MỞ ĐẦU
Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, ngang tầm với sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động vững bước vào q trình hội
nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị cũng như mỗi người
cơng nhân.
Nhưng thực trạng của giai cấp công nhân hiện nay cho thấy rằng nếu
khơng có sự cải cách, thúc đẩy để phát triển thì giai cấp cơng nhân Việt Nam
vẫn chỉ là những con người nghèo khổ về kinh tế cũng như nghèo nàng về
kiến thức và chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ trở thành một điều quá xa xôi. Sẽ
khơng có xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh ở nơi nào nếu dân trí bị coi
thường, sẽ khơng có dân giàu, nước mạnh nếu nhà quản lý và những người
trực tiếp xây dựng đất nước lại thiếu tinh thần trách nhiệm, lịng nhiệt huyết
cách mạng và sự đồn kết giữa những người cộng sản.
Bài tiểu luận sẽ nêu lên một số thực trạng bề nổi của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay và một số phương pháp thúc đẩy, phát triển để đưa giai
cấp cơng nhân thích nghi với sự thay đổi và chiến thắng khó khăn để đưa đất
nước tiến lên, hoàn thành mục tiêu trước mắt là nước công nghiệp hiện đại
vào năm 2020.
NỘI DUNG
I) Cơ sở lý luận:
1)Định nghĩa:
Giai cấp công nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với q trình phát triển của nên cơng nghiệp hiện đại với nhịp độ
phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực
lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình cơng nghệ, dịch vụ cơng
nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
1
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất
và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
- Thực tiễn và truyền thống cách mạng Việt nam cho thấy giai cấp cơng
nhân trong mọi hồn cảnh và đặc biệt, trong những thời điểm bước ngoặt của
lịch sử luôn là cơ sở quan trọng nhất của Đảng, là nguồn lực bổ sung sinh lực
cho Đảng. Nhìn vào sự phát triển giai cấp cơng nhân ở nước ta có thể thấy
hiện trạng, xu hướng và triển vọng về sự phát triển chung của Đảng, của dân
tộc và xã hội với những khả năng, năng lực, tiềm lực của nó. Quan tâm, xây
dựng và phát triển giai cấp công nhân, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay là
nhiệm vụ sống còn của sự nghiệp cách mạng .
2)Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân:
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với
trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế,
phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp cơng
nhân có vai trị quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã hội.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp
cơng nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và
làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản
đó). Do vậy, giai cấp cơng nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
Là “giai cấp dân tộc” - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu
trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác-Lênin phản
ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân , đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt
q trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình nhằm giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp cơng nhân ở Đảng tiên phong
của mình là Đảng Cộng Sản (Đảng Mác-Lênin).
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó,
đều có những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân
mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách rời giai cấp công nhân trên toàn
2
thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm đúng đắn về sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới cùa giai cấp cơng nhân.
Từ những đặc điểm vốn có đó, giai cấp cơng nhân mới có ba tính chất cơ
bản là:
- Tính tổ chức, kỷ luật cao.
- Tính tiên phong (về phương thức sản xuất, về tư tưởng, về Đảng của
nó).
- Tính triệt để cách mạng.
3) Cơng nhân Việt Nam:
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp. Sinh ra trong lịng một dân tộc có truyền thống
đấu tranh chống ngoại xâm, trong điều kiện đất nước bị kẻ thù xâm lược,
khiến cho ý chí và động cơ cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được
nâng lên gấp bội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
công nhân Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, liên minh đồn kết chặt chẽ với nơng dân, trí thức và các tầng lớp nhân
dân lao động yêu nước làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu và Đại thắng Mùa Xuân
năm 1975, giành thống nhất, độc lập cho Tổ quốc, tự do hịa bình cho Dân
tộc. Đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Chỉ có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
ln ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân.
Ngay từ khi ra đời, giai cấp công nhân nước ta đã anh dũng, kiên cường
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Phong trào đấu tranh của công nhân từng
bước trưởng thành, phát triển từ tự phát đến tự giác và không ngừng lớn
mạnh. Sự ra đời của Cơng đồn Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
nhất của giai cấp công nhân Việt Nam - là kết quả tất yếu của q trình phát
triển phong trào cơng nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện lý
luận, tư tưởng, chính trị, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
3
Đại đa số xuất thân từ nông dân nghèo ra đô thị, vào các đồn điền, xưởng
máy nhỏ… làm thuê cho chủ tư sản xâm lược.
Chủ yếu sống bằng sức lao động, nguồn thu nhập chính là tiền cơng và
cũng có thể có cổ phần hay cổ phiếu.
Khi ra đời với trình độ khoa học kĩ thuật, tay nghề và mức sống cịn
thấp, vì Việt Nam lúc đó chưa có nền công nghiệp hiện đại; chịu ảnh hưởng
nặng nề của sản xuất nhỏ, tiểu nơng.
Có truyền thống lao động cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết
với dân tộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lao động.
Sớm được giác ngộ cách mạng và thành lập Đảng tiên phong do Hồ Chí
Minh - Người đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và Đông Dương - sáng
lập và rèn luyện. Giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cáhc
mạng Việt Nam từ khi có Đảng của nó. Hơn 70 năm qua, giai cấp cơng nhân
và nhân dân Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi to lớn trong cách mạng
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc sống đổi mới hiện nay, tuy đã có nhiều thành tựu to lớn, song
giai cấp cơng nhân Việt Nam vẫn cịn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là về trình
độ văn hóa cơ bản, khoa học cơng nghệ và tay nghề; giác ngộ chính trị và
mức sống tuy có khá hơn sau những năm dổi mới có kết quả, nhưng nhìn
chung cũng cịn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II) Đánh giá thực trạng công nhân Việt Nam
1)Một vài nhận xét về công nhân Việt Nam hiện nay:
Xét về cơ cấu trình độ học vấn và chun mơn: giai cấp cơng nhân
nước ta gồm: nhóm những người lao động có tính cơng nghiệp (chân tay, thủ
cơng), tại các cơng trường xây dựng, các doanh nghiệp, nông, lâm trường và
tại các hộ tiểu chủ sản xuất hàng hóa; nhóm cơng nhân cơng nghiệp cơ khí,
nhất là trong các ngành cơng nghiệp nặng; nhóm cơng nhân cơng nghiệp tự
4
động hóa hay lao động cơng nghệ cao, lao động trí thức tại các doanh nghiệp
được trang bị dây truyền tự động hóa và tại các doanh nghiệp điện tử - tin
học, nhất là tại các khu công nghệ cao.
Xét về cơ cấu thành phần kinh tế: giai cấp những người lao động cơng
nghiệp và có tính cơng nghiệp, lao động tại tất cả các thành phần kinh tế và
gồm các nhóm: cơng nhân trong các doanh nghiệp quốc doanh; công nhân
trong các doanh nghiệp cổ phần; công nhân ở các nơng - lâm trường nhận đất
khốn; cơng nhân đồng thời là chủ kinh tế cá thể, tiểu chủ trực tiếp sản xuất
hàng hóa; cơng nhân làm th tại khu vực dân doanh và có vốn đầu tư nước
ngồi. Trong thời kỳ đổi mới, số lượng cơng nhân ngồi quốc doanh tăng
mạnh, cịn số lượng cơng nhân khu vực quốc doanh lại giảm.
Về tư tưởng, ý thức giai cấp: qua khảo sát tình hình cơng nhân tại Hà
Nội, phần lớn cơng nhân có nhận thức rằng, hiện nay trong xã hội có nhiều
giai cấp, tầng lớp xã hội, nhưng giai cấp cơng nhân có vai trị to lớn trong sản
xuất công nghiệp. Trong những năm qua, với sự cố gắng của Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam, trên cả nước có hơn 6,0 triệu cơng nhân được học tập 5
bài giáo dục chính trị cơ bản. Vì thế sự hiểu biết của một bộ phận công nhân
về chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được nâng lên một bước. Theo số liệu điều tra
trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội, có 23,1% cơng nhân được hỏi tự
nhận là đã hiểu rõ về chủ nghĩa Mác-Lênin; 71,3% chỉ hiểu khái quát và 5,6%
chưa hiểu rõ. Mức độ hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh cũng khá cao. Số cơng nhân
tại các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội được hỏi, tự nhận hiểu rõ là 35,4%;
chỉ hiểu khái quát là 59,5%; chưa hiểu rõ là 5,1%. Những số liệu đó chứng tỏ
ý thức chính trị của cơng nhân đã được bồi dưỡng và nâng cao một bước. Tuy
nhiên, ý thức giai cấp công nhân của công nhân ở Hà Nội và một số nơi khác
lại khơng cao. Chẳng hạn, khi tìm hiểu cơng nhân về việc có ý định hướng
nghiệp cho con theo nghề của mình khơng đã cho kết quả như sau: trên tồn
quốc 45,1% trả lời có; 54,9% trả lời không. Các tỷ lệ tương ứng ở Hà Nội là
40% và 60%; ở thành phố Hồ Chí Minh là 44,5% và 55,5%; ở Kiên Giang là
5
46,8% và 53,2%. Tỷ lệ trả lời không muốn cho con theo nghề của mình là rất
cao, nhất là ở Hà Nội. Kết quả này cho thấy ý thức tự hào giai cấp của đa số
cơng nhân đang cịn những hạn chế nhất định, mặc dù ý thức chính trị đã
được nâng cao một bước.
Trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với đơ thị hóa đã thúc đẩy q trình tập trung cơng nhân tại các khu công
nghiệp và đô thị. Việc tập trung cơng nhân, một mặt, sẽ thúc đẩy nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật; mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi để bồi
dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp. Tuy thế, quá trình này diễn
biến khơng đơn giản do nhiều ngun nhân như: trình độ sản xuất cơng
nghiệp, trình độ học vấn của cơng nhân nhập cư, mức độ điều tiết quan hệ chủ
- thợ theo pháp luật, v.v..
Mức độ tập trung công nhân như vậy là khơng nhỏ. Song do trình độ sản
xuất cơng nghiệp của nước ta chưa cao, nên việc tập trung công nhân chủ yếu
theo các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động với trình độ chun mơn
kỹ thuật thấp (dệt, may, da giày...), trình độ học vấn khơng cao, về khách
quan, đặt ra khơng ít vấn đề phức tạp trong việc bồi dưỡng, nâng cao ý thức
chính trị, ý thức giai cấp.
Sự phát triển của các cuộc đình cơng của công nhân, đặc biệt tại vùng
Đông Nam Bộ, trong những năm gần đây cho thấy, việc công nhân tự khởi
xướng, tổ chức các cuộc đình cơng phản ánh ý thức về lợi ích kinh tế đã rất rõ
nét. Đây là dấu hiệu cơ bản để phát triển ý thức chính trị, ý thức giai cấp của
những người lao động công nghiệp vốn xuất thân từ nhiều giai tầng xã hội
khác nhau, chủ yếu là nơng dân. Các cuộc đình công của công nhân cũng đặt
ra yêu cầu phân định rõ nội hàm của khái niệm giai cấp công nhân, để có định
hướng chính sách phù hợp đối với lực lượng sản xuất hàng đầu này của xã
hội.
2)Chân dung về cuộc sống hiện nay của công nhân:
6
Chất lượng cuộc sống của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đang là
một vấn đề đau đầu của các nhà quản lý. Người công nhân thường sống tập
trung quanh các khu nhà trọ tồi tàn quanh khu công nghiệp. Mặc dù đã có một
số khu cơng nghiệp xây chung cho công nhân nhưng xem ra cũng chẳng đáp
ứng được bao nhiêu nhu cầu cho công nhân, chưa kể là những cơng trình kém
chất lượng, bị rút ruột… Có an cư thì mới lạc nghiệp, xem ra cơng nhân vẫn
không thể an cư được.
Chỗ ở là một, kế đến là vật chất, thức ăn mà công nhân ăn hàng ngày.
Chúng ta vẫn thường thấy trên báo chí nhan nhản những tin công nhân bị ngộ
độc thức ăn tập thể hoặc chất lượng bữa ăn quá thấp so với thị trường ngày
nay. Ở nơi làm việc là vậy, khi tan ca, họ tụ tập ở những khu chợ tự phát trước
các khu công nghiệp mua những thức ăn đã ương và khơng cịn tươi… Liệu
những thứ đó có đảm bảo sức khỏe để họ làm việc lâu dài? Chắc chắn là
không và chúng ta thấy hầu hết công nhân ở các khu cơng nghiệp đều có thể
trạng cịi cọc, ốm yếu… Với thể trạng như vậy thì khơng ai đảm bảo rằng họ
sẽ có năng suất làm việc cao.
Sự đảm bảo an tồn cho cơng nhân vẫn khơng được chú ý, rất nhiều
những vụ hành hung công nhân mà ta đã thấy, những kẻ ấy vào tận xưởng làm
mà hành hung! Vậy bảo vệ của xí nghiệp ở đâu? An ninh tại các khu nhà trọ
của cơng nhân cịn tệ hại hơn, dường như chính quyền địa phương đang bỏ rơi
theo kiểu “sống chết mặc bay” của người công nhân – giai cấp lãnh đạo cách
mạng?
Có khi cơng nhân cịn bị giới chủ, đặc biệt là những tên chủ người nước
ngồi thường hay có hành động hành hạ thân xác đối với người cơng nhân thế
nhưng cơng đồn, cơng an, chính quyền dường như chẳng hay ho gì việc này!
Khiến những người công nhân sống như những “nô lệ” của thế kỷ 21 mà đáng
lẽ ra họ lại là giai cấp lãnh đạo đất nước!
Ăn khơng đủ no thì làm sao mà cịn có thể nghĩ đến những chuyện to lớn
hơn, đặc biệt trong thời đại hiện nay, đồng tiền dường như là thứ mà người ta
7
bất chấp để đổi lấy. Với những đồng lương rẻ mạc được trả thì liệu người
cơng nhân có thể sống đủ? Không! Chắc chắn là vậy và họ suốt ngày chỉ lo
làm sao cho qua ngày là ổn rồi chứ khơng cần phải lo lắng gì thêm, vậy khi
nào mới giác ngộ được lý tưởng cách mạng, sứ mệnh lịch sử của bản thân
công nhân?
Cuộc sống của những người công nhân chẳng khác nào những cổ máy,
sáng làm việc cho đến chiều tan ca. Ai có gia đình thì về nhà nấu cơm, ăn cơm
rồi coi ti vi và ngủ rồi đến sáng lại bắt đầu một chu trình mới khép kín hồn
tồn. Cịn những ai chưa có gia đình thì sau khi tan ca lại tụm năm tụi bảy
hoặc cà-phê, hoặc nhậu nhẹt… và có khi để xảy ra những chuyện đáng tiếc vì
“nhàn cư vi bất thiện”. Mặc dù thời gian rảnh rỗi đáng lẽ họ phải tranh thủ rèn
luyện chính trị để vươn lên làm chủ cuộc sống nhưng ai sẽ là người “đồng
chí” sẵn sàng sát cánh ủng hộ và chiến đấu cùng những người công nhân khốn
khổ ấy?
Chưa kể hàng năm vào các dịp lễ tết thì họ lại kéo nhau về quê vui cùng
gia đình gây một sự xáo trộn trong xã hội, những chiếc vé mà họ mua đắt hơn
ngày thường trong khi với số tiền đó có lẽ họ đã làm cuộc sống tốt hơn. Tiền
tàu xe vơ tình đã “hút” đi thu nhập của họ mà chưa kể khi đi tàu xe họ còn bị
đối xử như thế nào. Vào những quán cơm tù, bị nhồi nhét ghế, gặp tai nạn…
Tất cả điều đó đang xảy ra trước mắt họ nhưng họ khơng có cách nào khác để
giải quyết hay tại chúng ta không giúp họ?
3)Những vấn đề nảy sinh mâu thuẫn trong thực tế của lực lượng
công nhân hiện nay( trích tại hội thảo’’xây dựng và phát triển giai cấp CN chính là
xây dựng cơ sở đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng’’ ngày 10/12/2007 tại Quảng Ninh)
- Một bộ phận công nhân mà chủ yếu là lực lượng công nhân mới
(những học sinh mới rời trường phổ thông, con em nông dân và các tầng lớp
nhân dân khác mới tham gia vào đội ngũ cơng nhân), cịn hạn chế về nhận
8
thức, nhất là nhận thức về chính trị, xã hội, về trách nhiệm cơng dân, lịng u
nước, tự hào, tự tôn dân tộc, về ý thức trách nhiệm và kỷ luật lao động.
- Một số lượng rất lớn công nhân hiện nay ít được đào tạo về tay nghề
nên chỉ làm được những cơng việc giản đơn, khơng địi hỏi tính sáng tạo,
cùng với đó là tính chun nghiệp, ý thức tự giác, kỷ luật còn thấp. Theo số
liệu điều tra về trình độ học vấn, tay nghề của cơng nhân hiện nay, có đến gần
3% số người lao động chưa biết chữ; 12% chưa tốt nghiệp tiểu học; 74% chưa
qua đào tạo nghề một cách chuyên nghiệp...
- Đời sống văn hóa tinh thần của cơng nhân chưa cao, một bộ phận đáng
kể có tâm lý quá coi trọng vật chất, tiền bạc, coi nhẹ những giá trị khác…
- Quyền sở hữu của người lao động, đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hóa chưa được coi trọng và bảo vệ thích đáng. Cùng với đó
là việc làm và quyền làm việc của một bộ phận công nhân chưa được bảo
đảm.
- Một bộ phận công nhân, nhất là công nhân ở các khu công nghiệp, khu
chế xuất không được bảo đảm về điều kiện làm việc; tiền lương thấp, không
đủ bảo đảm đời sống vật chất và tái sản xuất sức lao động; gần một nửa số
công nhân chưa được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; đời sống văn hóa
tinh thần của cơng nhân nói chung chưa được cải thiện đáng kể; nhiều cơng
nhân các khu cơng nghiệp mới cịn phải sống tạm bợ, chật chội trong các
phịng trọ, khơng bảo đảm các tiện nghi tối thiểu, khơng có các đảm bảo về
chăm sóc y tế giáo dục cho con cái... Tình trạng đình cơng, bãi cơng ngày
càng tăng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để, gây ra những ảnh hưởng tiêu
cự về dư luận xã hội và trật tự trị an nói chung
4)Những vấn đề cần làm rõ
9
- Cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định vị thế của giai cấp công nhân
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. ra các giải
pháp đáp ứng các nhu cầu đó, tiến tới cải thiện căn bản đời sống cho công
nhân.
- Những vấn đề cần quan tâm, giải quyết nhằm bảo đảm lợi ích của
những người cơng nhân hiện nay, như: quyền làm chủ, điều kiện làm việc và
đó các lợi ích khác, đặc biệt là trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa.
- Những yêu cầu mới đối với giai cấp cơng nhân trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Tổng kết thực tiễn, đánh giá một cách tồn diện và khách quan về tình
hình đời sống, điều kiện ăn ở, việc làm của công nhân, đặc biệt là các vùng
mỏ, từ đưa
- Vấn đề quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ công nhân có
ý thức chính trị cao, có kỷ luật, có văn hóa và trình độ chun mơn nghiệp vụ
vững vàng, để xứng với vị thế tiên phong của mình, đáp ứng nhu cầu phong
phú và ngày càng cao về chuyên môn kỹ thuật của lực lượng công nhân hiện
đại.
- Về vai trò và phương thức lãnh đạo, quản lý của Đảng, của Cơng đồn
cũng như của các tổ chức chính trị - xã hội đối với việc phát triển giai cấp
công nhân trong điều kiện mới.
- Các giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa các ngành và vùng,
giữa các địa phương với nhau trong sự nghiệp xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân Việt Nam trong bối cảnh mới.
10
- Phát hiện và thảo luận để làm rõ những vấn đề đang đặt ra trong thực
tiễn nhằm góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, trí
tuệ, hồn thành trọng trách của mình trong q trình hội nhập ngày càng sâu
rộng vào kinh tế thế giới.
Công nhân Việt Nam hiện nay với thành phần xuất thân là phần lớn là
những lao động phổ thông từ nông thôn lên thành thị mà chưa qua đào tạo
một cách bài bản để trở thành một người công nhân theo đúng nghĩa của nó.
Do thiếu kiến thức về xã hội cũng như về giáo dục nên họ bị chén ép, lừa đảo,
hiệu quả lao động không cao… Tất cả đều do khơng có trình độ học vấn mà
ra. Ở chính quyền địa phương, nơi họ sinh sống đáng ra là nởi phải tạo cho họ
việc làm hoặc một lượng kiến thức đủ lớn để họ có thể tự kiếm sống nhưng
thực tế thì đi ngược lại. Mà ở nơng thơn thì dường như rất ít việc để làm, do
đó họ di dân vào thành phố để làm công nhân với hy vọng sẽ thay đổi cuộc
sống hiện tại, nghĩa là sẽ đủ ăn hơn chứ khơng đói như ở q nhà nhưng trớ
trêu thay hiện nay lại có tình trạng người ta từ thành thị quay trở lại nơng thơn
vì… ở thành thị cịn khó sống hơn!
Cơng đồn là nơi mà cơng nhân được bảo vệ lợi ích, là vũ khí của giai
cấp cơng nhân chống lại sự bóc lột, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho công
nhân, vậy họ đã ở đâu khi công nhân đang cần họ? Hiện nay có cả những
cơng ty, xí nghiệp mà cơng đồn cịn chưa được thành lập gây nên bức xúc
chung cho mọi người. Vậy cịn những nơi có cơng đồn, họ làm gì để bảo vệ
cơng nhân? Được tiếng là vậy nhưng mấy nơi dám đứng ra đảm bảo quyền lợi
của cơng, vì họ cũng chỉ là “ăn cơm chúa, múa tối ngày”. Đó là một sự thật
trớ trêu mà ta chưa có cách giải quyết, cũng khơng ít nơi cơng đồn a dua theo
giới chủ chèn ép cơng nhân, họ ăn chặn tiền trợ cấp công nhân, họ không tạo
điều kiện cho cơng nhân vui chơi giải trí, họ khơng bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng cho cơng nhân… Đó là một sự thật đáng buồn cho các cơng đồn
cơng nhân hiện nay.
11
Chính quyền địa phương và những người Đảng viên Cộng Sản, đại biểu
trung thành của giai cấp cơng nhân thì sao? Chính quyền địa phương khơng
quan tâm nhiều đến cơng nhân, đó là thực trạng chung vì có được mấy nơi mà
chính quyền phường, xã quan tâm sâu sát đến quần chúng nói chung và cơng
nhân nói riêng. Cịn những người Đảng viên, họ đáng ra phải là những người
đồng cam cộng khổ với cơng nhân thì lại quay đi làm ngơ trước thực trạng
hiện tại. Đạo đức cách mạng của những nhà quản lý cịn thế thì làm sao những
người công nhân không được may mắn học hành đầy đủ có thể giác ngộ được
sứ mệnh lịch sử của mình? Chính quyền đã làm mất niềm tin của cơng nhân
nói riêng và người dân nói chung khi đã quá thờ ơ với những khó khăn mà
cơng nhân đang phải gánh chịu.
Giữa những người công nhân với nhau cũng không có tiếng nói chung,
sự đồn kết của họ khơng thể trở thành một sự đại đồn kết được nếu chính
quyền không tạo điều kiện cho họ giao lưu với nhau và có cuộc sống tinh thần
tốt hơn. Họ đến từ khắp mọi nơi và có thể bất đồng về văn hóa, tơn giáo…
nhưng khơng ai chỉ cho họ cách dung hịa các văn hóa đó, xóa bỏ cái riêng và
tìm đến cái chung để cùng nhau vui sống. Tất cả điều đó họ phải tự tìm kiếm,
tìm kiếm được thì khơng nói làm gì nhưng với những người có trình độ thấp
thì có lẽ họ sẽ rất khó khăn để tìm ra. Mà khi đã bất đồng về văn hóa, phong
tục hoặc tơn giáo thì đó sẽ là mối nguy ảnh hưởng đến tình đồn kết của cơng
nhân trong khu cơng nghiệp nói riêng cũng như sự đồn kết dân tộc nói
chung.
Tóm lại, trước u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, giai cấp cơng nhân Việt Nam bộc lộ những bất cập như: trình độ học
vấn, chuyên môn nghề nghiệp thấp so với yêu cầu và mất cân đối nghiêm
trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận cơng nhâ ; lịng say mê
nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong cơng nghiệp cịn yếu; một bộ
phận cơng nhân bị tha hóa về thái độ lao động, phẩm chất giai cấp và lối sống.
12
Hoạt động cơng đồn trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng gặp nhiều
khó khăn, hạn chế; cơng tác tuyên truyền, giáo dục trong công nhân, người
lao động chậm được đổi mới nên hiệu quả chưa cao; Cơng đồn chưa ngang
tầm với vị trí, vai trị của mình trong việc góp phần giải quyết những vấn đề
chiến lược kinh tế - xã hội; một số chính sách, pháp luật của Nhà Nước có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động còn bị vi phạm nghiêm
trọng. Trong khi đó, các thế lực thù địch câu kết với bọn phản động trong
nước và quốc tế, đang xuyên tạc bản chất giai cấp cơng nhân, phủ nhận vị trí,
vai trị và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân nói chung, giai cấp cơng
nhân Việt Nam nói riêng. Chúng xuyên tạc bản chất cách mạng, phủ nhận vị
trí, vai trị, chức năng của Cơng đồn Việt Nam
III) Biện pháp khắc phục.
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về giai cấp công nhân trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, bồi dưỡng ý thức
chính trị, ý thức pháp luật, từng bước trí thức hóa giai cấp cơng nhân
- Thực hiện tốt chính sách, pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
công nhân gắn với tăng năng suất lao động
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy trong xây dựng giai cấp
cơng nhân
- Phát huy vai trị của tổ chức cơng đồn trong xây dựng giai cấp cơng
nhân
1)Trách nhiệm của cơng đồn:
13
- Trong tình hình hiện nay, tổ chức cơng đồn phải nhận thức đầy đủ vị
trí, vai trị, chức năng của mình. Để làm tốt sứ mệnh vừa là người đại diện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, viên chức, người
lao động; tích cực và chủ động tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã
hội; nhất là làm tốt việc giáo dục, động viên công nhân, viên chức, người lao
động và đoàn viên ra sức phấn đấu hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình trên mọi
cương vị cơng tác. Cả ba chức năng đó của Cơng đồn đều phải được coi
trọng, có quan hệ gắn bó mật thiết, nhuần nhuyễn và bổ sung cho nhau; trong
đó, hết sức coi trọng chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của công nhân, viên chức, người lao động. Chủ động thực hiện và phát huy
hiệu quả những kinh nghiệm tốt trong q trình nghiên cứu tìm tịi cơ chế,
phương thức thực hiện các chức năng một cách thích hợp, khơng máy móc,
cứng nhắc trong các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh, có vốn đầu tư nước
ngồi. Ở đây, chức năng tham gia quản lý của Cơng đồn khơng phải chỉ bằng
cơ chế tổ chức đã được xác lập như các hội đồng, các đại hội công nhân, viên
chức, các hội nghị liên tịch... mà cịn thơng qua việc thảo luận, ký kết thỏa
ước lao động tập thể, tham gia kiến nghị để xây dựng và thực hiện các nội
dung thỏa ước lao động tập thể của công nhân, viên chức, người lao động...
Vấn đề động viên công nhân, viên chức, người lao động thi đua yêu nước,
hoàn thành tốt nhiệm vụ trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần được
triển khai theo hướng kết quả của việc thi đua là góp phần làm tăng sản phẩm
và doanh thu của cơ sở, từ đó bảo đảm hài hịa lợi ích nhà nước, người sử
dụng lao động và người lao động. Cơng tác tun truyền, giáo dục của Cơng
đồn khơng chỉ tập trung vào đối tượng công nhân, viên chức, người lao
động, mà còn hướng tới cả người sử dụng lao động để họ hiểu về Cơng đồn,
ủng hộ việc thành lập và tạo điều kiện cho Cơng đồn hoạt động, nhằm bảo
đảm hài hịa lợi ích của người lao động và của cả người sử dụng lao động.
14
- Trong điều kiện hiện nay, khi các thành phần kinh tế phát triển, đội ngũ
công nhân, người lao động trong khu vực ngồi quốc doanh và có vốn đầu tư
nước ngoài tăng mạnh, chiếm tỷ lệ ngày càng cao so với khu vực kinh tế nhà
nước, thì đối tượng tập hợp, vận động, nội dung hoạt động của Công đoàn
phải thay đổi cho phù hợp, song vẫn phải bảo đảm bản chất giai cấp công
nhân của tổ chức công đồn Việt Nam, xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Để làm tốt nhiệm vụ của mình, Cơng đồn phải không ngừng đổi mới
tổ chức, nội dung, phương pháp hoạt động để thu hút ngày càng đông đảo
công nhân, người lao động vào tổ chức mình, trong đó phải quan tâm tập hợp
đông đảo công nhân, người lao động trong khu vực kinh tế ngồi quốc doanh
và có vốn đầu tư nước ngồi gia nhập Cơng đồn. Đồng thời, phải đẩy mạnh
và không ngừng đổi mới công tác tổ chức, chỉ đạo phong trào thi đua yêu
nước trong công nhân, viên chức, người lao động nhằm động viên, khuyến
khích mọi người, mọi tập thể tinh thần chủ động, sáng tạo, ý thức cộng đồng
trách nhiệm, nỗ lực vươn lên trong sản xuất, kinh doanh, trong công tác, học
tập, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao góp phần đưa
đất
nước
thốt
khỏi
tình
trạng
nước
chậm
phát
triển.
Duy trì và thường xun đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo
dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà Nước nhằm nâng cao nhận thức chính
trị, giác ngộ giai cấp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, sống làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật cho công nhân, người lao động, đấu tranh
phịng chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Cơng đồn phải chủ động tham
gia xây dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc thực
hiện pháp luật và các chế độ chính sách có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của công nhân, viên chức và người lao động. Để công nhân, người lao động
gắn bó với tổ chức cơng đồn, gắn bó với giai cấp cơng nhân và dân tộc, tự
15
giác phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, phải quan tâm tạo ra những
điều kiện phát huy tốt nhất quyền dân chủ của công nhân, người lao động
trong sản xuất, kinh doanh, đóng góp sức lực, trí tuệ của mình vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Một điều cần lưu ý nữa là phải tạo cho Cơng đồn có khả năng phát
huy hết khả năng của mình qua việc các thành viên của cơng đồn là những
người được nhà nước cử đến để giám sát thường trực của nhà máy, xí
nghiệp… chứ khơng phải là những người “ăn cơm chúa” như trước đây. Có
như vậy mới đảm bảo tính khách quan trong các hoạt động của cơng đồn
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công nhân.
2)Trách nhiệm của Đảng và Nhà Nước:
Đảng, Nhà Nước tiếp tục quan tâm xây dựng giai cấp công nhân, coi đây
là công việc vừa khẩn trương, liên tục, vừa mang tính khoa học, tính cách
mạng cao. Sự quan tâm của Đảng đến công tác xây dựng giai cấp cơng nhân
khơng chỉ bằng nghị quyết, chủ trương, chính sách mà cịn bằng chính việc
làm cụ thể của mỗi tổ chức đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên ở các cấp, các
ngành. Nhà Nước bổ sung, hoàn thiện các chính sách nhằm giải phóng,
khuyến khích phát huy mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ
chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả, giải quyết việc làm cho người lao động. Chú trọng gắn phát triển
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quán triệt sâu sắc quan điểm coi đào
tạo là quốc sách hàng đầu, trên cơ sở đó, chú trọng đầu tư thỏa đáng cho cơng
tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động, đảm bảo cân đối giữa hệ
thống đào tạo và hệ thống kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục sự mất
cân đối về cơ cấu lao động hiện nay. Quan tâm đặc biệt đến xây dựng, hoàn
thiện những chủ trương, chính sách động viên, khuyến khích, chăm lo đời
16
sống vật chất, tinh thần, tạo ra những triển vọng phát triển mới cho công
nhân, người lao động, để họ gắn bó và trung thành với giai cấp, với dân tộc,
tự giác nỗ lực vươn lên trong lao động, sản xuất, học tập, cống hiến ngày càng
nhiều sức lực, trí tuệ cho giai cấp, cho dân tộc.
Đào tạo người công nhân có tay nghề cao thơng qua các trường dạy
nghề, phải có cơng tác dân vận và tun truyền thật tốt để cho người dân của
ta – cha mẹ của những đứa con sau này sẽ trở thành công nhân xã hội chủ
nghĩa hiểu được lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Phải đưa
công nhân về đúng vị trí của nó và đưa nghề cơng nhân trở thành một nghề
cao quý mà xã hội phải kính trọng và cơng nhận, khi ấy thì người ta mới
muốn trở thành cơng nhân, mới có lịng nhiệt thành để xây dựng đất nước vì
khơng ai muốn mình bị xem thường mà là công nhận, do vậy phải hiểu cả tâm
lý người lao động.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ lợi ích người lao động, đặc biệt
là bảo vệ lợi ích chính đáng của giai cấp cơng nhân Việt Nam là một điều cần
lưu ý để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thiết
nghĩ phải có bộ luật để ưu đãi cơng nhân xã hội chủ nghĩa như những ưu đãi
cho thương bệnh bênh, như những người có cơng với cách mạng… Cùng với
“luật ưu đãi công nhân” là phải làm rõ nội hàm cơng nhân là ai, người như thế
nào, trình độ học vấn ra sao… Tất cả vì sự cơng bằng xã hội, cơng nhân xã
hội chủ nghĩa đích thực sẽ được chế độ xã hội chủ nghĩa ưu đãi chứ không
nên đánh đồng với các công nhân “ô hợp” với trình độ chỉ là lao động phổ
thơng, điều này sẽ làm cho mọi người có cách nhìn khơng chuẩn xác về giai
cấp cơng nhân. Cần phải có sự phân biệt rạch rịi giữa các loại cơng nhân với
nhau để từ đó thực hiện chính sách làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
Điều này khơng những góp phần đưa giai cấp cơng nhân Việt Nam đi lên mà
cịn góp phần hồn thiện cơng bằng xã hội như Nhà Nước vẫn đang thực hiện.
Đây là một vấn đề vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc phân nâng
17
cao năng lực của cơng nhân, tuy khó khăn nhưng chúng ta buộc phải thực
hiện, đó là nhiệm vụ loại, đánh giá và của những người Cộng Sản chân chính
phải thực hiện cho kỳ được.
Cơng tác làm nổi lên lịng tự hào dân tộc, lịng u nước lâu đời, tình
đồn kết anh em, lịng căm thù kẻ bóc lột… Đó là những điều mà Nhà Nước
cũng như những người Đảng viên Cộng Sản phải thực hiện nhằm thức tỉnh ý
chí chiến đấu tự giác cho những người công nhân. Chúng ta đành rằng trong
thời đại hiện nay đồng tiền chi phối rất nhiều nhưng có những thứ mà đồng
tiền khơng thể lay động được là truyền thống yêu nước và lịng căm thù giặc .
Lênin đã nói: “Q độ lên chủ nghĩa xã hội là thời gian của những cơn
đau đẻ”-phải làm cho công nhân và những người dân hiểu được ý nghĩa của
câu nói này, nếu như làm cho giai cấp cơng nhân nhận thức được điều đó thì
có lẽ áp lực về mặt kinh tế (tiền lương cho cơng nhân) sẽ được giảm tải phần
nào. Lịng u nước thì đã rõ nhưng lịng căm thù giặc là sao, thực ra nợ non
sông vẫn chưa trả hết, dễ nhận ra nhất là hậu quả chiến tranh làm cho nước ta
nghèo nàng lạc hậu, con người ta bị nhiễm độc… Điều này cũng như Nhật
trước đây đã áp dụng là xây dựng đồng hồ để tưởng nhớ nạn nhân bom
nguyên tử ở 2 thành phố Hiroshima và Nagasaki, họ nhắc nhở rằng con cháu
phải nhớ món nợ này để đưa đất nước đi lên, ta cũng có thể làm như thế
không chỉ với người công nhân mà bất kỳ người Việt Nam u nước nào cũng
có lịng căm thù giặc để biến lịng căm thù đó thành ý chí để ta vươn lên và
đây chắc chắn công việc của Nhà Nước và Đảng. Nếu như khơng có những
cách làm sáng tạo để thức tỉnh lịng u nước thì khó mà đưa đất nước đi lên.
Khơng những thế mà cịn phải làm tăng tình đồn kết với cơng nhân quốc tế,
ở đây ta đã có chính sách để xuất khẩu lao động, ta vẫn có thể làm tốt hơn để
xuất khẩu những người công nhân xã hội chủ nghĩa, họ sẽ là những người có
kiến thức được đi lao động ở nước ngoài 2 đến 4 năm để tiếp thu thành tựu và
cách sử dụng công nghệ hiện đại rồi quay trở lại đất nước với những gì được
18
học để tiếp tục sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất nhiên
phải có cả những cán bộ “nằm vùng” đi cùng, để rèn luyện ý chí chiến đấu và
tư tưởng Cộng Sản, tránh bị tha hóa đạo đức cách mạng và bị bọn phản động
lợi dụng để chống phá và đó sẽ là một câu chuyện dài mà với vô vàn thách
thức mà Đảng và Nhà Nước cần nghĩ đến.
Ngoài ra trong phần thực trạng cũng có nhắc đến sự khó khăn cho cơng
nhân về q ăn tết và gây lãng phí cho xã hội một khoảng khơng nhỏ, khơng
những thế làm tình hình xã hội cũng trở nên phức tạp. Do vậy Nhà Nước cũng
phải quan tâm vấn đề này, không phải giảm giá vé xe hay khuyến mãi trợ cấp
gì, đó là những việc làm chắp vá gây lãng phí nhân lực cũng như tiền của của
Nhà Nước, chúng ta cần quy hoạch tốt hơn về vấn đề công nhân từ nông thôn
lên các thành phố. Ở đây ta có 3 vùng kinh tế Bắc-Trung-Nam trong đó 2
vùng Bắc-Nam là phát triển tương đối mạnh về các khu công nghiệp, thật ra
cơ chế phân vùng để tuyển lao động ở đây cũng như việc tuyển quân cho các
quân đoàn. Họ thường lấy quân trong vùng để tuyển chứ khơng lấy vùng
khác. Đó là điều mà chúng ta có thể áp dụng, chúng ta cũng tuyển lao động
theo vùng, ở các tỉnh miền Bắc thì cơng nhân phải đến các khu cơng nghiệp
phía Bắc và miền Nam thì xuống các khu cơng nghiệp phía Nam. Như vậy,
khi lễ tết cơng nhân có điều kiện về q gần nhà, họ có thể ở cùng gia đình
lâu hơn và giá vé tàu xe cũng thấp hơn. Thiết nghĩ đây là việc chúng ta nên
làm để “tiết kiệm” giùm các tầng lớp lao động một khoảng không nhỏ. Nhưng
cũng chưa phải là tồn diện vì nếu tồn diện thì phải phát triển cơng nghiệp ở
khắp các tỉnh chứ khơng nên q tập trung, đó là điều mà chúng ta cần hướng
đến để đến 2020 thì nước ta trở thành nước cơng nghiệp và tỉnh nào cũng có
khả năng công nghiệp tương đối với số lượng công nhân tương đối và chất
lượng cao.
3)Trách nhiệm của chính quyền địa phương:
19
Những việc làm của những lãnh đạo địa phương sẽ là những việc làm
được công nhân để ý nhất chứ không phải việc làm của nhà lãnh đạo cấp cao.
Ấy vậy mà ở những nơi đó họ thường thờ ơ với người dân trong khu vực và
tối ngày chỉ là tiệc tùng và tiếp khách, điều này cũng tạo ra tâm lý chán
trường của người dân đối với những người lãnh đạo. Vậy cán bộ cấp cơ sở
cũng phải có những việc làm lành mạnh để “làm gương” cho giai cấp cơng
nhân noi theo. Họ có thể tổ chức những buổi tọa đàm chuyên đề dành cho giai
cấp công nhân khoảng 1 tháng 1 lần và tổ chức những buổi dã ngoại ít nhất 1
quý 1 lần, tất cả những điều đó phụ thuộc vào tùy điều kiện của từng địa
phương nhưng những người lãnh đạo cấp cơ sở phải coi đó là trách nhiệm
cơng việc mà họ phải làm. Ngồi ra cũng phải chú trọng đến giới cơng nhân là
nữ, họ có một số “bất lợi” trong cuộc sống như mang thai, sức khỏe yếu
hơn… Nên chính quyền cũng phải quan tâm đến những trường hợp như vậy,
vì cán bộ là gốc công việc như Bác Hồ đã bảo từ trước nên tất thảy điều đó
chính quyền địa phương phải quán triệt thực hiện. Muốn vậy họ phải là những
người có tâm và có tài, tựu chung lại vẫn là đào tạo cán bộ ra sao cho xứng
tầm.
4)Nhiệm vụ của người cơng nhân:
Để làm tốt nhiệm vụ này, địi hỏi giai cấp cơng nhân, tổ chức cơng đồn
phải nỗ lực phấn đấu không ngừng. Mỗi công nhân, người lao động phải ý
thức được trách nhiệm của mình đối với giai cấp, với dân tộc trước những
thời cơ lớn và thách thức gay gắt. Phải không ngừng học tập, nâng cao trình
độ học vấn, chun mơn nghề nghiệp, rèn luyện phẩm chất đạo đức và tác
phong công nghiệp, quyết tâm vươn lên làm giàu cho mình, cho gia đình, góp
phần làm giàu cho xã hội. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng khối đoàn
kết thống nhất trong từng tập thể và trong tồn bộ giai cấp, góp phần xây
dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc. Mỗi cơng nhân, người lao động phải
thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc gia nhập, tham gia hoạt động công
20
đồn và xây dựng tổ chức cơng đồn lớn mạnh. Bởi chỉ có xây dựng tổ chức
cơng đồn lớn mạnh thì mới thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, viên chức, người lao động và có thể
thực hiện tốt nhiệm vụ vận động, tổ chức công nhân, viên chức, người lao
động
thực
hiện
thắng
lợi
đường
lối,
chủ
trương
của
Đảng.
Khơng những tích cực tham gia cơng đồn mà cịn tham gia quản lý Nhà
Nước với tư cách là công dân để thể hiện rõ khả năng lãnh đạo của giai cấp
mình là để phục vụ lợi ích chính đáng của mình. Ngồi ra địi hỏi phải thực
hiện kế hoạch hóa gia đình một cách đúng đắn, phải biết dạy bảo con cái, sẽ là
thế hệ công nhân mai sau, những người tiếp tục lãnh đạo đất nước để tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của những người cơng nhân ở đây tuy tạm thời chắp vá vì giáo
dục phải là từ nhỏ mới có nền tảng, do đó, giáo dục những mầm xanh của giai
cấp cơng nhân hiện tại để họ có thể trở thành cơng nhân xã hội chủ nghĩa, khi
đó cơng nhân sẽ được coi như một nghề cao quý có thể ngẩng cao đầu với
thiên hạ chứ chẳng bị bĩu mơi bảo “nhìn mấy thằng cơng nhân kìa”. Cơng
nhân hiện tại phải nhận thức rằng tương lai của những người công nhân xã hội
chủ nghĩa sẽ rộng rất mở như tiền đồ của những kỹ sư, bác sĩ… Nên mọi
người hãy cố gắng trau dồi về chun mơn, tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống… “Nếu có ai hỏi tơi những người cơng nhân u nước như thế nào, thì
tơi trả lời rằng là họ vẫn đang hăng hái ngày đêm làm giàu cho Tổ Quốc.”
Điều đó là điều chúng ta mong ước và chúng ta chắc chắn sẽ làm được!
KẾT LUẬN
Bài tiểu luận ngắn trên đã chỉ ra một số thực trạng chung của giai cấp
cơng nhân Việt Nam hiện nay, đó là sự thiếu trách nhiệm của các nhà quản lý
và hậu quả của sự nghèo nàng lạc hậu. Do vậy, chúng ta, với tư cách là người
trí thức và những nhà quản lý tương lai của đất nước không thể cho giai cấp
21
công nhân Việt Nam, giai cấp lãnh đạo đất nước lại rơi vào vịng luẩn quẩn
khơng thể thốt khỏi. Bằng tất cả khả năng có được, tơi và mọi người sẽ cố
gắng thực hiện những biện pháp sáng tạo, mới mẻ để thúc đẩy giai cấp công
nhân Việt Nam phát triển một cách toàn diện.
Những phương hướng và giải pháp trên tuy có cái cịn chung chung và
cần đưa vào bàn chi tiết hơn cũng như có những giải pháp mang tính chủ quan
có thiếu sót. Nhưng bản thân tơi đang trên con đường hoàn thiền dần dần về
các giải pháp để đưa giai cấp công nhân từng bước phát triển nói riêng cũng
như đưa nhân dân từng bước đi lên nói chung. Bằng tình cảm của một con
người đồng cảm, bằng một tinh thần đang được mài dũa lý tưởng cách
mạng… Hy vọng bản thân tôi và mọi người cùng nhau làm tốt công việc hiện
tại và sau này để đưa Việt Nam từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội mà nhiệm
vụ trước mắt là trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
22
Danh mục tài liệu tham khảo
1.
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học
2.
Bài viết số 4 (148) năm 2008 của Đặng Ngọc Tùng
3.
Báo lao động
4.
Trang thông tin điện tử
5.
Báo điện tử Đảng Cộng Sản
23