niệm coi toàn cầu hoá là toàn cầu hoá kinh tế, là sự gia
tăng nhanh chóng các yếu tố kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, dân tộc, khu vực,
vươn tới toàn thế giới. Các tác giả sách “Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện đại
hội IX của Đảng”, đã chỉ rõ:
Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh
hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các
quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt các biến cố có quan
hệ lẫn nhau từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới. Toàn cầu
hoá khiến cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, làm sâu sắc hơn chuyên môn
hoá và phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở
cấp độ quốc gia, mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới [13, tr.94-95]
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi, cho đến nay, về cơ bản có
hai góc độ tiếp cận về toàn cầu hoá: quan niệm tiếp cận toàn cầu hoá theo nghĩa rộng và
tiếp cận toàn cầu hoá theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá được xác định như là một hiện tượng hay một quá
trình làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế trên nhiều mặt của đời sống
xã hội (nhiều tế, chính trị, văn hoá, an ninh, môi trường…) giữa các quốc gia, dân tộc,
khu vực.
Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá được hiểu là toàn cầu hoá kinh tế, chủ yếu diễn ra trong
lĩnh vực kinh tế. Phần lớn các nhà kinh tế xem toàn cầu hoá là quá trình kinh tế vĩ mô. Hay
nói cách khác, họ thường xem xét toàn cầu hoá dưới góc độ kinh tế, như là quá trình kinh
tế, một hiện tượng kinh tế có tính toàn cầu.
Theo chúng tôi, mỗi quan niệm trên đều có nhân tố hợp lý của nó. Để khẳng định
một quan niệm chuẩn khoa học về toàn cầu hoá là rất khó, từ tiếp cận của mình, chúng
tôi cho rằng: toàn cầu hoá là sự mở rộng biên độ gia tăng liên kết, ảnh hưởng sâu sắc
trên phạm vi toàn thế giới trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội bằng nhiều phương
thức khác nhau mà xuất phát điểm của nó là từ kinh tế và chủ yếu là kinh tế.
Toàn cầu hoá đang là một xu thế khách quan, bắt nguồn từ xã hội hoá sản xuất cao
trên thế giới, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Mặc
dù quá trình toàn cầu hoá đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, nên có nhiều mặt tiêu cực đe doạ độc lập và chủ quyền của các
nước đang phát triển; nhưng nó vẫn lôi cuốn cả thế giới, bởi những mặt tích cực.
Về tác động tích cực, toàn cầu hoá là xu thế khách quan gắn liền với xu thế phát
triển của nền sản xuất xã hội, là kết quả tất yếu của sư phát triển lực lượng sản xuất và
phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng. Toàn cầu hoá thúc đẩy rất mạnh, rất
nhanh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa lại sự phát triển kinh tế cao.
Toàn cầu hoá góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng mạnh tỷ trọng
các sản phẩm chế tác và các dịch vụ trong cơ cấu kinh tế thế giới. Phân công lao động
quốc tế trở nên sâu, rộng khắp toàn cầu. Xu hướng mới của phân công lao động quốc tế
là: diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng lớn, bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ
nhanh; phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Dưới sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã đưa loài người từng bước tiến vào nền kinh tế tri
thức. Khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàm lượng chất
xám được kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao. Những nước nào có nền công nghệ
cao thì sẽ có khả năng cạnh tranh lớn, ngược lại những nước kém phát triển với trình độ
khoa học công nghệ thấp thì khả năng cạnh tranh thấp.
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn, những thành quả
mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học - công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản
phẩm và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân tộc. Ở nhiều nước,
thành quả này đến từng gia đình, từng người dân, tạo nền móng cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ngày càng phát triển.
Toàn cầu hoá tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất
quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam: Từ các
nguồn vốn, nguồn tri thức (khoa học công nghệ - văn hoá, xã hội), kinh nghiệm về quản
lý cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Toàn cầu hoá gây sức ép gay gắt về cạnh tranh cũng như hiệu
quả đối với nền kinh tế, mỗi nền kinh tế muốn cạnh tranh được thì phải chú ý tới chất
lượng, yếu tố thời gian, tăng giá trị thặng dư để có sức mạnh cạnh tranh đạt hiệu quả cao
trong kinh tế. Mặt khác, toàn cầu hoá mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới,
những đối tác mới cho từng nước, nhất là các nước đang phát triển.
Toàn cầu hoá thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau hơn, làm tăng khả năng trao đổi
về văn hoá - lịch sử giữa các quốc gia. Góp phần làm đa dạng và phong phú đời sống
tinh thần của các nước nhờ sự tiếp biến giữa các nền văn hoá. Với lợi thế này, toàn cầu
hoá đã giúp nâng cao dân trí, làm cho con người có nhiều điều kiện để phát triển về vật
chất lẫn tinh thần.
Những cơ hội do toàn cầu hoá tạo ra là rất lớn. Sự nhất thể hoá, khu vực hoá và toàn
cầu hoá kinh tế, một mặt, thu hút tất cả các nước vào guồng máy kinh tế chung của khu
vực hay thế giới, nhờ vậy mà các nước nhỏ có cơ hội sử dụng các khả năng để phát triển
và mở rộng các quan hệ kinh tế.
Tuy nhiên, cũng chính trong quá trình toàn cầu hoá này cũng chứa đựng những
thách thức và một loạt nguy cơ lớn.
Toàn cầu hoá làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu
nghèo trong từng nước và giữa các nước. Hội nhập quốc tế càng sâu rộng, các nền kinh
tế phải đối mặt với những khác biệt về thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân trong một
nước và cả giữa các nước với nhau. Từ đó, một từng lớp dân nghèo xuất hiện và ngày
càng tăng. Xu hướng này chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chủ nghĩa bảo hộ
trên thế giới ngày càng gia tăng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin và khả năng ứng dụng của nó trong việc liên kết các thị trường, sức ép giảm tiền
lương ngày càng tăng, mặc dù nhóm những người có vị trí cao trong thị trường lao động
ít bị tác động dưới sức ép này. Trên thực tế, người giàu ngày càng trở nên giàu hơn
trong khi phần còn lại của lực lượng lao động thì không. Điều này làm cho khoảng cách
thu nhập tại các nước đang phát triển và các nước phát triển ngày càng tăng.
Toàn cầu hoá gây bất ổn định về mọi mặt hoạt động và đời sống con người nhất là: về
việc làm, an ninh quốc gia, hệ thống kinh tế - tài chính. Toàn cầu hoá làm gia tăng tỷ lệ
thất nghiệp: sự canh tranh khốc liệt trong quá trình toàn cầu hoá làm cho hàng loạt các
doanh nghiệp gặp khó khăn phải thu hẹp sản xuất, chuyển đổi kinh doanh hoặc phá sản và
ngừng hoạt động, khiến nhiều người mất việc làm. Sự gia tăng của các luồng di chuyển
nhân công giữa các nước ngày càng làm cho những người lao động ( kém năng lực, ít
được đào tạo) đứng trước nguy cơ mất việc làm cho những người có khả năng cạnh tranh
cao hơn và ngày càng khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm mới. Tự do hoá thương mại
và đầu tư tạo điều kiện làm gia tăng các luồng đầu tư ra nước ngoài, và như vậy làm cho
những người lao động trong nước bớt cơ hội có việc làm. Trong tình hình như vậy, những
bất trắc và nguy cơ khủng hoảng có thể đột ngột nổ ra, với những tác hại dây chuyền khốc
liệt thì khó lường được.
Dưới tác động của toàn cầu hoá, quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các
nhà nước - dân tộc phần nào bị thu hẹp, nó làm rung chuyển nền tảng đời sống của các
quốc gia, đồng thời đặt ra những vấn đề nhạy cảm. Ngày càng có nhiều vấn đề vượt qua
tầm kiểm soát của nhà nước (vấn đề môi trường, sinh thái, các luồng di chuyển vốn, các
luồng thông tin, đặc biệt là thông tin điện tử, các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, vấn đề
tội phạm và khủng bố quốc tế ) và đòi hỏi phải được xử lý, điều tiết ở quy mô rộng lớn
hơn phạm vi mỗi quốc gia.
Toàn cầu hoá đặt ra cho các nước đang phát triển trước những thách thức khốc liệt
nếu vượt qua được thì thắng lợi, còn nếu ứng phó không được thì thất bại. Nguy cơ
trước tiên là những nước nghèo và người nghèo ngày càng nghèo hơn do bị thiệt thòi vì
những quy định áp đặt từ những nước lớn. Đồng thời, những nước nghèo và nước kém
phát triển nếu không nhanh chóng tạo ra một thiết chế kinh tế khu vực và toàn cầu,
không có khả năng cạnh tranh và hội nhập thực sự thì chỉ đơn thuần thành nơi cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các nước có kinh tế phát triển, thành nơi tiếp nhận
các công nghệ lạc hậu hoặc thải loại, thành nơi mà các nước phát triển chuyển giao ô
nhiễm dưới vỏ bọc chuyển nhượng hay viện trợ công nghệ, nghĩa là thay thế sự phụ
thuộc này bằng một sự phụ thuộc khác, trong khi lại không tranh thủ được những lợi thế
của các nước đi sau do toàn cầu hoá mang lại.
Vấn đề môi trường đang trở thành vấn đề nóng cần được quan tâm trong quá
trình toàn cầu hoá của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, trong quá trình toàn cầu hoá đã
làm tăng nguy cơ trầm trọng về vấn đề môi trường ở nhiều nước, đặc biệt là các nước
đang phát triển. Sự phát triển kinh tế và công nghiệp hoá ở các nước này đã và đang làm
cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, không khí và các nguồn
nước bị ô nhiễm. Tình trạng này đe doạ đến an toàn cuộc sống của con người và làm
ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Ngày càng có nhiều nước đặt vấn đề
bảo vệ môi trường lên vị trí quan trọng trong chính sách và gắn với an ninh quốc gia.
Mọi vấn đề toàn cầu nảy sinh như: chủ nghĩa khủng bố, nạn dịch AIDS, hiện tượng En-
ni-nô…đều trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Các nước cần phải nhận
thức rằng: những khiếm khuyết của toàn cầu hoá hiện nay là tất nhiên, song cũng góp
phần vào việc đặt ra hoặc cảnh báo những vấn đề tương lai và thậm chí hé mở cả giải
pháp.
Thực tế đã chứng minh, toàn cầu hoá là xu thế khách quan, là quá trình hợp với quy
luật không thể đảo ngược được của thời đại ngày nay. Các dân tộc không thể đi ngược
với xu thế của thời đại, dẫu biết đó là xu thế phức tạp, chứa đựng cả âm mưu đen tối của
các siêu cường. Nếu cho rằng, tiến hành toàn cầu hoá: là mất đi tính “tự lực, tự cường”
thì thật là sai lầm bởi sự thật hoàn toàn ngược lại. Làm như vậy là tước đi khả năng tự
vệ và chống trả những tiêu cực hàng ngày, hàng giờ chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh
tế nước mình. Như thế là chúng ta chấp nhận thua ngay khi chưa phát huy phòng vệ,
nghĩa là vẫn bị xu thế toàn cầu hoá chi phối, vẫn bị loại trừ và cô lập.
Sớm nhận thức được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá, Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra chủ trương hội nhập kinh tế thế giới và mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực: chính trị, văn hoá, xã hội…Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng
định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực [17, tr.112].
Xuất phát từ những chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, hơn 20 năm đổi
mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về hội nhập kinh tế quốc tế, về
kinh tế đối ngoại và chính trị đối ngoại, nhờ đó góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp
của đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
1.1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay
- Sinh viên - tầng lớp xã hội đặc thù:
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam,
nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn
đánh giá cao vai trò, vị trí của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về sinh viên, nhưng quan niệm được nhiều
người trong giới khoa học xã hội ủng hộ là quan niệm cho rằng:
Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người
đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia, hoạt động lao
động trong một lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội
hoặc sinh viên là những người đang học tập ở các trường Cao đẳng, Đại học
trong và ngoài nước [21, tr.13]
Khác với những bộ phận thanh niên khác, sinh viên là những công dân có độ tuổi
từ 18 đến 30 đang học tập ở bậc Đại học, Cao đẳng, đang chuẩn bị những nền tảng tri
thức, kỹ năng cần thiết cho các hoạt động chuyên môn nghề nghiệp sau này.
Một trong những biểu hiện đặc thù của sinh viên là chỗ họ luôn nêu cao khả năng
tự ý thức, tự đánh giá và luôn luôn muốn tự khẳng định mình:
Tự ý thức của sinh viên được hình thành trong quá trình xã hội hoá và liên quan đến
tính tích cực xã hội của sinh viên. Giúp sinh viên có những hiểu biết và thái độ đối với
bản thân mình để chủ động định hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Trong quá
trình học tập ở các trường Đại học, Cao đẳng việc định hướng tương lai của sinh viên có
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tự ý thức của họ. Mức độ tự ý thức của sinh viên phụ
thuộc vào mục đích và thời gian đặt ra cho mục đích đó. Những sinh viên nào, luôn đặt
ra mục đích phấn đấu cho bản thân mình, thì họ có một kế hoạch lâu dài, những dự định
tốt đẹp và có ý chí vươn lên trong cuộc sống. Thực tế cho chúng ta thấy, những sinh
viên có kết quả học tập xuất sắc thường chủ động tích cực, sáng tạo, tìm tòi những tri
thức mới, tích cực hoạt động nhận thức, khám phá tri thức và sống đúng mực với mọi
người và luôn muốn khẳng định nhân cách của mình .
Năng lực tự đánh giá của sinh viên, góp phần quan trọng trong việc tham gia các
hoạt động xã hội và tự rèn luyện bản thân. Tự đánh giá là thể hiện thái độ đối với bản
thân và kết quả sự biểu hiện các thuộc tính nhân cách và năng lực hoạt động, giao tiếp
và tự giáo dục. Sinh viên hoạt động trong môi trường lao động trí tuệ căng thẳng, luôn
phải tìm tòi khám phá những tri thức khoa học về thế giới xung quanh. Trong môi
trường đó, sinh viên không chỉ lớn lên về mặt tri thức, mà còn phát triển các chức năng
tâm lý: tư duy, trí nhớ, tình cảm…Bên cạnh học tập, sinh viên còn tham gia vào các
hoạt động xã hội: hiến máu nhân đạo, chiến dịch mùa hè xanh, tư vấn mùa thi…đã làm
khả năng tự đánh giá của sinh viên có những bước phát triển mới về mặt nhận thức và
kinh nghiệm.
Biểu hiện thứ hai của tính đặc thù ở sinh viên chính là việc xây dựng kế hoạch để
thực hiện nghề nghiệp mà mình đã chọn:
Nét đặc trưng của sinh viên là sự hình thành kế hoạch trên cơ sở do kết quả của quá
trình học tập và mục tiêu mà cá nhân đặt ra. Trong quá trình học tập, sinh viên tiếp thu
những tri thức từ các môn khoa học và tham gia các hoạt động khác nhau của đời sống
xã hội nên xu hướng nghề nghiệp của sinh viên được hình thành và phát triển. Đó là ý
định của cá nhân muốn sử dụng những tri thức, kinh nghiệm, năng lực của mình vào
nghề nghiệp đã chọn.
Sự hình thành xu hướng nghề nghiệp ở sinh viên được xác định bởi tính ổn định
hay không ổn định, bởi ưu thế của các động cơ xã hội và triển vọng phát triển ở từng cá
nhân. Nội dung xu hướng nghề nghiệp được biểu hiện ở: các động cơ liên quan đến
nghề nghiệp trong tương lai; mong muốn thực hiện tốt trách nhiệm công việc; tăng
cường khả năng giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ học tập phức tạp; có tình cảm
nghề nghiệp và mong muốn đạt thành tích trong hoạt động nghề nghiệp, những biểu
hiện này liên quan đến thái độ, sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên. Đó là sự chuẩn
bị cả về mặt sức khoẻ, tinh thần và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu công việc. Nó đảm bảo
cho niềm tin đúng đắn vào nghề nghiệp trong tương lai, là cơ sở để khẳng định nhân
cách và củng cố tình yêu vào lĩnh vực chuyên môn mà mình lựa chọn.
Biểu hiện thứ ba của sinh viên chính là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của họ
Nhân cách sinh viên là nhân cách của con người trẻ tuổi đang chuẩn bị để thực hiện
chức năng người chuyên gia có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực nào đó của xã
hội. Sinh viên đang giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực tâm sinh lý sang trưởng
thành về phương diện xã hội (ổn định nhân cách). Trong thời kỳ này sinh viên có sự
biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp. Sinh
viên xác định con đường hướng tới tương lai, có kế hoạch cho hoạt động của mình, độc
lập trong phán đoán hành vi, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm
mình trong một số lĩnh vực của cuộc sống.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này thế giới nội tâm của sinh viên có nhiều phức tạp và
mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa khả năng và ước mơ; điều kiện và kinh nghiệm; mong muốn
học những môn học mình yêu thích với yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học tập:
số lượng thông tin quá nhiều và thời gian xử lý thông tin quá ít. Sự phát triển nhân cách
của sinh viên nằm trong một quá trình biện chứng của các vấn đề nảy sinh và giải quyết
các mâu thuẫn: là quá trình chuyển các yêu cầu bên ngoài vào ngay chính bên trong của
bản thân họ và là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực với mục tiêu cao nhất là
đáp ứng các chuẩn mực của nghề nghiệp.
Tóm lại, sinh viên hiện nay đang sống, học tập và rèn luyện trong bối cảnh nước ta
đang tiến hành công cuộc đổi mới. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ với
nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Họ đang đứng trước trọng
trách nặng nề nhưng rất vẻ vang của đất nước giao phó: họ là những trí thức trẻ trong