BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC KỲ: II NĂM HỌC:2020-2021
Học phần: Mơn tư tưởng hồ chí minh
Hình thức thi: Tự luận nộp bài sau
Ngày thi:
Đề thi:
Câu 1: Nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về những lĩnh vực chính của văn
hoá? Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay?
Câu 2: Phân tích nguyên tắc xây dựng đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh: “Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức”. Vận dụng nguyên
tắc trên trong việc tu dưỡng đạo đức của bản thân?
Giảng viên:
Sinh viên:
Lớp: Luật 4B
Mã sinh viên: 60DLU04090
Hà Nội, 2021
1
Câu 1: Nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về những lĩnh vực chính của văn
hoá? Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay?
Nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về những lĩnh vực chính của văn hoá?
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”1. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con người, về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, về sức mạnh của nhân dân… trong đó, Người cịn là nhà hoạt động chính trị
kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài, Người còn là nhà
văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề văn hoá ln chiếm một vị trí
quan trọng, đó là một kho tàng quí báu của dân tộc. Những quan điểm tư tưởng
của Người về văn hoá, là một yếu tố cấu thành nền tảng tinh thần xã hội, là cơ
sở lý luận kim chỉ nam để Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách xây dựng
và phát triển văn hoá mới của đất nước qua các thời kỳ cách mạng.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hoá dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn là cơ sở vững chắc,
là ánh hào quang soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện mục tiêu
xây dựng thành cơng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ
những cơ sở triết học, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, là việc làm có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Nó không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn,
tin tưởng hơn tư tưởng về văn hoá của Người, mà nó còn giúp chúng ta có cơ sở
khoa học để quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chính sách, xây dựng và phát
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 88
1
2
triển nền văn hoá của Đảng và nhà nước ta, đóng góp tích cực vào quá trình đấu
tranh chống các biểu hiện tiêu cực về văn hoá.
Một số quan điểm cơ bản của hồ chí minh về văn hóa:
a. Quan điểm về vai trò vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng
- Văn hóa là động lực của cách mạng.
Theo tinh thần Hồ Chí Minh, vai trị của văn hóa là động lực của cách
mạng trước hết thể hiện ở chỗ nó là nền tảng tinh thần của xã hội tạo ra sức
mạnh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Văn hóa có vị
trí ngang hàng các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, thích ứng những nhu cầu và
địi hỏi của sự sinh tồn. Những thành tố trong cấu trúc văn hóa như chủ nghĩa
dân tộc mà hạt nhân là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập tự
cường, tự tôn dân tộc, ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái khoan
dung, trọng nghĩa tình đạo lý... tạo ra sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, thắng giặc ngoại xâm và nội xâm. Đó chính là sự thắng lợi
của “văn minh đối với bạo tàn”. Theo tinh thần Hồ Chí Minh, các yếu tố văn hóa
như khoa học (bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội nhân văn), giáo dục đạo đức, pháp luật... giúp dân tộc vượt qua yếu hèn, thúc
đẩy kinh tế - xã hội. Theo Người, một xã hội có lối sống đẹp, cách ứng xử văn
hóa, chú trọng thực hành cần, kiẹm,liêm, chính tạo nên diện mạo mới và tạo nên
sự hưng thịnh cho dân tộc. Những điều trái lại là biểu hiện của sự suy vong.
Là động lực, văn hóa thể hiện ở tính hướng đích, định hướng giá trị và
chức năng giáo dục:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và
tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất cảu đời sống tinh thần; nó có thể đúng đắn,cao
đẹp hoặc ngược lại. Bồi dưỡng tư tưởng phải được tiến hành thường xuyên và
chú ý đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của con
người và dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn. Đó là lý
tưởng vì nước quên mình; vì lợi ích chung mà qn lợi ích riêng, độc lập, tự
cường, tự chủ; khơng có gì q hơn độc lập tự do; độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Tình cảm lớn là yêu nước, thương dân, yêu Chân - Thiện - Mỹ; yêu tính
3
trung thực, chân thành, ghét sự giả dối, lừa lọc. Tư tưởng đúng và tình cảm đẹp có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau: conđường đi tới tư tưởng đúng vừa bằng lý trí vừa
bằng tình cảm. Những lý tưởng và tình cảm cách mạng khi đã đi sâu vào tâm lý
quốc dân sẽ biến thành một sức mạnh vật chất, tạo động lực cho cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí. Dân trí là sự hiểu biết của người dân về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, thực tiễn... Nhưng
con đường đi tới nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết chữ, chống giặc dốt,
từng bước đi tới hiểu biết. Mục đích cuối cùng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Muốn đạt tới những nhận thức đó phải thông qua con đường văn hóa,
trước hết là văn hóa giáo dục.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp, lành mạnh để
không ngừng hoàn thiện bản thân. Văn hóa sẽ góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức để sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống “giặc nội xâm”,
hướng con người tới Chân - Thiện - Mỹ. Văn hóa cũng có vai trị bồi dưỡng phẩm
chất chính trị, phẩm chất chun mơn, tạo động lực thúc đẩy cách mạng.
Văn hóa soi đường quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập,
tự cường, tự chủ. Tư tưởng Mác - Lênin trong cấu trúc văn hóa đưa con người từ
chỗ bị tha hóa đến chỗ phát triển tự do, toàn diện.
Văn hóa là chất keo tạo sự liên kết, tăng cường mối tương tác, hiểu biết
giữa các dân tộc, điều tiết các mối quan hệ quốc tế.
- Văn hóa là mục tiêu cách mạng
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, mục đích cuối cùng của cách mạng do
Đảng Cộng sản lãnh đạo là đem lại hạnh phúc, tự do, dân chủ cho nhân dân.
Hạnh phúc, tự do, dân chủ là những giá trị văn hóa. Điều đó thể hiện ở triết lý
Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam.
Triết lý bphát triển xã hơi Việt Nam của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét ở chỉ
số chất lượng sống bao gồm mức độ giải phóng và phát triển con người; sự phát
triển phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất; năng suất lao động;
các yếu tố tinh thần, văn hóa, chính trị, pháp quyền, dân chủ... Con đường để đạt
được mục tiêu đó là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội.
4
Chủ nghĩa xã hội trong quan niện Hồ Chí Minh vừa là mục tiêu phát triển,
vừa là phương thức (phương pháp và cách thức) thực hiện sự phát triển đó, bao
gồm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đi tới chủ nghĩa xã hội theo quan điểm
Hồ Chí Minh là xây dựng một xã hội phát triển hài hòa, bền vững cả đời sông
vật chất, tinh thần, trong đó chú trọng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
đầy tình thương và lịng nhân ái với những giá trị cao đẹp Chân - Thiện - Mỹ.
Mô thức chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh là dựa trên
một nền kinh tế phát triển cao, phải có một nền dân chủ trình độ cao, dân là chủ
và dân làm chủ. Con người không chỉ no cơm, ấm áo, ăn ngon mặc đẹp, mà còn
phải sống có lý tưởng, tình cảm cao đẹp; có phẩm chất đạo đức trong sạch; có
phong cách lành mạnh, sống với nhau có lý, có tình nghĩa, có thủy, có chung, có
nhân có đức, có trước có sau, biết trung biết hiếu...
Triết lý phát triển Hồ Chí Minh lấy chất lượng làm cơ bản lâu dài, vì hạnh
phúc con người. Người quan tâm tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết thất
nghiệp; giải quyết sự phân hóa giàu - nghèo, sự bất ổn về xã hội, chú trọng
quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm môi trường sống, xây dựng nền đạo đức
mới của xã hội và giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc; xóa bỏ tình trạng nghèo
cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học và nâng cao dân trí; tăng cường bình
đẳng nam nữ; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng
chống dịch bệnh; bảo đảm bền vững mơi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn
cầu vì phát triển. Đó thực chất là cơ sở và định hướng phát triển bền vững
ở Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh tập trung
nhất vai trị động lực, mục tiêu của văn hóa. Bởi vì, như chính người Mỹ
cùng đã phải thừa nhận: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật
chất là sức mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại
năng lượng nguyên tử, thời đại phản lực, thời đại điều khiển học, thời đại
chinh phục vũ trụ, thời đại tin học. Dù là kể đến thiết bị nào thì Mỹ cũng
đều có và người Việt Nam đều không có. Sức mạnh duy nhất của họ là sức
mạnh của con người”.
5
b. Văn hóa là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ văn hóa
- Quan điểm về mặt trận văn hóa
Trong lịch sử dân tộc, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu đến các
nhà cách mạng hiện đại đã biết dùng văn hóa đánh giặc. Ra đi tìm đường
cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh tiếp tục khai thác,
phát triển nét đẹp truyền thống đó của dân tộc. Từ những năm hai mươi,
Người dùng ngòi bút để tố cáo tội ác thực dân, thức tỉnh, định hướng nhân
dân đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ những năm ba mươi trở đi,
Người đã dùng sức mạnh văn hóa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và
xây dựng xã hội mới.
Văn hóa là một mặt trận và được hiểu là một bộ phận của cách
mạng, ngang hàng các mặt trận khác. Nó có mặt trong mọi công tác cách
mạng theo tinh thần “văn hóa hóa kháng chiến”. Mặt trận văn hóa là cuộc
đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa, nói ngắn gọn là cuộc cách
mạng tư tưởng - văn hóa.
Tính chất của cách mạng văn hóa khác cách mạng chính trị ở chỗ, nó
khơng thể giải quyết tức thì như kiểu giành chính quyền về tay nhân dân, mà
phải xác định đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp, một cuộc chiến
đấu khổng lồ, quyết liệt trong suốt tiến trình cách mạng từ lúc chưa có chính
quyền đến khi giành được chính quyền, kháng chiến kiến quốc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Truyền thống lạc hậu, thói hư tật xấu cũng là kẻ địch. Mà thắng
nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn thắng đế quốc và phong kiến.
Nội dung đấu tranh trên mặt trận văn hóa rất phong phú, đa dạng, mà cốt
lõi là khẳng định và nhấn mạnh hệ tư tưởng của nền văn hóa mới, bao gồm tư
tưởng về chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật. Phải làm cho thế giới quan MácLênin chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Mọi hoạt động
văn hóa phải làm nổi bật “chủ đề” độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Quan điểm về chiến sĩ văn hóa
6
Khái niệm “mặt trận” và “chiến sĩ” văn hóa luôn ln đi liền với nhau, có
“mặt trận” thì có “chiến sĩ”. “Chiến sĩ” ở đây là những người hoạt động trên mặt trận
văn hóa - tư tưởng. Họ có nhiệm vụ nặng nề, sứ mệnh vẻ vang, vinh dự lớn lao.
Chiến sĩ văn hóa phải có lập trường, tư tưởng vững vàng. Họ phải dứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, nắm chắc tư tưởng Mác-Lênin là
một vũ khí khơng gì có thể so sánh nổi.
Ngịi bút của các chiến sĩ văn hóa là một vũ khí sắc bén trong sự nghiệp
“phị chính trừ tà”. Họ có nhiệm vụ “phụng sự cách mạng, phụng sự kháng
chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Muốn làm điều dó, chiến sĩ văn
hóa phải gắn bó với đời sống, với thực tiễn, với nhân dân; phải “từ trong quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Cuộc sống thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho họ có
những tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng, thời đại vẻ vang.
Chiến sĩ văn hóa phải có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức cách mạng, chun mơn
nghiệp vụ sâu để tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh cách mạng, chống mọi kẻ
thù. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, kẻ thù là
bọn thực dân đế quốc, phong kiến tay sai. Khi xây dựng xà hội mới thì phải tập
trung vào kẻ thù tư tưởng, thói quen truyền thống lạc hậu, “giặc nội xâm” theo
tinh thần “mỗi vần thơ là bom đạn chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”. Đã
là chiến sĩ thì phải đối mặt với mọi kẻ thù, đứng về phía nhân dân, bênh vực, ca
ngợi Chân - Thiện - Mỹ; phanh phui, loại bỏ cái sai, cái ác, cái xấu, cái giả dối,
lừa lọc.
Người chiến sĩ văn hóa phải biết quý trọng, giữ gìn, khai thác, phát triển
những truyền thống tốt đẹp của cha ông, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới chống các
thé lực thù địch và trở lực trên con đường tiến lên thế giới văn minh, vì mục tiêu
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
c. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh vì con người, vì nhân dân. Người khẳng định lấy
hạnh phúc của dân tộc làm cơ sở; lấy lợi ích của nhân dân làm khuôn phép. Văn
hóa phục vụ quần chúng nhân dân phải được nhìn nhận một cách toàn diện.
7
Nhân dân đóng vai trị chủ thể. Họ khơng chỉ sáng tạo ra của cải vật chất,
mà còn là những người sáng tác rất hay. Ca dao, tục ngữ là những “hịn ngọc
q”. Nhân dân ni dưỡng sáng tác bằng những nguồn nhựa sống. Họ là những
người kiểm nghiệm, đánh giá, phản biện các sản phẩm văn hóa một cách trung
thực, khách quan. Vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn viết xong một tác phẩm phải
đưa cho quần chúng công nơng binh đọc để họ góp ý cho mình. Với tư cách chủ
thể nên quần chúng nhân dân được quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa.
Nhân dân đóng vai trò là đối tượng phản ánh. Họ là nhân vật trung tâm
của sự nghiệp cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy, các hoạt động văn hóa phải phản ánh quần chúng nhân
dân một cách chân thực, sống động. Muốn vậy, văn nghệ sĩ phải thâm nhập, hiểu
thấu, liên hệ, gắn bó với quần chúng để thể hiện trong sáng tác của mình tư
tưởng và lịng ước ao của quần chúng.
Quần chúng nhân dân gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, sống ở nhiều địa bàn,
nghề nghiệp khác nhau, trình độ học vấn và nhận thức khác nhau... Vì vậy, hoạt
động văn hóa phản ánh quần chúng phải phù hợp trình độ, lứa tuổi, nghề nghiệp,
địa bàn. Bao giờ cũng phải tư duy và trả lời được bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết
cái gì? Viết nhằm mục đích gì? Viết như thế nào? Một điều quan trọng là phải
trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, tránh lối viết rau muống, dài rỗng
tuếch, thích dùng chữ nước ngoài. Phải làm cho quần chúng hiểu, yêu thích, tạo
những chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mọi người.
Muốn vậy, tác phẩm văn nghệ phải vừa hay vừa chân thực, nội dung phong phú,
hình thức trong sáng, vui tươi. Một tác phẩm, bài nói, bài viết hay, theo quan
niệm của Hồ Chí Minh, khơng cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt
vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng
hiểu được và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như
là một tác phẩm hay và biên soạn tốt. Quần chúng mong muốn những tác phẩm
có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi, hấp
dẫn. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích.
8
Văn hóa phục vụ quần chúng thể hiện ở tính hướng đích của văn hóa. Một
mặt, văn hóa phải thể hiện được tính hiện thực, chân thật. Mặt khác, phải hướng
quần chúng loại bỏ cái giả, cái ác, cái sai, cái xấu để vươn tới cái lý tưởng - không
chỉ cho hơm nay, mà cịn để giáo dục con cháu mai sau. Mục tiêu, lý tưởng cao đẹp
nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của con người.
Ngoài ra, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân còn thể hiện ở sự phong
phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa. Nhiều thể loại, nhiều tác phẩm, nhiều món
ăn bổ ích khác nhau trên một cái nền sáng tạo không ngừng của văn nghệ sĩ.
Muốn giải quyết tốt những vấn đề nêu trên thì Đảng phải lãnh đạo mọi
hoạt động văn hóa và xây dựng văn hóa trong Đảng, để Đảng “là đạo đức, là văn
minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc.
d. Quan điểm về giữ gìn và tiếp thu văn hỏa
- Giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc
Cốt cách (bản sắc) là bản chất, tính chất đặc biệt vốn có. Cốt cách văn hóa dân
tộc là bản sắc của dân tộc, bao gồm những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử. Hệ giá trị của cốt
cách văn hóa Việt Nam là lòng u nước nồng nàn; ý chí tự cường, tự tơn dân tộc;
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn bó cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lịng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa cịn được nhìn nhận qua
hình thức biểu hiện đậm tính dân tộc, như tiếng nói, tâm lý, phong tục tập quán, cách
cảm nghĩ của dân tộc, các hình thức nghệ thuật - lễ hội truyền thống...
Cốt cách văn hóa dân tộc đóng vai trò to lởn trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước. Nó tạo nên sức manh chiến thắng mọi kẻ thù hung bao mà theo
cách nói của Giáo sư Trần Văn Giàu, đó chính là sức mạnh của “Linh đơn văn
hóa Việt Nam”. Sức mạnh văn hóa giúp con người khắc phục thiên tai, buộc
thiên nhiên phục vụ con người. Văn hóa Việt Nam thể hiện “cốt cách” con người
Việt Nam, nét “độc đáo”, “đặc trưng”, tính cách riêng của dân tộc. Bản sắc văn
hóa Việt Nam mà hàng đầu là chủ nghĩa yêu nuớc là ngọn nguồn đi tới văn hóa
tiến bộ.
9
Chúng ta có nhiệm vụ nặng nề nhưng vẻ vang đối với văn hóa dân tộc
Trước hết phải biết trân trọng, giữ gìn, khai thác, phát huy, phát triển những vốn
cũ q báu của cha ơng. Cịn cái gì khơng tốt thì phải loại dần ra. Đồng thời,
phải giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè thế giới, theo tinh thần có “vay” thì
phải có “trả”, góp phần làm phong phú văn hóa nhân loại. Cần nhận thức rằng
bản sắc văn hóa không phải “nhất thành bất biến”, mà nó có sự bổ sung, phát
triển. Trong thời đại mới, có những giá trị cũ khơng cịn phù hợp, nhưng lại có
những giá trị mới được hình thành, phát triển và dần chiếm ưu thế. Vì vậy, giữa
quý trọng, giữ gìn, khai thác, phát huy, phát triển có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Giữ gìn khơng phải là khư khư đóng cửa. Mà khai thác, phát huy, phát
triển cũng là một cách giữ gìn. Trong quá trình đó, phải biết tẩy trừ mọi di hại
thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại cũng là một cách để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Tiếp biến (tiếp nhận và biến đổi) văn hóa là một quy luật. Văn hóa Việt
Nam khơng nằm ngoài quy luật đó. Trong quá trình hình thành và phát triển, văn
hóa Việt Nam đã tiếp nhận và biến đổi những giá trị văn hóa Đông phương và
Tây phương. Nói đến văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng đó là văn hóa
Đông phương và Tây phương chung đúc lại. Người nhắc nhở phải mở rộng kiến
thức của mình về văn hóa thế giới.
Nội dung tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại theo quan điểm Hồ Chí
Minh là hết sức toàn diện. Trước hết là tiếp thu cả Đơng, Tây, kim, cổ, tìm mẫu
số chung của các nền văn hóa trên thế giới. Tính toàn diện còn thể hiện ở chỗ
tiếp thu nhiều mặt: học thuật tư tưởng như Khổng giáo, phật giáo, Thiên chúa
giáo, tư tưởng triết học thời Phục Hưng, Thế kỷ Ánh sáng, tư tưởng Găngđi,
Tôn Trung Sơn..., đặc biệt nhất là tư tưởng Mác-Lênin. Ngoài ra, còn tiếp
thu khoa học, văn học nghệ thuật, kiến trúc hội họa, danh nhân văn hóa.
Mục đích tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là trau dồi cho văn hóa Việt Nam
giàu đẹp hơn, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.
10
Tiêu chí tiếp thu văn hóa nhân loại là tiếp thu cái hay, cái tốt. Văn hóa dân
tộc và văn hóa nhân loại chứa đựng những giá trị văn hóa trường tồn và có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng chỉ trên cơ sở biết trân trọng, giữ gìn, phát
huy, phát triển văn hóa dân tộc, tức là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc thì mới
có thể “đi tới được cái nhân loại”.
đ, Quan điểm về văn hóa chính trị
Văn hóa bao trùm tất cả các mặt của đời sống, nên chúng ta có thể nói về
văn hóa theo các mặt riêng biệt của cuộc sống, trong đó, văn hóa chính trị giữ
vai trị quan trọng, thậm chí là lớn nhất trong các lĩnh vực văn hóa cụ thể.
Muốn hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị, trước hết phải hiểu
chính trị là gì? Chính trị khơng phải là triết học, khơng phải là quản lý; nhà chính trị
khơng phải là nhà quản lý. Mà chính trị trước hết là một hình thái ý thức xã hội. Thứ
hai là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, chính trị là một hoạt động đặc
biệt để giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn xã hội trong một quốc
gia và quốc tế (mà vấn đề cơ bản là giành và giữ chính quyền); để tập hợp các tổ
chức chính trị xã hội và của người dân vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Và
như vậy, quần chúng nhân dân như là một phạm trù của văn hóa chính trị.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mọi hoạt động văn hóa đều có tính chính trị,
ý nghĩa chính trị. Mặt khác, chính trị phải thấm sâu vào mọi hoạt động của văn
hóa. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, văn hóa khơng thể đứng ngoài mà phải đứng
trong kinh tế và chính trị. Điều này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Bởi vì, mọi hoạt động văn hóa đều gắn liền với đời sống thực tiễn kinh tế, chính
trị, xã hội. Không có thứ “văn học vị nghệ thuật”, chỉ có “văn học vị nhân sinh”.
Chẳng hạn kế sách diệt giặc dốt, giáo dục nhân dân thực hành cần kiệm liêm
chính, tự do tín ngưỡng, khơng hút thuốc phiện... vừa là hoạt động văn
hóa, vừa có ý nghĩa chính trị, đều vì hạnh phúc con người.
Chúng ta có thể nhận thức văn hóa chính trị là toàn bộ những thiết chế, cơ
chế và hành động chính trị, được nhìn nhận dưới góc độ văn hóa tạo nên những
hoạt động chính trị có văn hóa. Văn hóa chính trị khơng phải là bản thân chính
trị mà là chính trị có văn hóa, tức là chính trị tác động vào con người và xã hội
11
như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh đó không dựa vào quyền lực mà là hợp
chất lý và tình, tổng quát và đơn lẻ, dựa vào sự cảm hóa con người, thức tỉnh
lương tri, lay động tâm tư, tình cảm con người, từ thuyết phục đi tới chinh phục
và thu phục con người.
Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị chứa đựng nội dung phong
phú. Đó là văn hóa yêu nước, thương dân, tất cả vì độc lập, tự do, hạnh phúc của
con người. Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thể hiện bằng con đường nhân đạo để
đạt mục đích chính trị và vì thế, nó chứa đựng những giá trị nhân văn cao quý.
Đó là tính cơng khai, dân chủ, một nền văn hóa chính trị “sao cho được lòng
dân”. Điều này liên quan tới cả hệ thống chính trị và từng cán bộ, đảng viên như
là điều kiện để xây dựng văn hóa chính trị. ứng xử rất văn hóa với các đối tượng.
Đoàn kết rộng rãi các giai tầng, tôn trọng tôn giáo, tín ngưỡng. Đảng phải có gan
thừa nhận khuyết điểm, có tư duy phê phán sáng tạo, tiếp thu di sản tinh thần
của thời đại. Trình độ vận dụng phép biện chứng duy vật đề giải quyết các vấn
đề dân tộc và giai cấp, truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại...
Điều quan trọng là phải xây dựng văn hóa Đảng cầm quyền, chú trọng nền
tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Kiên định chủ nghĩa MácLênin, nhưng vận dụng sáng tạo, chứ không rập khuôn, giáo điêu. Đồng thời,
phải chống tư tưởng và hành động phản văn hóa, chống chủ nghĩa cơ hội, chống
những luận điệu thù địch bóp méo và xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin. Văn hóa
chính trị Hồ Chí Minh xác định mọi hoạt động chính trị ln đặt con người ở vị
trí trung tâm, do dân, vì dân.
e. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới
Nhìn một cách tổng quát, tính chất của nền văn hóa mới theo tư tương Hồ
Chí Minh la nen văn hóa dân chủ mới, kháng chiến và xã hội chủ nghĩa. Đó phải
là nền văn hóa “hợp với khoa học và nguyện vọng của dân”.
Trước Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền
văn hóa dân tộc với năm điểm lớn:
+ Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
+ Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
12
+ Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội.
+ Xây dựng chính trị: dân quyền.
+ Xây dựng kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chủ trương xây dựng nền văn
hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh chú trương xây dựng nền văn hóa mới hết sức toàn
diện, vừa kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo ra những nội dung mới, tiến bộ. Đó là nền
văn hóa dân tộc, khoa học, tiến bộ, nhân văn.
Nền văn hóa đó thể hiện đậm nét trên nhiều lĩnh vực, trong các hoạt động
về giáo dục, văn nghệ, xây dựng đời sống mới trong gia đình, cơng xưởng, đơn
vị bộ đội, cơ quan, trường học, hợp tác xã. Nền văn hóa mới với những giá trị về
lý tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, quan hệ giữa con người với con người...
thấm vào từng con người Việt Nam trong quá trình lao động sản xuất, học tập,
chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó mà khó khăn về đời sống vật
chất, ác liệt, hy sinh trong khói lửa chiến tranh khơng làm phai nhạt tình người.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều phong trào văn hóa tiếp nối
nhau mang hơi thở của dân tộc và thời đại, đem lại một xung lực tinh thần to lớn
trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là các phong trào xây dựng
“Đời sống mới” từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, phong trào “Thi đua yêu
nước” từ năm 1948, đến phong trào “Người tốt việc tốt” năm 1968; phong trào
“Hai tốt” (dạy tốt - học tốt). Từ trong các phong trào đó đã xuất hiện nhiều anh
hùng, chiến sĩ thi đua, người tốt việc tốt Đó là những bông hoa tươi thắm của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Nền văn hỏa Việt Nam, đạo lý dân tộc Việt Nam và những con người Việt
Nam có văn hóa đã đúc thành sức mạnh to lớn làm nên thắng lợi trong Cách
mạng Tháng Tám, huyền thoại trong hai cuộc kháng chiến chống những đế quốc
13
to và bước đầu tạo nên khuôn mặt mới của nền văn hóa Việt Nam thời đại Hồ
Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay?
* Phương hướng
Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội,
vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư,
vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời
sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đai hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
* Những quan điểm chỉ đạo cơ bản
Thứ nhất văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Không
gắn kết giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và cơng bằng xã hội thì khơng thể có
sự phát triển bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hóa không chỉ là kết quả của kinh tế mà còn là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Văn hóa theo nghĩa rộng chính là nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của sự phát triển.
Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
14
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người.
Bản sắc dân tộc bao gồm những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự tôn, tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý...
Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đáo như cách cảm, cách nghĩ của dân tộc, phong tục tập quán, lễ hội...
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc anh em có những sắc thái văn hóa riêng, có sự bình đẳng
và phát huy tính đa dạng, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam, củng cố sự
thống nhất dân tộc.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Cách mạng Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam là sự nghiệp
của mọi người Việt Nam. Cơng nhân, nơng dân, trí thức là nền tảng của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức với vai trị, chức năng của mình
giữ vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đỏi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng
tạo những giá trị văn hóa mới, làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc
dân, tạo dựng một xã hội văn hóa, không thể một sớm một chiều mà là
một quá trình cách mạng lâu dài, nhiều khó khăn, gian khổ.
Cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa phải thể hiện tính chiến đấu,
găn bó chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; lấy “xây” là chính. Xây dựng,
biểu dương những cái tốt, chống lại mọi thói hư, tật xấu, giặc nội xâm.
15
Trên cơ sở phương hướng chung, 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản và 10
nhiệm vụ cụ thể được nêu lên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII (7-1998), Trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, trong phần VII Đại hội đã đề ra phương
hướng, nhiệm vụ “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người”2. Đến Đại hội XIII
của Đảng, Báo cáo chính trị tại phần VII đã nhấn mạnh nhiệm vụ “Xây dựng và
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”3. với tinh thần chung
là “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Cụ thể là:
- “Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình,
từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các
giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài
người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa
trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”4.
- Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
- Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong
kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên - chống những
hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.
- Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn
hóa lành mạnh.
- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thơng tin, báo chí,
phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách.
- Mở rộng giao lưu văn hóa, thông tin với thế giới.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2016, tr. 123.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, tr. 143
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện, Đại hội Đại biểu loàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc gia, H 2006,
tr.213.
16
Tóm lại, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng con
người mới cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa sâu xa trong đoạn viết sau đây của
Phạm Văn Đồng: “Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây
là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói
cho cùng là di sản văn hóa mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu”. Chúng ta
cũng cần khắc sâu lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thế giới đã và sẽ còn đổi
thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân
loại”. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu một di sản văn hóa không
phải chỉ của quá khứ và hiện tại mà là một nền văn hóa của tương lai. Hồ Chí Minh
là “con người kỳ diệu cho mọi thời đại”, là “nhân vật trở nên huyền thoại ngay khi
còn sống”, là “Người chiếu sáng”, v.v... Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân
loại một tầm vóc, trí tuệ, bản lĩnh và minh triết về văn hóa theo tinh thần của
UNESCO: “Xét đến cùng, sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát
triển”.
17
Câu 2: Phân tích nguyên tắc xây dựng đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh: “Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức”. Vận dụng nguyên
tắc trên trong việc tu dưỡng đạo đức của bản thân?
Phân tích nguyên tắc xây dựng đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
“Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức”?
Trong lịch sử ta thấy có nhiều triết lý tách rời khỏi hành động, nói không
đi đôi với làm, lý luận xa rời cuộc sống. Triết lý không gắn với hành động là
triết lý để mà triết lý, triết lý tư biện, kinh viện, sách vở, xa rời, tách rời cuộc
sống, chẳng hạn như triết lý của một số nhà tư tưởng Tây - Âu thời trung cổ
nhằm phục vụ cho mục đích của thần học và tơn giáo, triết lý tư biện theo kiểu
trò chơi của những khái niệm (chơi chữ), triết lý của một số nhà không tưởng...
Học thuyết của họ đẹp thì có đẹp, hay thì có hay, nhưng không gắn với hoạt
động, hành động thực tiễn mà đơi khi chúng trở thành trị chơi của lý trí, trí tuệ
thuần tuý.
Khác với những thứ ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới đã
về với cõi vĩnh hằng hơn 50 năm. Người ra đi, nhưng đã để lại cho toàn Đảng,
toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn - đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng mà ở
đó triết lý và hành động gắn liền mật thiết, chặt chẽ với nhau, triết lý hướng đến
hành động, hành động nói lên triết lý, trong triết lý đã bao hàm xu thế hành động,
trong hành động có triết lý, triết lý và hành động xoắn xít với nhau tạo nên triết lý
hành động Hồ Chí Minh mà không phải vĩ nhân nào cũng có được.
“Chẳng cao cũng chẳng xa
Không đế cũng không vương
Một phiến đá nho nhỏ
Đứng sừng sững bên đường”
Là một phiến đá hay cũng là hình ảnh một con người anh hùng vơ danh?
Chẳng cao cũng chẳng xa - người anh hùng ấy không tự vỗ ngực coi mình là kẻ
phi thường mà ln ln coi là bình thường,như mọi người khác. Người ấy
18
không đứng trên đầu quần chúng, không “xưng đế xưng vương” mà ngược lại tự
coi mình là đầy tớ phục vụ quần chúng. Đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Tơi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Ham muốn ấy của Bác là hạt nhân của một nền đạo đức mới,đạo đức
cách mạng.Đạo đức cách mạng của Bác là đạo đức của người cộng sản chân
chính, trong đó lẽ sống cơ bản là vì cách mạng,vì nhân dân. Chính vì vậy mà ở
Bác vĩ đại đã nhuần nhuyễn và quyện chặt với cuộc sống bình thản, ung dung
hàng ngày với sự ham muốn tột bậc của Bác, nó giản dị, mộc mạc như cuộc đời
giản dị và mộc mạc của Bác, nhưng nó lại vô cùng vĩ đại trong cái vĩ đại vô hạn
của Bác. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân sáng rực, cao đẹp, hoàn thiện
nhất của đạo đức cách mạng.
Trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một đạo đức và trong đạo
đức của Người có sự kết hợp, sự thống nhất, sự tác động, ảnh hưởng liền nhau
giữa tính giai cấp, tính thời đại, tính dân tộc và tính truyền thống:
Nói cách khác, đạo đức cách mạng với ý nghĩa đầy đủ và cao quý nhất,
kết tinh của chân, thiện, mĩ, tinh hoa của nhân, trí, dũng, tỏa ra từ trong cuộc đời
trong sáng như pha lê và sự nghiệp quang vinh nghìn thu chói lọi của Bác Hồ,
người con vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam.
Để xây dựng một nền đạo đức mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như
cho việc rèn luyện của mỗi người. Đối với đội ngũ cán bộ đảng viên việc nắm
vững các nguyên tắc về xây dựng đạo đức mới là cơ sở cần thiết để nâng cao
chất lượng giáo dục, rèn luyện và tự giáo dục, tự rèn luyện đọa đức cách mạng
theo phương pháp Hồ Chí Minh.
Một trong những nguyên tắc quan trọng trong xây dựng đạo đức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh “Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức”.
Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản thân
Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn nữa,
19
chúng ta cịn thấy Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức
Người làm mà không nói. Từ đó, Người yêu cầu “nói thì phải làm” chứ không
thể nói mà không làm, hoặc “nói một đường làm một nẻo, làm mất uy tín của
Đảng”, quần chúng khơng tin theo.
Nói đi đôi với làm, gắn liền với nêu gương. Trong lĩnh vực đạo đức, nêu
gương có sức cảm hoá to lớn đối với người khác và tập thể. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước”. Vì vậy, Người đã nêu một tấm gương tiêu biểu về đạo
đức cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân noi theo.
Vận dụng nguyên tắc trên trong việc tu dưỡng đạo đức của bản thân?
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bên cạnh những thành tựu về kinh tế
- xã hội mà nước ta đạt được sau hơn ba mươi năm đổi mới, mặt trái của cơ chế
thị trường cũng tác động không nhỏ tới phẩm chất đạo đức và lối sống đội ngũ
cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Những vụ tham nhũng,
hối lộ, gây lãng phí… đã trở thành quốc nạn và là vấn đề nổi cộm gây bức xúc
trong dư luận. Những vị quan tham đó đã lợi dụng những kẽ hở của cơ chế kinh
tế, những sơ hở của Nhà nước và lòng tin của nhân dân để bán rẻ lương tâm,
nuôi béo con sâu cá nhân chủ nghĩa. Trong văn kiện Đại hội Đảng XIII cũng đã
phải nhận định: “Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một
bộ phận mà không nhỏ cán bộ đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi… làm giảm lịng tin của nhân dân với Đảng. Đó là một
nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng,của chế độ”. Vì vậy mỗi người
trong chúng ta, dù trên bất kỳ cương vị nào (kể cả sinh viên đang ngồi trên ghế
nhà trường) phải luôn quán triệt rằng phải thực hành tiết kiệm và chống tham ơ,
lãng phí. Phải luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác: “Đạo đức cách mạng khơng
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
20
trong. Có gì sung sướng hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng lồi người”.
Thiết nghĩ mỗi chúng ta cần phải hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Một lần nữa để khẳng định sức
sống trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tơi xin được trích lời của bà
Gi.Xtenxơn - nhà sử học Mĩ - tại Đại hội đồng Unesco: “Hồ Chí Minh là nhân
cách của thời đại… Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào về Hồ Chí Minh, nền cách
mạng Việt Nam của thế kỉ XX này tự hào có một vĩ nhân được cả thế giới phong
tặng anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh mãi mãi là
tấm gương sáng về nhân cách của một con người cho mọi thế hệ sau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hội tụ những nét tinh anh khơng chỉ của người Việt
Nam ta mà của con người mọi phương trời, mọi thời đại: quên mình vì nghĩa cả,
tận tụy với cộng đồng, yêu nước đậm đà, anh hùng cách mạng, nhân văn cao cả,
kính già yêu trẻ, quan tâm đến những kẻ yếu hèn, đặt lợi chung trên lợi riêng...,
siêu việt về trí tuệ và bình dị trong sinh hoạt, thông minh cần mẫn trong lao
động, dũng cảm kiên cường khi chiến đấu và uyển chuyển nhuần nhị lúc xử thế
đối nhân... Đó là những phẩm chất đặc biệt của Người mà ngày nay chúng ta có
thể học tập và làm theo.
Chính vì vậy, mọi lứa tuổi trẻ cũng như già, mọi lớp người vùng xuôi hay
miền ngược, mọi giai tầng từ bậc trí thức lỗi lạc đến dân cày cuốc bình thường, mọi
thành viên thuộc sắc tộc, niềm tin, tôn giáo khác nhau... bất kỳ ai cũng có thể tìm
thấy ở Hồ Chí Minh tấm gương cho mình suốt đời học tập, làm theo.
Vận dụng nguyên tắc trên trong việc tu dưỡng đạo đức của bản thân cần
phải kiên trì, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời.
Đạo đức cách mạng không phải là sản phẩm tự nhiên, sẵn có, mà nó là sản
phẩm của hoạt động tự giác thông qua giáo dục, rèn luyện bền bỉ của mỗi tổ
chức, cá nhân và toàn xã hội. Hồ Chí Minh ln nhắc nhở mỗi chúng ta phải ra
sức học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Người nói: “Đạo đức cách
mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
21
luyện càng trong”. Người chỉ rõ, đã là con người thì ai cũng có ưu điểm và
khuyết điểm; có thiện có ác, có tốt có xấu; vấn đề là phải kiên trì phát huy ưu
điểm, sửa chữa khuyết điểm để tiến bộ không ngừng, hoàn thiện đạo đức.
Người dạy: “Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì
khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán bộ ngày
càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng phát triển”. Người
cịn căn dặn, khơng bao giờ được thỏa mãn, dừng lại, bằng lịng với những cống
hiến, thành tích đã đạt được, cầu an hưởng lạc là thoái bộ. Cái đó không chỉ đúng
với mỗi cá nhân mà nó còn đúng với cả một Đảng, một dân tộc.
Vận dụng nguyên tắc trên mỗi sinh viên cần không ngừng học tập, trau
dồi kiến thức chuyên ngành, liên ngành. Trong thời đại ngày nay phải không
ngừng học tập các kỹ năng để có thể đáp ứng yêu cầu công việc trong thời đại
cách mạng 4.0. Bên cạnh đó cần rèn luyện về đạo đức, đấu tranh với mọi biểu
hiện tiêu cực trong quá trình học tập. Tích cực tham gia cơng tác xã hội để mang
sức trẻ, lòng nhiệt huyết của đoàn viên thanh niên cống hiến cho xã hội bằng
những việc làm thiết thực, tránh hiện tượng bàng quan, thờ ơ về chính trị, chỉ
biết nói lời hay mà khơng biết làm.
22