Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NGƯỜI KHÔNG CÓ QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.47 KB, 25 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Pháp luật luôn trao quyền hưởng di sản thừa kế cho những người xứng đáng,
đồng thời cũng đặt ra quy định nhằm hạn chế quyền hưởng thừa kế của những người
có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức và của những người mà người để lại di sản
không muốn cho họ hưởng di sản. Khi một người chết đi, một trong những điều kiện
quan trọng để những người thừa kế của họ có quyền hưởng di sản đó là những người
thừa kế khơng thuộc trường hợp khơng có quyền hưởng di sản, tức là những người
thừa kế không bị truất quyền, không bị tước quyền hưởng di sản. Để tìm hiểu rõ hơn
về quy định pháp luật về vấn đề người khơng có quyền hưởng di sản thừa kế, em lựa
chọn đề tài số 12: “Người không có quyền hưởng di sản theo quy định của pháp
luật dân sự” cho bài tập tiểu luận

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về người thừa kế
1.1. Khái niệm người thừa kế
1.1.1 Định nghĩa
Người thừa kế là người được hưởng di sản của người chết theo di chúc của
người đó hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế có thể là cá nhân hoặc
không là cá nhân.
Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc khơng là cá nhân. Những chủ
thể khơng phải cá nhân có thể là: pháp nhân, tổ chức khơng có tư cách pháp nhân.
Người thừa kế theo di chúc được xác định bởi ý chí của người để lại di sản và được
xác định trong di chúc mà người để lại di sản lập. Do đó, người thừa kế the di chúc có
thể là một cá nhân, tổ chức hoặc một chủ thể bất kì, miễn là được xác định trong di
chúc mà khơng cần xét đến họ có mối quan hệ hơn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống với
người để lại di sản hay không.
Người thừa kế theo pháp luật chỉ là cá nhân. Pháp luật quy định những người
được hưởng di sản thừa kế trong trường hợp phân chia di sản theo pháp luật là những
người có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản. Đó
là: vợ chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ ni, con đẻ, con nuôi; ông bà nội/ngoại, anh chị em
ruột, cháu ruột; cụ nội/ngoại, bác, chú, cậu, dì ruột, cháu ruột, chắt ruột. Về khía cạnh


pháp lý, giữa họ có những quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau theo quy định của pháp
luật. Về khía cạnh truyền thống, đạo đức, họ là những người có mối quan hệ khăng
khít và gắn bó với nhau, đó có thể là tình thân “máu mủ ruột rà”, ni dưỡng nhau,
hoặc tình nghĩa vợ chồng. Hơn nữa, cũng vì mối quan hệ khăng khít với người đã chết
1


mà sau khi người để lại di sản mất, những người này còn phải gánh vác những trách
nhiệm về đạo đức, thờ cúng, chăm lo mộ phần, hương hỏa cho cha mẹ, ơng bà, tổ
tiên… Do đó, những người có mối liên hệ chặt chẽ với người để lại di sản trong quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng là những người thừa kế của
người chết, được xếp vào các hàng thừa kế tương ứng và được hưởng thừa kế.
1.1.2. Điều kiện hưởng di sản của người thừa kế
- Phải là người còn sống hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết (nếu người thừa kế là cá nhân)
hoặc phải còn tồn tại (nếu người thừa kế không phải cá nhân) vào thời điểm mở thừa
kế.
- Không thược trường hợp bị tước quyền hưởng di sản theo quy định tại điều
621 Bộ luật Dân sự 2015
- Không bị người dể lại di sản truất quyền hưởng di sản bằng một di chúc có
hiệu lực pháp luật (Trừ trường hợp người đó là người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc theo quy định tại điều 644 Bộ luật Dân sự 2015)
Ngồi những điều kiện trên, pháp luật khơng quy định các điều kiện về tư cách
chủ thể của người thừa kế. Trong thừa kế, ai là người được người chết dịch chuyển di
sản thừa kế thì người đó là người thừa kế, bất luận họ có năng lực hành vi hay khơng
(đối với cá nhân) hoặc họ có tư cách pháp nhân hay không (đối với cơ quan, tổ chức
được hưởng thừa kế theo di chúc)1.
1.2. Khái quát chung về người khơng có quyền hưởng di sản
Thơng thường, những người thuộc diện và hàng thừa kế của người chết hoặc
những người được chỉ định trong di chúc sẽ là những người được hưởng di sản thừa

kế. Tuy nhiên, người thừa kế muốn được hưởng di sản cần phải là người xứng đáng
được hưởng; tức là họ không thuộc những trường hợp mất quyền hưởng di sản. Người
khơng có quyền hưởng di sản bao gồm: người bị tước quyền hưởng di sản và người bị
truất quyền hưởng di sản.
1.2.1 Người bị tước quyền hưởng di sản
Người bị tước quyền hưởng di sản là những người đáng nhẽ được hưởng di sản
nhưng bị tước đi quyền hưởng di sản do đã thực hiện hành vi trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội. Người bị tước quyền hưởng di sản bao gồm người thừa kế theo pháp luật
và người thừa kế theo di chúc, đó là những người đáng nhẽ được hưởng thừa kế khi
phân chia di sản theo pháp luật hoặc đã được người lập di chúc cho hưởng di sản theo
di chúc. Những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức dẫn đến bị tước quyền hưởng di sản
có thể là: hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạnh, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi
nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân
phẩn người đó; hành vi xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một
phần hoặc tồn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; hành vi lừa dối,
1PGS.TSPhạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp”, Nxb: , tr79.

2


cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa
chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ di sản
trái với ý chí của người để lại di sản. Đây đều là những hành vi xâm phạm nghiêm
trọng đến quyền, lợi ích của người để lại di sản và của những người thừa kế khác,
đồng thời, những hành vi này trái đạo đức, chuẩn mực xã hội do đó, nhà làm luật đã
đưa ra quy định nhằm trừng phạt, răn đe, giáo dục.
1.2.2 Người bị truất quyền hưởng di sản
Người bị truất quyền hưởng di sản là người đáng lẽ được hưởng di sản theo
pháp luật những quyền đó đã bị phế truất bởi ý chí của người để lại di sản ghi nhận
trong di chúc, do đó, họ trở thành người khơng có quyền hưởng di sản. Khác với

người bị tước quyền hưởng di sản, người bị truất quyền hưởng di sản chỉ có thể là
người thừa kế theo pháp luật. Người để lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của
mình và cũng có quyền truất quyền hưởng di sản của những người đáng nhẽ được
hưởng di sản mà không cần đưa ra lý do trong di chúc. Việc cho một người được
hưởng hay không được hưởng di sản phụ thuộc vào ý chí, tình cảm, quan điểm của
người lập di chúc mà không phụ thuộc vào quy định pháp luật. Tuy nhiên, những
người thừa kế bị truất quyền vẫn có thể được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu: người thừa kế là con chưa thành niên, cha,
mẹ, vợ, chồng, con thành niên mà khơng có khả năng lao động.
Trong các văn bản pháp luật về thừa kế của Việt Nam từ trước đến nay đều chỉ
quy định về người không được quyền hưởng di sản và người bị truất quyền hưởng di
sản. Đến Bộ luật Dân sự 2015, khi quy định về các trường hợp bị tước bỏ quyền
hưởng di sản, nhà làm luật vẫn sử dụng cụm từ “người không được quyền hưởng di
sản”. Người bị truất quyền và người bị tước quyền đều là những người khơng có
quyền hưởng di sản nhưng việc sử dụng cụm từ “người khơng được quyền hưởng di
sản” để nói đến chủ thể bị tước quyền hưởng di sản là không hợp lý, có thể dẫn nhầm
lẫn trong việc áp dụng pháp luật.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về người khơng có quyền hưởng di
sản
2.1. Quy định về người bị truất quyền hưởng di sản
Trong các văn bản pháp luật trước đây cũng như pháp luật hiện hành về thừa kế
chỉ sử dụng thuật ngữ truất quyền thừa kế khi quy định về quyền của người lập di
chúc, cụ thể, theo quy định tại điều 626 Bộ luật Dân sự 2015: “Người lập di chúc có
quyền sau đây: Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế”.
Các vấn đề liên quan đến việc truất quyền thừa kế như người truất quyền, người bị
truất quyền, quyền và hạn chế quyền của người lập di chúc trong việc truất quyền
hưởng di sản, hậu quả pháp lý của truất quyền đều phải hiểu theo phương diện lý luận.

3



2.1.1. Người bị truất quyền hưởng di sản
Theo quy định tại khoản 1 điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc có
quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Việc quy định như vậy tạo thành 2
cách hiểu: (1) người bị truất quyền hưởng di sản bao gồm người thừa kế theo pháp luật
và người thừa kế theo di chúc; (2) người bị truất quyền thừa kế là người thừa kế theo
pháp luật.
Người bị truất quyền thừa kế là người vốn dĩ có quyền thừa kế nhưng nay người
lập di chúc không cho họ hưởng quyền đó, người vốn dĩ khơng có quyền thừa kế thì
khơng bị truất quyền do đó, cần loại trừ trường hợp người thừa kế theo di chúc không
phải người thừa kế theo pháp luật. Tức là người thừa kế theo di chúc nhưng không
phải người thừa kế theo pháp luật không là người bị truất quyền thừa kế; người bị truất
quyền thừa kế chỉ có thể là người thừa kế theo pháp luật, tức là loại trừ trường hợp
người bị. Bởi lẽ, ý nghĩa của việc truất quyền đó là không cho một chủ thể được
hưởng quyền mà nhẽ ra họ được hưởng. Người để lại di sản truất quyền thừa kế của
một người tức là người để lại di sản không cho người thừa kế hưởng quyền thừa kế mà
nhẽ ra họ được hưởng. Trường hợp, người thừa kế trong di chúc không phải là người
thừa kế theo pháp luật, người đó được hưởng di sản thừa kế theo ý chí của người lập di
chúc, họ chỉ có quyền hưởng di sản khi được xác định trong di chúc; trường hợp
khơng được xác định trong di chúc thì họ khơng được hưởng vì lí do họ vốn khơng có
quyền chứ khơng phải do họ có quyền nhưng bị người để lại di sản khơng cho hưởng
quyền; do đó, trong trường hợp này khơng liên quan gì đến truất quyền.
Đồng thời, cần phân biệt người bị truất quyền hưởng di sản với người không
được hưởng di sản theo di chúc. Người không được hưởng di sản theo di chúc vẫn là
người thừa kế, họ khơng có quyền hưởng di sản theo di chúc nhưng vẫn có thể được
hưởng thừa kế nếu họ là người thừa kế theo pháp luật, không thuộc trường hợp bị tước
quyền, từ chối quyền. Những người bị truất quyền thừa kế đương nhiên không được
hưởng di sản theo di chúc, đồng thời, họ cũng khơng có quyền hưởng di sản khi di sản
được phân chia theo pháp luật. Như vậy, người không được hưởng di sản theo di chúc
vẫn là người thừa kế theo luật của người lập di chúc nhưng người bị truất quyền thì

khơng khơng cịn là người thừa kế theo luật của người thừa kế theo luật của người lập
di chúc.
2.1.2. Căn cứ xác định người bị truất quyền hưởng di sản
Điều 626 Bộ luật Dân sự Bộ luật Dân sự 2015 quy định, người lập di chúc có
quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế, theo đó, việc truất quyền hưởng di
sản của người thừa kế được xác định phụ thuộc vào nội dung di chúc do người để lại
di sản lập. Di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản nhằm chuyển tài sản của
mình cho người khác sau khi chết. Do đó, di chúc là căn cứ xác định người thừa thế có
bị truất quyền hưởng di sản hay không.

4


Người thừa kế được xác định là người bị truất quyền hưởng di sản chỉ khi phần
di chúc liên quan đến việc truất quyền hưởng di sản có hiệu lực pháp luật. Theo quy
định tại điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, điều kiện có hiệu lực đối với phần di chúc liên
quan đến việc truất quyền hưởng di sản là phần di chúc đó phải hợp pháp. Trong đó,
điều kiện quan trọng nhất đó là phần di chúc lên quan đến việc truất quyền hưởng di
sản phải hợp pháp.
Theo quy định tại điều 630 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc hợp pháp được quy
định như sau:
“Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di
chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di
chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền
chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Theo đó, di chúc hợp pháp phải đáp ứng các điều kiện về chủ thể lập di chúc,
mặt hình thức và nội dung của di chúc. Đối với chủ thể lập di chúc, người lập di chúc
cần có đủ năng lực hành vi dân sự, đảm bảo khả năng làm chủ ý chí, minh mẫn, sáng
suốt trong khi lập di chúc, toàn bộ nội dung trong di chúc phải phù hợp với ý chí của
người lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Trường hợp người lập di chúc
là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản
và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm
chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực. Về mặt nội dung, nội
dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Về mặt
hình thức, di chúc khơng trái quy định pháp luật về hình thức của di chúc. Hình thức
của di chúc bao gồm di chúc miệng và di chúc bằng văn bản (di chúc bằng văn bản có
5


người làm chứng, di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng, di chúc bằng văn
bản có cơng chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực). Đối với mỗi hình thức khác
nhau của di chúc, nhà làm luật đã đặt ra những yêu cầu khác nhau về mặt hình thức
cần phải tn thủ để đảm bảo tính chính xác, thể hiện đúng ý chí của người lập di
chúc, hạn chế tối đa những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người để

lại di sản và người thừa kế.
2.1.3. Hậu quả pháp lý của việc truất quyền hưởng di sản
Việc bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản dẫn đến việc người bị truất
khơng cịn là người thừa kế của người bị truất quyền nữa, do đó, sẽ dẫn đến các hậu
quả pháp lý sau:
Thứ nhất, người bị truất quyền hưởng di sản không được hưởng di sản của
người chết để lại. Người bị truất quyền hưởng di sản khơng chỉ khơng có quyền được
hưởng di ản theo di chúc mà người bị truất quyền hưởng di sản cũng không được
quyền hưởng di sản ngay cả khi di sản được chia theo pháp luật
Ví dụ: Ơng A có vợ là bà B, có 3 người con chung là M, N, H và có tài sản là 5
tỷ đồng cùng một quyền sử dụng đất, M có con là cháu X, H có con là cháu Y. Ông A
lập di chúc nội dung sau: định đoạt toàn bộ quyền sử dụng đất cho bà B, định đoạt 5 tỷ
đồng cho H, truất quyền hưởng di sản của M, di chúc của ông A là hợp pháp. Ông A
chết năm 2019, H chết năm 2018. Do H chết trước khi ông A chết nên phần di chúc
định đoạt quyền hưởng di sản của H không có hiệu lực, phần di sản 5 tỷ sẽ phân chia
theo pháp luật. Do M bị truất quyền hưởng di sản thừa kế theo nội dung di chúc hợp
pháp của ông A nên M không còn là người thừa kế của ơng A, M khơng có quyền
hưởng di sản theo pháp luật.
Thứ hai, con của người bị truất quyền hưởng di sản không được thừa kế thế vị.
Theo quy định tại điều 652 Bộ luật Dân sự 2015:“Trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết
trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cịn sống.” Theo đó, trường hợp con
của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống;
nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Tuy
nhiên, trường hợp con của người để lại di sản là người đã bị truất quyền hưởng di sản,
con của người để lại di sản khơng có quyền hưởng di sản nên cháu của người để lại di

sản cũng khơng có quyền hưởng di sản theo trường hợp thừa kế thế vị. Tức là, vì cha
hoặc mẹ khơng được hưởng di sản khi còn sống nên con của người để lại di sản đã bị
truất quyền hưởng di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di
sản thì cháu khơng được thế quyền hưởng di sản.
6


2.1.4. Trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Những người bị truất quyền thừa kế theo nội dung di chúc sẽ không được hưởng
di sản của người để lại di sản, tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho những người thân
thích mà người để lại di sản có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng, nhà làm luật đã quy
định cụ thể trường hợp những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Cụ thể, khoản 1 điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.”
Theo đó, những người là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành
niên mà khơng có khả năng lao động của người để lại di sản là những người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc, được hưởng tối thiểu 2/3 suất của một người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, kể cả trong trường hợp
người đó bị truất quyền hưởng di sản thì vẫn được hưởng di sản theo mức tối thiểu.
Pháp luật luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của người sở hữu tài sản trước khi
chết, tuy nhiên pháp luật cũng đặt ra những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của
những người thân thích của người để lại di sản. Họ đều là những chủ thể mà người để
lại di sản khi cịn sống có nghĩa vụ u thương, chăm sóc, ni dưỡng, là những người
có quan hệ thân thiết, gắn bó nhất đối với người để lại di sản, do đó, họ xứng đáng
được hưởng di sản thừa kế mà người thân của mình sau khi chết. Có thể vì nhiều

ngun nhân mà người để lại di sản truất quyền hưởng di sản của những người này
nhưng dù có bị truất thì những người này vẫn được hưởng di sản ít nhất bằng 2/3 một
suất thừa kế theo pháp luật.
2.2. Người khơng có quyền hưởng di sản theo quy định tại điều 621 Bộ luật
Dân sự 2015
2.2.1 Người bị tước quyền hưởng di sản
Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điều 621 Bộ luật Dân
sự 2015 là những chủ thể bị tước quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật,
những chủ thể này có thể là người thừa kế theo pháp luật hoặc người thừa kế theo di
chúc. Như đã trình bày ở phần khái quát chung, những người bị tước quyền hưởng di
sản là những người đáng nhẽ được hưởng di sản nhưng lại có nhữn hành vi trái pháp
luật, trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như
theo di chúc.
7


Theo quy định tại điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, người không được quyền
hưởng di sản bao gồm những chủ thể sau:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành
vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Theo đó, hành vi trái pháp luật, vi phạm đạo đức và mức độ vi phạm là căn cứ
quan trọng nhất để xác định một người có bị tước quyền hay không. Những người bị
tước quyền hưởng di sản bao gồm bốn loại chủ thể và là một trong bốn trường hợp

sau:
Thứ nhất, người đã bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Chủ thể bị tước quyền hưởng di sản trong trường hợp này cần đáp ứng hai điều
kiện:
(1) Có hành vi trái pháp luật với người để lại di sản như: cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ, xâm phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm. Đây đều là những hành vi mang lỗi cố ý, tác động trực tiếp đến
thể xác và tinh thần của người để lại di sản. Yếu tố lỗi là một căn cứ quan trọng để xác
định họ có bị tước quyền hay khơng. Trường hợp họ thực hiện những hành vi xâm
phạm trên nhưng do vơ ý thì họ cũng khơng bị tước quyền hưởng di sản. Đồng thời,
cần lưu ý, những hành vi này có thể khơng vì động cơ trục lợi, khơng phải vì mực đích
để được hưởng di sản nhưng họ vẫn bị tước bỏ quyền hưởng di sản.
Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe là các hành vi được thể hiện dưới dạng
hành động hoặc không hành động, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
nhưng cùng có tính chất là trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe cho con người hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đó. Hậu quả mà những hành vi đó gây
ra (trừ hành vi đe doạ giết người) có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại đến
quyền được sống của con người, hoặc gây thiệt hại đến sức khỏe của con người.
Hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người để
lại di sản là những hành vi đối xử trái pháp luật và vô đạo đức, thường được thực hiện
thông qua hành động: chửi mắng, nhục mạ, bỏ mặc, để đói… khiến cho người để lại di
8


sản đau đớn về mặt tinh thần, danh dự bị xúc phạm, dày vò và khốn khổ về mặt thể
xác
(2) Về mức độ, hành vi trái pháp luật là những hành vi xâm phạm nghiêm trọng,
đã bị kết án bằng bản án, quyết định của Tòa án. Đối với các hành vi xâm phạm tính

mạng, sức khỏe có thể sử dụng khoa học, kỹ thuật để xác định mức độ thương tật gây
ra bởi hành vi xâm phạm, hoặc có thể xác định bằng hậu quả người đó chết. Nhưng
đối với hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm thì căn cứ xác
định mức độ nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng vẫn chưa cụ thể, rõ ràng và chưa được
quy định, giải thích bằng văn bản pháp luật. Do đó, cần hiểu rằng, khi những hành vi
xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản đã bị kết án bằng bản án có
hiệu lực pháp luật thì trong đó lã hàm chứa tính chất nghiêm trọng. Tức là, tính chất
nghiêm trọng của hành vi đã được thể hiện bằng việc hành vi đó bị truy cứu trách
nhiêm hình sự và kết án. Bởi vậy nên khi xem xét, giải quyết vấn đề về thừa kế, cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền không cần xem xét về mức độ nghiêm trọng của hành vi
ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm nữa mà cần căn cứ việc hành
vi này đã cấu thành tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị kết án bằng bản án
có hiệu lực để xác định hành vi có tính chất nghiêm trọng.
Thứ hai, hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản.
Theo quy định tại Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thì những người sau đây
có nghĩa vụ ni dưỡng nhau: cha, mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình; con có nghĩa vụ ni dưỡng cha mẹ; cha dượng, mẹ
kế có nghĩa vụ ni dưỡng con riêng của bên kia cùng sống chung với mình; ơng bà
nội, ngoại có nghĩa vụ ni dưỡng cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni
mình mà khơng có người ni dưỡng; cháu đã thành niên có nghĩa vụ ni dưỡng bà
nội, ơng bà ngoại khơng có con để ni dưỡng mình; anh, chị, em có nghĩa vụ ni
dưỡng nhau trong trường hợp khơng cịn cha mẹ hoặc cha mẹ khơng có điều kiện
trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; Cơ, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột có quyền, nghĩa vụ ni dưỡng nhau trong trường hợp người cần được ni
dưỡng khơng cịn cha, mẹ, con, ơng bà nội ngoại, anh chị em hoặc còn nhưng những
người này khơng có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng.
Ni dưỡng là việc một người chăm sóc và cung cấp những thứ cần thiết cho

người khác (người được ni dưỡng) nhằm tạo điều kiện để duy trì và phát triển cuộc
sống của người đó Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng là việc người có nghĩa
vụ khơng thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng đối với người có quyền. Đối với hành vi vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng, pháp luật không đặt ra vấn đề hành vi đó có
bị kết án hay khơng. Người có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại thừa
kế có thể bị tước quyền thừa kế kể cả hành vi đó khơng bị kết án. Đồng thời, người
9


thừa kế được xác định có nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản chỉ bị tước quyền
thừa kế nếu sự vi phạm đó bị coi là nghiêm trọng. Vậy như thế nào là vi phạm nghiêm
trọng? Trước đây, theo quy định tại điểm b mục 2 Nghị quyết của hội đồng thẩm phán
toà án nhân dân tối cao số 02/hđtp ngày 19 tháng 10 năm 1990 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của pháp lệnh thừa kế, người có nghĩa vụ ni dưỡng bị tước quyền
thừa kế được quy định như sau: “Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy
định tại các điều 19, 20, 21, 23, 27 Luật Hơn nhân và gia đình (như cha mẹ và con,
ông bà và cháu, anh chị em) trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di
sản chết, nếu có khả năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho
người cần được ni dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng,
thì khơng có quyền hưởng di sản của người đó.”. Theo đó, căn cứ vào tinh thần của
Nghị quyết 02/HĐTP thì tính chất nghiêm trọng đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ
được hiểu là việc người có nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản mà có khả năng
thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng nhưng không thực hiện làm cho người cần được nuôi
dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng.
Thứ ba, hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng đã bị kết
án.
Chủ thể bị tước quyền hưởng di sản trong trường hợp này cần đồng thời thỏa
mãn ba điều kiện:
- Có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác;

- Hành vi của họ phải nhằm mục đích hưởng một phần hoặc tồn bộ phần di sản
mà người thừa kế đó có quyền hưởng
- Đã bị Tòa án kết án về hành vi này bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Một người chỉ bị tước quyền thừa kế theo điểm c, khoản 1 điều 621 nếu hành vi
của họ đồng thời thỏa mãn ba điều kiện trên. Đặc biệt, động cơ, mục đích của hành vi
xâm phạm này phải là nhằm để hưởng phần di sản mà người thừa kế khác có quyền
hưởng.
Thứ tư, hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc đều là các hành vi khiến cho người lập di chúc không thể lập di chúc đúng theo ý
nguyện của mình. Hành vi lừa dối người để lại di sản là hành vi cung cấp thông tin sai
sự thật làm cho người để lại di sản tin vào thông tin đó mà lập một di chúc trái với ý
nguyện của mình. Hành vi cưỡng ép. Ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di
chúc là hành vi tác động đến tâm lý, tinh thầm của người lập di sản, buộc họ phải lập
một di chúc để định đoạt di sản trái với ý nguyện của họ. Hành vi lừa dối, cưỡng ép
hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc có thể do người thừa kế hoặc
10


do người ngoài diện thừa kế thực hiện nhưng chỉ trường hợp người thừa kế thực hiện
thì người đó bị tước quyền thừa kế.
Hành vi giả mạo, sửa chữa di chúc là hành vi làm sai lệch nội dung di chúc do
người để lại di sản lập. Hành vi giả mạo di chúc là hành vi xác lập một di chúc mới,
giả cả nội dung lẫn hình thức nhằm làm cho người khác tin rằng đó là di chúc do
người chết để lại. Hành vi sửa chữa di chúc là hành vi thay đổi một phần hoặc toàn bộ
nội dung di chúc mà người để lại di sản đã lập. Những hành vi này đềi nhằm mục đích
hướng tới sự có lợi cho một hoặc một số người nhất định trong việc hưởng di sản mà
việc hưởng di sản này hồn tồn trái với ý chí của người đã chết.

Hành vi hủy là hành vi sử dụng các thủ đoạn (xé, đốt, vứt…) tác động đến di
chúc, khiến di chúc của người để lại di sản khơng cịn tồn tại, bị phá hủy hồn tồn,
khơng cịn ngun vẹn hay khơng thể khôi phục được trạng thái ban đầu.
2.2.2 Hậu quả pháp lý của việc bị tước quyền hưởng di sản
Tương tự như hậu quả pháp lý của việc bị truất quyền hưởng di sản, việc bị tước
quyền hưởng di sản cũng dẫn đến hai hậu quả pháp lý sau:
Thứ nhất, người bị tước quyền hưởng di sản không được hưởng di sản của
người chết để lại. Người bị truất quyền hưởng di sản khơng chỉ khơng có quyền được
hưởng di ản theo di chúc mà người bị truất quyền hưởng di sản cũng không được
quyền hưởng di sản ngay cả khi di sản được chia theo pháp luật. Trường hợp người lập
di chúc biết về hành vi của người thừa kế nhưng vẫn cho hưởng di sản thì người này
chỉ có quyền hưởng di sản theo di chúc, khơng có quyền hưởng di sản theo pháp luật.
Thứ hai, những người thừa kế thế vị của người bị tước quyền hưởng di sản
không được thế quyền hưởng thừa kế. Theo quy định tại điều 652 Bộ luật Dân sự
2015:“Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu
được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu cịn sống.” Theo đó, trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của chắt được hưởng nếu còn sống. Tuy nhiên, đối với trường hợp cha mẹ cháu đã bị
tước quyền hoặc cha mẹ của chắt bị tước quyền thì cháu hoặc chắt cũng khơng có
quyền hưởng di sản của ông bà hoặc cố theo pháp luật.
2.2.3 Trường hợp người thuộc trường hơp bị tước quyền theo quy định pháp
luật nhưng vẫn được hưởng di sản
Pháp luật đã đặt ra quy định tước quyền hưởng di sản nhằm nâng cao đạo đức,
cách xử xự của người thừa kế với những điều kiện nhất định để được hưởng quyền
11



nhận di sản, đồng thời làm triệt tiêu quyền của những chủ thể khơng xứng đáng, những
người có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng liên quan đến thừa kế di sản. Tuy
nhiên, pháp luật dân sự, dựa trên bản chất tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể khi
tham gia vào quan hệ dân sự. Việc tước quyền hay không tước quyền hưởng di sản của
người thừa kế trong các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 621 Bộ luật Dân sự
2015 nói trên cần được cân nhắc, xem xét trên cơ trở tôn trọng sự tự do ý chí và quyền
tự định đoạt của người để lại di sản. Theo đó, khoản 2 điều 621 Bộ luật Dân sự 2015
đã quy định trường hợp loại trừ đối với những người không được quyền hưởng di sản
như sau:
“Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu
người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di
sản theo di chúc.”
Theo quy định trên, người để lại di sản nếu đã biết các hành vi của người thừa
kế của mình thực hiện nhưng vẫn lập di chúc cho họ hưởng di sản thì người này vẫn
được hưởng di sản theo di chúc. Tuy nhiên, cần lưu ý về thời điểm lập di chúc và thời
điểm người lập di chúc biết về hành vi của những người thừa kế. Trường hợp người
thừa kế thực hiện hành vi vi phạm trước khi người để lại di sản lập di chúc và người
để lại di sản vẫn ghi nhận quyền hưởng di sản của người đó trong di chúc thì người đó
vẫn có quyền hưởng di sản theo di chúc nếu di chúc có hiệu lực pháp luật. Trường hợp
người thực hiện hành vi vi phạm sau khi người để lại di sản lập di chúc nhưng người
lập di chúc biết về hành vi vi phạm nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì họ
vẫn được hưởng di sản theo di chúc.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, theo quan điểm của người viết bài thì việc
“người để lại di sản biết về hành vi của người nhận di sản nhưng vẫn cho người đó
hưởng di sản” phải được thể hiện một cách rõ ràng. Sự thể hiện ý chí “vẫn cho hưởng
di sản” cần được biểu hiện một cách minh thị, tức là phải có bằng chứng chứng minh
là người để lại di sản biết về hành vi của người thừa kế nhưng vẫn không sửa đổi nội
dung di chúc thay đổi quyền hưởng di sản của người thừa kế hoặc vẫn lập di chúc cho

hưởng quyền. Trường hợp người để lại di sản không biết về hành vi của người thừa kế
nên vẫn lập di chúc cho họ hưởng di sản thì người thừa kế khơng có quyền hưởng di
sản theo di chúc. Trường hợp hành vi trái pháp luật xảy ra sau khi người để lại di sản
lập di chúc nhưng người đã lập di sản khơng có ý kiến thể hiện việc vẫn đồng ý cho
người thừa kế hưởng di sản thì người đó khơng có quyền hưởng di sản. Trường hợp
khơng có bằng chứng chứng minh người để lại di sản biết về hành vi của người thừa
thừa kế thì người thừa kế đó cũng khơng được hưởng di sản theo di chúc.
Người thừa kế trong trường hợp này không được hưởng di sản theo pháp luật và
khơng có tư các là người thừa kế theo pháp luật. Cũng vì lý do này nên trường hợp áp
dụng điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 khi xác định xuất thừa kế chia theo pháp luật để

12


tính kỷ phần 2/3 cho người thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung di chúc, người bị
tước quyền hưởng di sản khơng được tính là tham số trong số chia để nhân suất.2
III. Bất cập trong quy định của pháp luật và hoàn thiện pháp luật
3.1. Một số bất cập trong quy định của pháp luật
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự 2015 sử dụng cụm từ “người không được quyền hưởng
di sản” để quy định về những trường hợp bị tước quyền hưởng di sản là không hợp
lý.
Người bị truất quyền hưởng di sản và người bị tước quyền hưởng di sản đều là
những người khơng có quyền hưởng di sản do đó, việc sử dụng cụm từ “người khơng
được quyền hưởng di sản” để nói đến chủ thể bị tước quyền hưởng di sản là khơng
hợp lý, có thể dẫn nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ hai, chưa có quy định cụ thể về hiệu lực của di chúc trong trường hợp
người bị truất quyền hưởng di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc dẫn đến bất cập trong việc xác định quyền hưởng di sản của những
người thừa kế thế vị.
Truất quyền hưởng di sản là một nội dung được ghi nhận trong di chúc nên hiệu

lực của truất quyền phụ thuộc vào hiệu lực của di chúc. Theo quy định tại khoản 2
điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc khơng có hiệu lực tồn bộ hoặc một phần trong
những trường hợp sau: Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế khơng
cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc
mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong
nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ
chức này khơng có hiệu lực. Theo đó, phần di chúc liên quan đến người thừa kế theo
di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế sẽ khơng có hiệu lực. Tuy nhiên,
pháp luật không quy định cụ thể trường hợp người bị truất quyền hưởng di sản chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc thì phần di chúc liên quan đến
người bị truất quyền có hiệu lực hay khơng. Việc xác định phần di chúc liên quan đến
người bị truất quyền có hiệu lực hay khơng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định thừa kế thế vị đối với con, cháu của người bị truất quyền.
Theo quy định tại điều khoản 2 điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc khơng
có hiệu lực nếu người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc. Người bị truất quyền hưởng di sản không phải là người thừa kế theo
di chúc do đó, người bị truất quyền hưởng di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc không phải căn cứ dẫn đến phần di chúc liên quan đến truất
quyền thừa kế cuả người này không có hiệu lực. Tuy nhiên, người bị truất quyền
hưởng thừa kế và người có quyền thừa kế đều là các chủ thể được người để lại di sản
2 Theo Phùng Trung Tập: Luật Dân sự Việt Nam bình giải và áp dụng - Luật Thừa kế, Nxb. Hà Nội,2017

13


định đoạt quyền và nghĩa vụ trong di chúc. Người thừa kế khơng cịn sống hoặc tồn tại
tại thời điểm mở di sản nên khơng cịn khả năng hưởng quyền, do đó khơng có căn cứ
để phân chia di sản cho người đó dẫn đến phần di chúc liên quan khơng có hiệu lực

pháp luật. Tương tự như vậy, người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế khơng cịn
sống tại thời điểm mở di sản nên họ cũng không cịn khả năng mất quyền hưởng di
sản, do đó phần di chúc liên quan đến họ cũng khơng có hiệu lực pháp luật.
Có quan điểm cho rằng, để đảm bảo quyền tự định đoạt của người để lại di sản,
cần hiểu theo hướng mức độ có hiệu lực của việc truất quyền hưởng di sản là tuyệt
đối, tức là, kể cả trong trường hợp người bị truất khơng cịn sống tại thời điểm mở
thừa kế thì phần di chúc liên quan đến truất quyền hưởng di sản vẫn có hiệu lực pháp
luật và những người bị truất quyền vẫn không có quyền được hưởng di sản. Điều này
dẫn đến hệ quả những người thừa kế thế vị của người này không được hưởng di sản.
Người viết bài không đồng ý với quan điểm này. Bởi lẽ, quyền và nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại phát sinh kể tử thời điểm mở thừa kế (theo quy định tại điều 614 Bộ
luật Dân sự 2015), di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế. Người thừa kế đã
chết trước thời điểm mở thừa kế thì khơng thể có khả năng hưởng quyền thừa kế để
dẫn đến việc bị truất quyền thừa kế theo di chúc được. Do đó, cần phải xác định, phần
nội dung di chúc liên quan đến việc truất quyền thừa kế của người thừa kế chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc khơng có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, quy định pháp luật về việc những người bị tước quyền hưởng di sản
thì những người thừa kế thế vị của họ cũng khơng có quyền thế vị hưởng di sản là
chưa hợp lý.
Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thừa kế thế vị như sau: “Trường hợp
con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di
sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn
sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Với quy định trên, nếu hiểu theo câu chữ của điều luật thì khi cha mẹ của cháu hoặc
chắt bị tước quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật tại điều khoản 1 Điều 621
thì cháu hoặc chắt cũng khơng thể được thay thế vị trí của cha mẹ để hưởng di sản của
ông, bà hoặc cụ.
Theo giải đáp tại tiểu mục 4 Mục II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày
03/4/2019 của TANDTC thì: Thừa kế thế vị được hiểu là hưởng thay và đối tượng

hưởng thay đã được quy định rõ là “phần di sản của cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu cịn sống”. Trường hợp một người đã khơng được quyền hưởng di sản theo
quy định tại khoản 1 Điều 621 của BLDS năm 2015, như bị kết án về hành vi ngược
đãi nghiêm trọng người cha thì họ sẽ không được hưởng di sản của người cha. Do vậy,
nếu họ cịn sống khi cha chết thì họ cũng khơng được hưởng di sản thừa kế nên khơng
có “phần được hưởng nếu còn sống” để cho người khác hưởng thế vị. Như vậy, cha
mẹ của cháu hoặc chắt phải là người được quyền hưởng di sản thì cháu hoặc chắt mới
14


được hưởng thế vị thay cha, mẹ khi cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản.
Người viết bài cho rằng, việc quy định như vậy không bảo đảm quyền lợi tối đa
của người thừa kế thế vị, đặc biệt không bảo vệ quyền hưởng di sản của cháu và chắt
trong trường hợp những người này chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng khơng
có khả năng lao động. Trong trường hợp này, cháu hoặc chắt chưa thành niên hoặc đã
thành niên nhưng khơng có khả năng lao động, chưa thể tự nuôi bản thân, cha mẹ của
người cháu hoặc chắt là người chăm sóc, nuôi dưỡng đã chết. Đồng thời, bản thân
cháu hoặc chắt không phải là những người thực hiện hành vi, không bị tước quyền
hưởng di sản, không bị truất quyền hưởng di sản và họ có năng lực pháp luật để thừa
hưởng di sản. Trong trường hợp này, cháu hoặc chắt không được thế vị nhận di sản là
một điều thiệt thòi rất lớn cho họ. Do vậy, theo quan điểm của người viết bài, pháp
luật cũng nên cho họ được hưởng thừa kế thế vị, mặc dù cha mẹ của họ trước khi chết
đã rơi vào một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân
sự 2015.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, đối với trường hợp người bị tước quyền hưởng di sản do vì hành vi
hành vi cố ý xâm phạm sức khỏe cần quy định cụ thể về thời điểm thực hiện hành
vi, tính chất nghiêm trọng và động cơ, mục đích thực hiện hành vi làm căn cứ tước
quyền.

Pháp luật về hình sự đã quy định cho người bị kết án sau khi đã chịu trách
nhiệm hình sự đối với hành vi của mình gây ra sẽ được xóa án tích, đảm bảo điều kiện
cho họ có động lực thay đổi, làm lại cuộc đời. Tuy nhiên, đối với pháp luật về thừa kế,
có quan điểm cho rằng “dù đã được xóa án tích cũng khơng được quyền hưởng di sản
của người chết”. Người viết bài cho rằng, việc tước quyền hưởng di sản một cách
tuyệt đối đối với những người thực hiện hành vi cố ý xâm phạm sức khỏe của người
để lại di sản là không hợp lý. Bởi lẽ, pháp luật không quy định thời điểm thực hiện
hành vi vi phạm so với thời điểm người để lại di sản chết, khơng quy định về mục
đích, động cơ của hành vi vi phạm, không quy định về tính chất nghiêm trọng của
hành vi vi phạm. Nên những người thừa kế thực hiện hành vi vi phạm dù đã rất lâu
trước khi người để lại di sản chết, thậm chí đã được xóa án tích hoặc người thừa kế
thực hiện hành vi vi phạm vì mục đích, động cơ khác không phải để trục lợi, hưởng di
sản, hoặc người thừa kế thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng nhưng vẫn không
được hưởng di sản của người thừa kế. Do đó, người viết bài kiến nghị cần hoàn thiện
pháp luật theo hướng: “Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm nghiêm trọng sức
khỏe của người để lại di sản vì mục đích hưởng di sản thừa kế thì khơng có quyền
hưởng di sản, trừ trường hợp người này đã được xóa án tích.”
15


Thứ hai, đối với trường hợp vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng
người để lại di sản cần quy định cụ thể thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
nuôi dưỡng làm căn cứ tước quyền hưởng di sản.
Theo quan điểm của người viết bài, hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
nuôi dưỡng người để lại di sản phải dẫn đến hậu quả người để lại di sản không được
đáp ứng các điều kiện sống tối thiểu, và diễn ra trong một thời gian dài, liên tục đến
khi người để lại di sản chết. Đồng thời, nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản cần
được quy định cụ thể trong quyết định, bản án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
người thừa kế khơng thực hiện đúng nội dung nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
đã được quy định trong quyết định, bản án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví

dụ: Theo bản án của Tịa án, anh A có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu B chưa thành niên
là con gái của A đến khi cháu 18 tuổi, tuy nhiên A đã không thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng theo bản án. Sau đó, cháu B chết năm 40 tuổi, anh A lúc này 70 tuổi. Vậy anh A
có quyền hưởng di sản của cháu B không? Theo quy định pháp luật thì anh A là người
có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu A tại thời điểm cháu chưa
đủ 18 tuổi, tuy nhiên, kể từ khi anh A có hành vi vi phạm đến khi cháu B mất là một
khoảng thời gian rất dài. Nếu sau hơn 20 năm, hành vi của anh A vẫn là căn cứ khiến
cho anh A bị tước quyền hưởng di sản của con gái mình là một điều khơng hợp lý. Do
đó, người viết bài kiến nghị sửa đổi điều khoản này theo hướng: “Người có hành vi vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản trong thời gian dài và
liên tục đến khi người để lại di sản chết”, đồng thời, bổ sung quy định về cách xác
định mức độ vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Thứ ba, bổ sung quy định về trường hợp cháu và chắt chưa thành niên hoặc
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động vẫn được hưởng thừa kế thế vị
trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu và chắt khi cịn sống là người thừa kế
khơng được hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015
Như đã trình bày ở trên, cháu và chắt là những người không thực hiện các hành
vi dẫn đến bị tước quyền hưởng di sản, không bị người để lại di sản truất quyền hưởng
di sản, đồng thời họ khơng có khả năng lao động để tự ni sống bản thân mình. Do
đó, để đảm bảo quyền, lợi ích của các cháu của người để lại di sản, đặc biệt là trường
hợp cháu và chắt là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng khơng có khả
năng lao động thì pháp luật cũng nên cho họ hưởng thừa kế thế vị thay cho cha mẹ họ
bị truất hoặc bị tước quyền khi còn sống nhưng chết trước người để lại di sản để cháu
được thừa kế di sản của ông bà, chắt được hưởng di sản của các cụ (tương tự như quy
định tại Điều 644 BLDS năm 2015 về trường hợp những người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc. Loại trừ trường hợp khi chính con, cháu của họ cũng có
một trong các hành vi vi phạm được nêu tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì
khơng được hưởng di sản.

16



KẾT LUẬN
Thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Trải
qua những thời kỳ lịch sử, pháp luật về thừa kế ngày càng dượcđổi mới, hoàn thiện
hơn nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong việc định
đoạt tài sản sau khi chết và hưởng di sản thừa kế của chủ thể khác. Tuy nhiên, những
quy định về những người khơng có quyền hưởng di sản thừa kế, truất quyền hưởng di
sản và tước quyền hưởng di sản chưa thực sự được quy định cụ thể và hoàn thiện trong
Bộ luật Dân sự 2015. Điều này đã tạo ra những khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng pháp luật trên thực tế và đặt ra những yêu cầu hoàn thiện pháp luật hơn nữa.

17


18


19


20


21


22



23


24


HỌC VIÊN
(Ký và ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN
ĐĂNG KÝ THỰC TẬP
(Ký và ghi rõ họ tên)

25


×