Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Tìm hiểu những hình thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.69 KB, 75 trang )

LờI NóI ĐầU
Chỳng ta phi xỏc nh xem xó hi mong chờ ngµnh giáo dục làm
được gì cho thế hệ trẻ .Nơi nào có cá nhân cã thĨ lớn lên và phát huy trọn vẹn
khả năng của mình th× nơi đó có phồn vinh ,sung túc,và tồn xã hội sẽ lành
mạnh.
Từ xu thế chung của xã hội,Trường THPT Tân Kỳ 1 – Nghệ An đã bắt
kịp nhịp đập chung của thời đại. Từ việc tìm hiểu một số hình thức tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ của người giáo viên THPT, tôi xin đưa
ra một số ý kiến của mình về các hình thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ của ngưịi giáo viên ở trường THPT Tân Kỳ 1 –Nghệ
An.
Để hoàn thành bài tiểu luận này ngoài sự cố gắng nỗ lực cua bản thân,
tơi cịn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Chu
Trọng Tuấn ,sự quan tâm của rất nhiều thầy cô giáo, bạn bè và sự động viên của
gia đình.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo
đặc biệt là thầy Chu Trọng Tuấn giảng viên trường ĐH Vinh, cô Lê Mai Hồng
giáo viên trường THPT Tân Kỳ 1 và toàn thể các bạn đã giúp đỡ tơi hồn thành
bài tiểu luận này.
Tuy có nhiều cố gắng song thời gian có hạn vì thế bài tiểu luận khơng
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tơi mong răng sẽ nhận được sự đánh giá,
đóng góp q báu của các thầy cơ, các độc giả để tơi có thể hồn thiện đề tài
nghiên cứu của mình.

Vinh , tháng 05 năm 2009
Người thực hiện

1


A - PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


I - Giới thiệu đề tài:
Giáo viên là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục, là người
chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng văn hố . Đó là những người truyền
thụ cho thế hệ trẻ lí tưởng và đạo đức cách mạng, bồi dưỡng cho các em nhân
cách, dạy cho học sinh có tri thức khoa học và kĩ năng nghề nghiệp.
Đất nước ta hiện nay đang trở mình, đang trong giai đoạn CNH –
HĐH, hơn bao giờ hết đất nước cần có một lực lượng, một đội ngũ lao động
hùng hậu có đức và có tài để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quốc gia dân
tộc .Để làm được điều đó , đội ngũ lao động tiên phong phải tự bồi dưỡng nâng
cao trình độ chun mơn là những nhà giáo. Vì theo như cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã nói “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.
Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất trong các nghề sáng tạo, vì nó sáng tạo
ra những con người sáng tạo”
II - Lý do chọn đề tài:
Mục đích sống của chúng ta là mưu cầu hạnh phúc, dạy học sẽ thiết lập
những giá trị nhằm đạt được hạnh phúc lớn lao cho mọi cá nhân và xã hội. Để
đạt được hạnh phúc, chúng ta phải nuôi dưỡng một cuộc sống mà có thể tạo ra
giá trị. Hạnh phúc thực sự trong cuộc sống chỉ có thể đạt được bằng cách sống
một cuộc sống sáng tạo nên giá trị và bằng các giá trị tiềm tàng, giá trị cố hữu
của con người . Hạnh phúc không phải là cái người khác ban cho ta mà là cái ta
đạt được cho bản thân mình bằng chính sự nỗ lực của bản thân. Không nên chỉ
quan tâm đến đời sống riêng tư của cá nhân mình mà khơng để ý đến lợi ích
chung của cộng đồng. Khơng nên lớn tiếng địi hỏi quyền lợi của mình mà
hồn tồn qn lãng nhiệm vụ phải làm. Mục đích của dạy học là làm cho mọi
cá nhân nhận biết được cuộc sống trong cộng đồng ni dưỡng họ, hướng họ
sống chan hồ, sử dụng những khả năng sáng tạo của mình để nâng cao cuộc
sống cá nhân và xã hội. Để đào tạo ra những cá nhân như thế thì bản thân người
giáo viên phải sống và cống hiến trước đă. Chỉ bằng cách gắn liền bản thân với
2



cái vĩnh cửu và hài hoà, cố gắng phát triển bản thân, tạo ra “giá trị cá nhân” thì
chúng ta mới vượt qua được dòng chảy văn minh vật chất.
Tiếp cận xu thế giáo dục thế kỉ XXI, nâng cao chất lượng giáo dục là
vấn đề cấp bách của mọi quốc gia, khi nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển,
thì song song với nó là một u cầu đặt ra cho ngành giáo dục: “Người giáo viên
trong thời kỳ đổi mới phải không ngừng tự bồi dưỡng nâng cao ttrình độ chun
mơn nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu của đất nước”.
Là một sinh viên sư phạm, được sống và học tập trong thời kì đổi mới,
tơi thấy mình cần phải có cách nhìn, cách nghĩ đúng đắn về vấn đề giáo dục của
nước ta hiện nay, từ đó tơi cũng nhận thấy mình cần phải có một phần trách
nhiệm đối với sự phát triển của nền giáo dục nước nhà.
Từ những nguyên nhân trên, tôi đã chọn đề tài này: “Tìm hiểu những
hình thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ của người giáo
viên THPT” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn được đóng góp
một số ý kiến cá nhân vào vấn đề lớn đang được sự quan tâm của ngành giáo
dục.
III – Mục đích nghiên cứu:
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục học sinh hồ
nhập nhanh chóng vào dịng chảy của thời đại mới.
IV – Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
1, Khách thể nghiên cứu:
Một số hình thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiẹp
vụ của người giáo viên THPT.
2, Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp để nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ của người
giáo viên.
V – Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề “nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên THPT”.

Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của người giáo viên THPT.

3


VI – Phương pháp nghiên cứu:
1,Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết
2, Phương pháp quan sát
3, Phương pháp điều tra
B – NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:

I - Vài nét về giáo dục trung học:
Theo UNESCO, giáo dục trung học là một giai đoạn của giáo dục,
trong đó lứa tuổi trẻ được dẫn dắt để trở thành những người lớn tự lập và có
trách nhiệm, ở giai đoạn này lứa tuổi trẻ nhận được những tri thức và năng lực
cần thiết để chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc sống.
Giáo dục trung học là giai đoạn thứ hai và là bậc học cuối cùng của hệ
thống giáo dục phổ thông. Trong thời gian gần đây trước sức ép của dân số và
phổ cập giáo dục, trước sự phất triển mạnh mẽ của CM KH-KT và yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội thì vai trị của giáo dục trung học ngày càng trở nên quan
trọng.
Giáo dục trung học có vai trị quan trọng trong việc phát tiển con người
toàn diện, thúc đẩy sự phát triển Quốc gia và giải quyết các vấn đề quốc tế.
Từ các nguyên nhân trên đòi hỏi ngươi giáo viên phải không ngừng
nâng cao tri thức để đào tạo ra những thế hệ học sinh có đức có tài cho xã hội.
II - Tìm hiểu về người giáo viên THPT:
1, Vị trí của người giáo viên THPT:
Người giáo viên là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học và của nhà

trường phổ thông, được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó việc giáo dục thế
hệ trẻ cái vốn quý nhất của đất nước.
Hồ Chủ tịch đã nói: ”Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này
tích cực góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Người thầy giáo tốt, thầy giáo
4


xứng đáng là người vẻ vang nhất dù tên tuổi không đăng trên báo, không được
thưởng huân chương, song những thầy giáo tốt là những ”anh hùng vô danh”.

2,Chức năng của người giáo viên THPT:
a. Chức năng của một nhà sư phạm:
Đây là chức năng cơ bản thể hiện đầy đủ nhất tính nghề nghiệp của
người giáo viên. Để thực hiên tốt chức năng này đòi hỏi người giáo viên phải tổ
chức đúng đắn quá trình nhận thức, quá trình hình thành những phẩm chất và
năng lực cần thiết cho học sinh.
b. Chức năng của một nhà khoa học:
Người giáo viên có tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học thì
mới giải quyết được những vấn đề thường xuyên nảy sinh trong công tác giảng
dạy giáo dục của mình. Nghiên cứu khoa học cịn là con đường để nâng cao chất
lượng và hiêụ quả dạy học - giáo dục cũng như các hoạt động xã hội của người
giáo viên.
c.Chức năng của nhà hoat động xã hội:
Người giáo viên không chỉ biết tham gia các hoạt động xã hội nhất là
các hoạt động liên quan đến nghề nghiệp của mình mà cịn phải biết tổ chức cho
học sinh tham gia các hoạt động xã hội.
3, Những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của người giáo viên THPT:
a.Phải có hiểu biết rộng, vững chắc những vấn đề của giáo dục trung
học:
* Về tri thức khoa học:

Trước hết người giáo viên phổ thơng phải nắm vững và có hiểu biết sâu
sắc nội dung, chương trình sách giáo khoa về mơn học mà mình đảm nhận.

5


Những hiểu biết này phải được xây dựng trên nền tảng văn hố chung.
Điều đó giúp cho người giáo viên trung học có khả năng thuần thục nội dung
chương trình các môn học, sáng tạo trong việc sử dụng các phương pháp truyền
đạt tri thức đến học sinh một cách rõ ràng, rành mạch. Và cũng nhờ có vốn kiến
thúc đó mà khi tiến hành bài giảng, giáo viên cần liên hệ, so sánh, đối chiếu với
các tri thức khác có liên quan. Gần gũi giúp q trình tiếp thu của học sinh một
cách thuận lợi dễ dàng.
* Về kĩ năng sư phạm:
Kĩ năng dạy học là kĩ năng quan trọng của người giáo viên, kĩ năng
này được đặc trưng bởi các hành động như: Xác định mục đích yêu cầu và xây
dựng cấu trúc một bài lên lớp; tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh; tổ
chức các mối liên hệ giữa giáo viên và học sinh …
Kĩ năng giáo dục học sinh là kĩ năng không thể thiếu được trong tay
nghề của người giáo viên. Người giáo viên phải: lựa chọn các con đường, biện
pháp giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi học sinh; tổ chức các hoạt động phong
phú, uốn nắn, điều chỉnh những hành vi sai lạc về đạo đức của học sinh…
Kĩ năng vận dụng và phối hợp các lực lượng giáo dục- gia đình –xã
hội: là kĩ năng khơng kém phần quan trọng của người giáo viên nhất là trong
giai đoạn hiện nay, giai đoạn: “tồn xã hội vì sự nghiệp giáo dục”
* Kĩ năng tự học, tự nâng cao trình độ:
+ Bản thân lao động nghề nghiệp đòi hỏi người giáo viên phải khơng
ngừng tự học, tự nâng cao trình độ với khẩu hiệu: “sống là học, học tập là công
việc suốt đời”. Vì nó có ý nghĩa thiết thực đối với người giáo viên.
+ Người giáo viên phải thực hiện trang bị cho mình những kiến thức mới,

thơng tin mới.
+ Tiếp cận nhanh chóng với các phương pháp và xu thế dạy học mới, phát
huy cao độ tính tích cực độc lập của người học.

6


+ Mở rộng phạm vi liên kết các vấn đề xã hội, các vấn đề có ý nghĩa quốc
gia, quốc tế: hồ bình, dân số, nghèo đói, AIDS…
* Kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục:
+ Gắn liền với kĩ năng tự học, tự nâng cao trình độ của ngưịi giáo viên là
kĩ năng nghiên cứu khoa học giáo dục. Kĩ năng này giúp cho người giáo viên có
thể giải quyết tốt các vấn đề thường xuyên nảy sinh trong thực tiễn cơng tác
giảng dạy – giáo dục của mình, biết vận dụng những kinh nghiệm thành công
của đồng nghiệp.
b, Giáo viên phải có lịng u trẻ, u nghề:
Vì đây là hai yếu tíơ gắn bó mật thiêt với nhau: “yêu người bao nhiêu ta
càng yêu nghề bấy nhiêu”.
Tình yêu trẻ là động lực thôi thúc người giáo viên sáng tạo, kiên nhẫn,
miệt mài trong cơng việc. Cịn lịng u nghề giúp người giáo viên khắc phục
mọi khó khăn để luôn được gần gũi tiếp xúc với học sinh, mãi mãi giữ cho tinh
thần hăng hái, trí tuệ minh mẫn, ấn tượng tươi mát và tình cảm nhạy bén. Thiếu
các phẩm chất ấy lao động của người giáo viên trở thành một cực hình.
4, Đặc điểm của lao động sư phạm:
a. Mục đích của lao động sư phạm:
Nhằm giáo dục thế hệ trẻ, hình thành ở họ những phẩm chất năng lực đáp
ứng yêu cầu xã hội.
b. Đối tượng của lao động sư phạm:
Là thế hệ trẻ đang lớn lên:
Thế hệ trẻ đang lớn lên không chỉ chịu tác động, ảnh hưởng của giáo viên

mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như bạn bè, môi trường tự nhiên
xã hội, các phương tiên thông tin đại chúng. Các nhân tố này sẽ ảnh hưởng tích
cực hoặc tiêu cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Vì thế lao

7


động sư phạm phải tổ chức các hoạt động đó, làm cho chúng mang tính giáo
dục.
Người học sinh khơng phát triển theo tỉ lệ thuận với những tác động sư
phạm mà nó phát triển theo những quy luật hình thành con người, của tâm lí của
nhận thức. Kết quả của lao động sư phạm khơng chỉ phụ thuộc vào trình độ được
đào tạo của giáo viên mà còn phụ thuộc vào phần lớn mối quan hệ giữa giáo
viên và học sinh, vào thái độ của học sinh đối với giáo viên và nhân cách của
giáo viên.
Trong quá trình sư phạm người giáo viên là chủ thể , người học sinh là đối
tượng của lao động sư phạm .Tuy nhiên học sinh tồn tại và phát triển như một
thực thể xã hội có ý thức. Vì thế q trình sư phạm chỉ đạt hiệu quả khi phát huy
được tính tích cực chủ động và sáng tạo của người học.
c,Công cụ của lao động sư phạm
Là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần nhất để thực hiện các chức năng
giảng dạy giáo dục học sinh.
Tuy nhiên, hệ thống tri thức kĩ năng kĩ xảo đó chưa đủ để đảm bảo hiệu
quả lao động sư phạm. Do đó cơng cụ lao động sư phạm của người giáo viên
cịn là chính nhân cách của họ nữa. Giáo viên không chỉ tác động đến học sinh
bằng tri thức mà còn bằng cả tâm hồn, cả vẻ đẹp tinh thần của mình nữa.
d, Phương pháp lao động sư phạm của người giáo viên THPT:
Trong bất kì hoạt động có mục đích nào thì con người đều phải ý thức và
chọn lựa phương pháp hoạt động đúng đắn để đạt được két quả mong muốn.
Phương pháp là một thành tố quan trọng tạo ra hoạt động của chủ thể, nó trả lời

câu hỏi “bằng cách nào?”, “làm như thế nào?”. Trong quá trình giáo dục,
phương pháp tồn tại với tư cách là một nhân tố hữu cơ và có quan hệ biện chứng
với các nhân tố khác tạo ra tồn bộ q trình giáo dục.

8


Bằng nhiều phương pháp khác nhau như đàm thoại, thuyết trình, tổ chức
cho học sinh tham gia các hoạt động giáo dục, xã hội nhằm đưa tri thức, đạo
đức, các kỹ năng sống và học tập đến cho học sinh.
e, Sản phẩm của lao động sư phạm.
Đối tượng của lao động sư phạm là con người, sản phẩm của lao động sư
phạm cũng là con người nhưng đó là những con người đã được giáo dục, đã có
những chuyển biến sâu sắc trong nhân cách. Họ được chuẩn bị để đi vào cuộc
sống, để khơng ngừng thích ứng với một xã hội hiện đại luôn luôn thay đổi và
phát triển.

III. Người giáo viên và việc tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun
mơn nghiệp vụ:
Mục tiêu của dạy học là hạnh phúc. Nhiều người cho rằng nhiều tiền hoặc
đạt được địa vị cao là hạnh phúc, họ không chấp nhận hạnh phúc là mục đích
của dạy học vì họ nghĩ rằng đó là mục đích ích kỷ cá nhân. Hạnh phúc khơng
phải như một cái mốc định sẵn mà nó là một cách thức về sự hình thành. Hạnh
phúc thực sự khơng thể có được nếu như chỉ xét về mặt cá nhân. Cuộc đời của
chúng ta luôn bị ràng buộc với cuộc đời của cá nhân khác và của tồn xã hội,
chúng ta khơng thể tách mình ra khỏi mối quan tâm của cộng đồng. Ngay cả sự
giàu sang cũng khơng thể mua được sự biệt lập hồn tồn, hạnh phúc thực sự chỉ
có thể đến khi chúng ta chia sẻ những nỗi gian lao và thành công của mình với
người khác. Cho nên muốn đạt tới hạnh phúc đúng đắn thì phải bao hàm lời cam
kết tham gia vào cuộc sống xã hội.

Con người ta có thể được thừa hưởng tài sản nhưng không thể thừa
hưởng hạnh phúc. Sự giàu sang và hoang phí cũng có sức phá hoại và gây tổn
thương cho hạnh phúc của cá nhân và sự n ổn của tồn xã hội. Vì vậy tìm
niềm vui trong sự san sẻ với người khác thì tốt hơn là cứ sống mà sợ người khác
lấn át mình, tìm sự bình an trong tâm hồn thì tốt hơn là sự tiêu phí năng lực một

9


cách vơ ích vào việc tích luỹ của cải. Khi làm được như thế thì họ sẽ đạt được
một trạng thái thanh thản và hạnh phúc vì đã nhìn thấu được những giá trị cốt
yếu và trường cửu của cuộc sống, chứ khơng mất thì giờ chạy theo những giá trị
vật chất phù phiếm.
Trách nhiệm hàng đầu của dạy học là làm phát triển ý thức của xã hội.
Dạy học phải góp phần cải tạo xã hội.
Q trình hình thành nhân cách người giáo viên bắt đầu từ quá trình được
hướng nghiệp ở nhà trường phổ thông, nhưng yếu tố quan trọng hơn cả vào lúc
này đó chính là niềm đam mê của người học sinh trung học. Có thể họ có thể
xác định được hạnh phúc khi họ thực hiện được niềm đam mê của mình.
Thứ hai là quá trình được đào tạo ở nhà trường sư phạm, khi đó người
giáo sinh được chuẩn bị mọi mặt về tri thức, kĩ năng để trở thành người giáo
viên.
Cuối cùng là q trình khơng ngừng nâng cao trình độ, chun mơn
nghiệp vụ diễn ra trong suốt cuộc đời sư phạm, khi niềm đam mê của họ trở
thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Mỗi sáng họ đến trường
gặp đồng nghiệp gặp những đứa học trò thân yêu, tối tối họ miệt mài bên trang
giáo án... Như đã nói ở trên thì: mục tiêu của dạy học là hạnh phúc và khi người
giáo viên thực hiện được những mục tiêu của giáo dục thì chính họ cũng chính
là những con người hạnh phúc, tài sản lớn nhất mào họ nhận được trong suốt
cuộc đời sư phạm là những con người hạnh phúc khác.

Tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ không những chỉ
mang lại hạnh phúc cho cá nhân người giáo viên mà nó cịn có ý nghĩa lớn lao
đối với nền giáo dục và toàn xã hội.
Khi tất cả mọi nhà giáo đang sống và lao động đều có ý thức tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ thì chất lượng giáo dục sẽ không
ngừng được tăng lên cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, sẽ có nhiều hơn nữa những

10


con người có đạo đức, tri thức được trưởng thành sáng tạo ra những giá trị vật
chất, đem sức lực trí tuệ của mình cống hiến cho đất nước.
Khi chất lượng giáo dục được nâng cao sẽ thúc đẩy nhanh quá trình hội
nhập với nền giáo dục trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực.
IV – Nhận thức lí luận về việc: “tự bồi dưỡng nâng cao trình độ của
người giáo viên THPT”
1, Thế nào được gọi là tự bồi dưỡng?
Theo nghĩa hẹp:
Dưỡng được hiểu như là chất dinh dưỡng, những chất cần thiết cho một
cơ thể sống.
Bồi : cung cấp thêm, bổ sung thêm ,tăng thêm.
Bồi dưỡng là cung cấp bổ sung thêm chất dinh dưỡng cho cơ thể sống.
Theo nghĩa rộng: dưỡng chính là năng lực, kiến thức, tri thức…
Bồi rèn luyện phấn đấu cố gắng học tập.
Bồi dưỡng theo nghĩa rộng là rèn luyện học tập để nâng cao kiến thức,
trình độ và năng lực cho một con người.
Tự bồi dưỡng: là sự nỗ lực cố gắng của chính bản thân mình trong việc
học tập, rèn luyện để nâng cao tầm hiểu biết. Tự học tự bồi dưỡng là vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng nhằm hoàn thiện vốn kiến thức khoa học, kĩ năng sư
phạm cho người giáo viên.

2, Trình độ chun mơn nghiệp vụ là gì?
Đó là một hệ thống những thi thức kĩ năng kĩ xảo cần có của một giáo
viên, để người giáo viên có thể truyền đạt tri thức cho học sinh, hướng đẫn cho
học sinh nắm bắt tri thức một cách tốt nhất, hiệu quả nhất.
3, Tại sao người giáo viên nói chung và người giáo viên THPT phải
khơng ngừng tự học tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ?

11


Thứ nhất: Chúng ta đang bước vào một thời đại mới, thời đại bùng nổ
thông tin, các nhà khoa học đã thống kê được rằng cứ 5-7 năm lượng thông tin
khoa học trên thế giới lại tăng lên gấp đôi, các thông tin đa dạng, phong phú đã
và đang can thiệp vào mọi mặt của đời sống con người. Để làm chủ được thiên
nhiên xã hội và ngay cả con người thì chính con người phải nắm bắt được lượng
thơng tin đáng kể đó.
Nhu cầu nắm bắt tri thức khơng của riêng ai, mà nó là của tất cả mọi
người trong xã hội. Riêng đối với người giáo viên, giáo viên là những người
truyền bá tri thức cho thế hệ trẻ thì khơng thể bị lạc hậu hơn so với những người
khác được.
Thứ hai: Tự bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một đặc điểm
của nghề sư phạm. Trong thời đại ngày nay học sinh không những chỉ được tiếp
thu tri thức từ thầy cô, sách vở mà chúng cịn được tiếp xúc với rất nhiều nguồn
thơng tin khác nữa. Vì vậy người giáo viên phải nâng cao hiểu biết của mình để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của học sinh.
Thứ ba: Học sinh được sống trong các mối quan hệ gia đình – bạn bè –
thầy cô - xã hội. Trong xã hội xô bồ đầy cám dỗ như ngày nay là môi trường
thuận lợi để xuất hiện các mầm mống của học sinh hư, học sinh cá biệt vv... Số
lượng học sinh cá biệt ngày càng tăng cho nên người giáo viên phải nâng cao
trình độ nghiệp vụ để giải quyết tốt các tình huống sư phạm nảy sinh.

Thứ tư: Người giáo viên phải là nhân vật trung tâm của quá trình giáo
dục và nhà trường phổ thông đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó
việc giáo dục thế hệ trẻ. Hàng chục triệu học sinh đang học tập trên ghế nhà
trường phổ thông sẽ trở thành những người lao động sáng tạo xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Thế hệ trẻ sau này sẽ trở thành người như
thế nào? Sẽ làm việc ra sao? Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào quá trình lao động,
sáng tạo của người giáo viên. Chính điều này địi hỏi rất nhiều vào sự nỗ lực cố
gắng trau dồi kiến thức, kinh nghiệm, nghiệp vụ của người giáo viên.

12


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:

I - Vài nét về trường THPT Tân Kỳ I Nghệ an
Trường THPT Tân Kỳ I nằm trên địa bàn của huyện Tân Kỳ – một huyện
miền núi còn nghèo của tỉnh Nghệ An. Có nhiều rừng núi bao phủ và dân tộc
thiểu số sinh sống, đời sống của nhân dâ cịn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên
khơng vì thế mà người dân nơi đây cam chịu số phận mà họ đã biết đầu tư cho
tương lai bằng con đường học vấn.
Nhận thấy vai trò to lớn của giáo dục trong việc phát triển kinh tế xã hội
của huyện nhà, những năm vừa qua, trường THPT Tân Kỳ 1 đã có nhiều biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, chúng ta đang chứng kiến những tiến
bộ to lớn của thơng tin, văn hố, khoa học, kĩ thuật… Con người, người giáo
viên nói chung và người giáo viên trường THPT Tân Kỳ 1 nói riêng phải nắm
lấy khối lượng thơng tin khổng lồ đó và khơng ngừng phát triển nó một cách
thơng minh hợp lý trong suốt cuộc đời lao động sư phạm của mình. Vì vậy đội
ngũ giáo viên của trường đã khơng ngừng tự học, tự rèn luyện nâng cao trình độ,
chuyên mơn, nghiệp vụ để khơng phụ lịng mong mỏi của nhân dân trong huyện.

II – Người giáo viên THPT trong bối cảnh của cuộc Cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại:
1, Cuộc Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và những tác động
đến giáo dục:
Sau cuộc Cách mạng công nghiệp vào cuối TK XVIII, cuộc Cách mạng
khoa học và kĩ thuật đầu TK XX, nhân loại đang tiến hành cuộc Cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại vào cuối TK XX, đầu TKXXI. Đặc trưng của
cuộc Cách mạng này là làm xuất hiện và bùng nổ công nghệ cao (với bốn trụ cột
công nghệ là công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng, công nghệ sinh
học,công nghệ thông tin). Đây là những công nghệ dựa vào các thành tựu khoa
học mới nhất với hàm lượng tri thức và hàm lượng khoa học, sáng tạo cao nhất.
13


Các công nghệ này đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến sự phát triển kinh tế –
xã hội. Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ đã làm cho nền kinh tế thế giới
chuyển dần từ nền kinh tế cơng nghiệp sang một loại hình kinh tế mới dựa trên
chất xám và kĩ thuật, công nghệ cao được gọi là kinh tế tri thức. Với sự thống trị
của nền kinh tế tri thức, các ngành kinh tế dưa trên hàm lượng chất xám cao, thì
trong nền kinh tế tri thức đó, vai trị của giáo dục cực kì to lớn. Một số tính tốn
cho thấy rằng, trong nền kinh tế tri thức, đầu tư cho giáo dục chiếm từ 6%- 8%
GDP, trình độ văn hố trung bình của mọi cá nhân đạt trình độ tốt nghiệp THPT,
cơng nhân tri thức là thành phần chủ yếu trong cơ cấu xã hội.
Đồng thời, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã giảm dần ý
nghĩa của khoảng cách không gian, thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế
ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư trên phạm
vi tồn cầu. Từ đó dẫn tới sự hình thành nền kinh tế tồn cầu hoá, với những
biểu hiện rõ nét: Thương mại quốc tế phát triển mạnh, đầu tư nước ngoài tăng
trưởng nhanh, thị trường quốc tế mở rộng, các công ty xuyên quốc gia với chi
nhánh ở nhiều quốc gia khác nhau nằm trong tay những của cải vật chất rất lớn

và chi phối nhiều ngành kinh tế quan trọng. Tồn cầu hố kinh tế đã thúc đẩy sản
xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đẩy nhanh đầu tư và khai thác
triệt để khoa học – công nghệ, tăng trưởng sự hợp tác quốc tế giữa các nước.
Tuy nhiên, toàn cầu hố kinh tế cịn có những mặt tiêu cực, đặc biệt làm
gia tăng nhanh chóng khoảng cách giàu nghèo. Giáo dục đứng trước các thách
thức ngày càng lớn do các mâu thuẫn tạo ra như: mâu thuẫn giữa toàn cầu và cục
bộ, giữa chiến lược dài hạn và ngắn hạn, giữa cạnh tranh và bình đẳng về cơ hội,
giữa truyền thống và hiện đại, giữa sự phát triển nhanh của tri thức và khả năng
tiếp thu có hạn của con người, giữa tinh thần và vật chất … trong bối cảnh tồn
cầu hố và nền kinh tế tri thức, sự tác động của công nghệ sẽ làm cho thế giới có
nhiều biến đổi sâu sắc và thường xuyên. Cùng với mạng viễn thơng tồn cầu cho
phép trao đổi thơng tin một cách nhanh chóng, việc tiếp cận của mỗi người với
tri thức nhân loại rất tiện lợi và với khối lượng lớn. Để thích ứng với điều đó,
14


giáo dục phải chuyển từ việc coi trọng truyền thụ tri thức sang việc giáo dục cho
mọi người khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề, hợp tác với nhau. Làm được
điều đó, giáo dục mới cung cấp cho xã hội hiện đại những người lao động mới
phù hợp.
2, Những kỹ năng cần có của giáo viên để thích ứng với nền giáo dục
trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại:
a. Người giáo viên cần có kỹ năng tự học, tự nghiên cứu:
Thế giới đang ở trong qúa trình của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại với những tác động sâu sắc đến toàn bộ các mặt kinh tế và đời sống xã
hội. Khối lượng tri thức nhân loại như một dòng thác khổng lồ đang cuồn cuộn
chảy trên xa lộ thông tin. Những kiến thức nhà trường chuyển giao cho sinh viên
sư phạm chỉ là những cơ sở ban đầu cho một quá trình tự học, tự bồi dưỡng.
Ngay người vừa được công nhận học vị tiến sỹ cũng chỉ là người bắt đầu bước
vào công tác nghiên cứu độc lập. Học là công việc suốt đời của bất kỳ ai. Đối

với người đi dạy, điều đó lại càng quan trọng hơn. Ngày mai, với sự phát triển
nhanh chóng của máy vi tính và cơng nghệ thơng tin, cơ hội tiếp cận tri thức của
mỗi người đều bình đẳng như nhau. Điểm khác nhau cơ bản là khả năng tiếp
cận, phát hiện và giải quyết vấn đề. Những kỹ năng đó một phần được bồi
dưỡng tiếp tục nhờ vào qúa trình tự học sau khi ra trường. Tự học cần được xem
là một phẩm chất quan trọng của giáo viên (trong thư của chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết gửi các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên nhân
dịp khai giảng năm học 2006 – 2007 có viết: “Mỗi thầy cơ giáo hãy thực sự là
một tấm gương sáng về đạo đức và tự học”) Trong tương lai, cùng với sự phát
triển của công nghệ thơng tin, việc học có thể được phân tán theo từng các nhân
ở các địa điểm khác nhau.
Không nhất thiết người học phải giáp mặt thầy trực tiếp, nội dung dạy học
có thể được chuyển tải trên tất cả các phương tiện cơng nghệ thơng tin. Người
học có thể tiếp cận thông tin ở bất kỳ mọi lúc, mọi nơi, lúc ấy kỹ năng tự học

15


càng hết sức quan trọng. Ai dạy những kỹ năng đó cho người học? Nhà trường,
trước hết là các thầy cơ giáo.
b. Giáo viên cần có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin:
Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học của học sinh cũng đã có
nhiều thay đổi, thói quen học thuộc một cách thụ động nhường chỗ cho việc tự
tìm tịi khám phá. Những băn khoăn của học sinh gặp phải khi các em tiếp xúc
với các nguồn thơng tin khác nhau khiến cho các em tìm cách giải đáp. Việc học
và chơi ngày càng được gắn với máy vi tính nhiều hơn, thu hút các em nhiều
hơn vào sự tìm tịi khám phá.
Giáo viên khơng thể bằng lịng với những thơng tin sẵn có trên các trang
sách giáo khoa và tài liệu tham khảo. Internet là nguồn thông tin không thể thiếu
được của những người làm nghề dạy học. Khai thác thông tin từ Internet phải trở

thành thói quen khơng thể từ bỏ được của mỗi giáo viên. Rõ ràng kỹ năng làm
việc với máy tính trở thành kỹ năng tối thiểu của tất cả mọi người, trong đó có
cả giáo viên. Máy vi tính và việc sử dụng nó trong tự học và dạy học trở thành
nhu cầu thiết yếu, thói quen văn hố đối với mỗi giáo viên.

c, Giáo viên cần có kỹ năng hợp tác trong dạy học:
Một trong bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ 21 do UNESCO đề xướng là “
Học để sống cùng nhau”. Trên tầm vĩ mô, thế giới ngày càng thu hẹp khoảng
cách không gian nhờ vào công nghệ thông tin. Nhiều giá trị nhân bản phổ biến
đã trở thành nét chung của nhiều dân tộc. Thế giới địi hỏi sự liên kết tồn cầu
trong nhiều lĩnh vực, khó có thể chấp nhận một quốc gia hay một cá nhân nào
trong thời đại ngày nay đứng ngoài quỹ đạo của những vấn đề quốc tế như: bảo
vệ mơi trường, chống khủng bố, nghèo đói, dịch bệnh … Trong phạm vi cụ thể,
sự hợp tác tạo nên nhiều thành tựu quan trọng đối với mỗi cá nhân, kỹ năng hợp
tác cần được rèn luyện ở mỗi giáo viên, các thầy cô giáo cũng phải dạy cho học
sinh của mình cách hợp tác trong học tập và cuộc sống.

16


d, Giáo viên luôn cần tự bồi dưỡng kỹ năng tự giải quyết vấn đề:
Cuộc sống của con người, suy đến cùng là một chuỗi liên tục giải quyết
vấn đề. Càng giải quyết tốt các vấn đề bao nhiêu chất lượng cuộc sống của con
người càng có nhiều cơ hội được nâng cao bấy nhiêu. Không nên xem nhà
trường như là một “ốc đảo”, mà nên xem nhà trường chính là cuộc sống. Các
vấn đề thực tế cuộc sống được phản ánh vào nhà trường dưới một lăng kính đủ
để cho người học tiếp cận theo một cách phù hợp với lứa tuổi của mình. Giải
quyết các vấn đề trong các bài học ở nhà trường cũng nên xem như giải quyết
các vấn đề của cuộc sống. Nhờ vậy, các em khỏi phải bỡ ngỡ khi bước vào cuộc
sống thực tế phong phú, đồng thời ở một góc độ nào đó, người học khi ra trường

khỏi phải mất cơng đào tạo tiếp từ thực tế cuộc sống và công việc. Để làm được
điều đó, giáo viên cần phải ln tự rèn luyện và bồi dưỡng kỹ năng giải quyết
vấn đề.
III – Giáo viên trường trung học phổ thông Tân Kỳ 1 với việc tự bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên mơn nghiệp vụ:
1, Một số hình thức tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ của giáo viên Trường trung học phổ thông Tân Kỳ 1:
Một là: Đọc sách và tài liệu liên quan đến công việc hằng ngày của bản
thân vì sách giáo khoa là nguồn tri thức rất phong phú, sinh động để thầy giảng
dạy và học sinh học tập. Đây là nguồn tri thức cơ bản mà Bộ giáo dục đã ban
hành phục vụ công tác giảng dạy và học tập trong nhà trường.
Hiện nay, tài liệu và sách giáo khoa rất phong phú và đa dạng, hệ thống
thư viện của nhà trường đã được nâng cấp, mở rộng phục vụ nhu cầu học tập,
tìm tòi, nghiên cứu của học sinh và giáo viên trong trường.
Hai là: Tự rút ra những bài học kinh nghiệm sau những lần thành cơng
hay thất bại của mình để tìm cách khắc phục hoặc phát huy nó. Một số thầy cô
giáo trong thời gian qua đã không ngừng thể hiện mình, thể hiện năng lực và
trình độ của một nhà sư phạm bằng nhiều sáng kiến được đề xuất với ban giám

17


hiệu nhà trường nhằm cải tiến một số phương tiện, phương pháp dạy học; hay
tìm tịi sáng tạo ra những dụng cụ dạy học mới thuận lợi hơn trong công tác
giảng dạy của giáo viên. Chẳng hạn như thầy giáo Lê Khắc Thục giáo viên dạy
Sinh học sau một thời gian nghiên cứu tìm tịi đã rút ra được những điểm mới và
khó trong chương trình sinh học lớp 12 nâng cao, để từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm khơng những cho mình mà cịn cho các thầy cô giáo khác trong
trường.
Ba là: Các thầy cô giáo đã học hỏi kinh nghiệm của đồng nghịêp, luôn

luôn biết lắng nghe ý kiến của người khác để bổ sung vào nguồn kinh nghiệp và
kiến thức của mình.
Bốn là: Các thầy cơ ln ln có ý thức tham gia mọi hoạt động chun
mơn, nghiệp vụ, các q trình bồi dưỡng và đào tạo lại giáo viên theo kế hoạch
của nghành. Nhà trường đã thường xuyên động viên, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ
trợ cán bộ đi học về thời gian, tinh thần và vật chất để các thầy cô yên tâm công
tác.
Trong những năm qua đội ngũ giáo viên đã trải qua nhiều chu kỳ bồi
dưỡng thường xuyên. Kết quả là trình độ chun mơn nghiệp vụ ngày càng được
nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ giáo dục trước nhiều u cầu mới của
chương trình, sách giáo khoa nói riêng và đối mới chương trình nói chung. Việc
tự bồi dưỡng được xem như là nhu cầu tự thân của mỗi giáo viên, được diễn ra
thường xuyên, liên tục trong suốt cả q trình cơng tác của mỗi người.
Năm là: Ngồi các đợt bồi dưỡng “từ trên xuống” việc bồi dưỡng còn
được tiến hành mọi lúc mọi nơi theo kiểu “từ dưới lên” giúp nhau trong tự bồi
dưỡng là một trong những con đường có hiệu quả nhất trong việc tự bồi dưỡng
trình độ chun mơn nghiệp vụ của người giáo viên.
Các thầy cô giáo đã tổ chức các chuyên đề ngoại khố ở các tổ qua đó
giúp mọi người giáo viên nắm vững hơn nội dung chương trình và đổi mới
phương pháp dạy bộ mơn, từ đó áp dụng vào thực tế công tác giảng dạy và nâng

18


cao chất lượng lên một bước như các thầy cô giáo trong tổ địa lý: địa lý là mơn
học có tính thời sự nhất so với các mơn học trong chương trình phổ thơng hiện
nay đặc biệt là phần địa lý kinh tế – xã hội. Mỗi ngày những con số hầu như biết
nói, đã nói lên tất cả mọi sự thay đổi dù là nhỏ nhất về tình hình kinh tế – xã hội
của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Và hình như các em học sinh cũng
khơng có nhiều hứng thú lắm với mơn học này, vì vậy các thầy cơ giáo trong tổ

địa lý đã: họp, bàn, nghiên cứu các phương pháp dạy học mới nhằm đưa các em
học sinh vào những tình huống có vấn đề, làm cho các em có hứng thú hơn với
môn học. Kết quả được kiểm chứng qua các kỳ thi Đại học, Cao đẳng, số học
sinh dự thi Đại học, Cao đẳng mơn địa lý có điểm số khá cao điều đó chứng
minh tính khả thi của các phương pháp mới.
Sáu là: Bên cạnh việc bồi dưỡng theo tổ chun mơn, hình thức bồi dưỡng
theo mơ hình “liên tổ” trong nhà trường có tác dụng thiết thực theo nội dung bồi
dưỡng. Ví dụ như để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học, các giáo viên bộ mơn tin học có nhiều ưu thế hơn trong trường, sẽ chịu
trách nhiệm hướng dẫn các giáo viên trong các tổ khác về công nghệ thông tin,
đặc biệt là đối với các giáo viên còn hạn chế về sử dụng máy tính trong dạy học.
Bảy là: Hình thức bồi dưỡng “liên trường” hoặc theo “cụm trường”, cùng
tiến hành dự giờ, trao đổi về một chủ đề chuyên môn nào đó vì nó có tác dụng
rất lớn trong việc giúp đỡ nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên giữa các
trường. Các giáo viên giỏi có điều kiện để trau dồi chuyên môn và giúp đỡ đồng
nghiệp, các giáo viên khác có điều kiện học hỏi thêm hoặc được giải đáp về các
ý kiến thống nhất giữa các tập thể về những điều cịn băn khoăn.
2, Những khó khăn trong quá trình tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên Trường THPT Tân Kỳ 1:
Hiện nay, nhà trường vẫn đang còn thiếu giáo viên, cho nên một số thầy
cô giáo phải đứng lớp nhiều giờ liền, thêm vào đó tình hình kinh tế của một số
thầy cơ cịn khá khó khăn, các thầy cô phải làm thêm nghề phụ để nâng thu nhập

19


và chất lượng cuộc sống. Vì thế quỹ thời gian rảnh để tự học, tự nghiên cứu của
thầy cô bị hạn chế rất nhiều.
Công nghệ thông tin tuy phát triển nhanh và mạnh nhưng cũng chỉ mới
phát triển rầm rộ trong những năm gần đây cho nên kỹ năng sử dụng máy tính,

khả năng truy nhập thơng tin của một số thầy cơ vẫn cịn thấp, vì vậy hạn chế
trong việc tiếp xúc với các nguồn thông tin đa dạng từ Internet, mà đó lại là
nguồn thơng tin khơng thể thiếu được của người giáo viên.
Một số giáo viên trẻ mới ra trường kinh nghiệm chưa có, chưa bắt kịp
được với việc đổi mới trong phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức cũng
như tri thức cho học sinh gây ra tâm lý chán nản với nghề của người giáo viên
trẻ.
Vẫn còn một số bộ phận giáo viên chưa có ý thức tự học, tự bồi dưỡng
chun mơn nghiệp vụ. Như chúng ta đã biết người thầy giáo làm việc với “cái
tâm” và hướng vào “cái thiện”. Người thầy giáo muốn được tiếng gọi là “thầy”,
yên tâm với chỗ đứng trong xã hội nhưng lại khơng biết mình đang lùi lại so với
thực tế về mặt tri thức cũng như phong cách thì có đạt tới đạo làm thầy hay
không? Người thầy giáo phải là nhà khoa học, nhà văn hố, nhà đạo đức. Và
người thầy giáo khả kính là người có nhân cách thống nhất, là người hài hồ
giữa trí tụê và cách ứng xử của cá nhân. Vì vậy nếu một người giáo viên nào đó
khơng có ý thức tự nâng cao trình độ thì đến một lúc nào đó cũng sẽ bị xã hội
đào thải.
Chi phí đầu tư cho giáo dục nhìn chung cịn thấp chưa đáp ứng được nhu
cầu cần thiết của các giáo viên như chi phí để tổ chức các hoạt động ngoại khoá
cho học sinh …
Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường tuy đã được bổ sung nhưng vẫn
chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng trong công tác giảng dạy vì thế nó đã cản trở
một phần q trình tự nghiên cứu sáng tạo của người giáo viên.

20


3. Đánh giá chung về người giáo viên ở trường trung học phổ thông
Tân Kỳ 1 của ban lãnh đạo nhà trường:
Theo thầy giáo Nguyễn Ngọc Điềm hiệu trưởng nhà trường cho biết:

Đa số giáo viên đều đã có ý thức tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và vận dụng các phương pháp mới vào dạy học, nhưng
nhìn chung đạt ở mức độ tốt còn chưa cao. Cũng từ nhiều năm nay giáo viên
trong trường đã có ý thức tham gia đầy đủ các nội dung bồi dưỡng thường xuyên
của ngành, kết quả điều tra của lãnh đạo nhà trường cho thấy:
Có 90% – 94% thực hiên ở mức độ tốt.
Có 6% - 10% thực hiện ở mức độ khá.
Khơng có mức độ trung bình và yếu.
Đa số giáo viên trong trường đề là Đảng viên, Đoàn viên nên ý thức chấp
hành tốt chủ trương chính sách của Đảng tương đối tốt, tham gia tổ chức các
hoạt động xã hội và các phong trào của trường, của địa phương.
Hầu hết giáo viên có lịng u nghề, u trẻ, đối xử cơng bằng và khơng
thành kiến với học sinh, tích cực tham gia các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ. Song số giáo vien có cải tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao kết
quả học tập và đạo đức của học sinh, cá biệt hoá trong dạy học nhằm đáp ứng
nhu cầu học tập của từng đối tượng cịn hạn chế.
Có khoảng 89% giáo viên yêu nghề, tận tuỵ với nghề.
Có khoảng 11% ở mức độ khá và khơng có mức độ trung bình.
Phần lớn giáo viên có tinh thần trách nhiệm trong cơng tác, hồn thành
các nhiệm vụ được giao, có lối sống trung thực, giản dị, lành mạnh, gương mẫu
trước học sinh.
Từ những thực trạng trên nhà trường đã có nhiều biện pháp để giúp người
giáo viên thuận lợi hơn trong quá trình tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ:

21


Một là: kiên trì tun truyền, phân tích, thuyết phục để người giáo viên
thực sự say mê với chuyên môn, thực sự yêu nghề, yêu trường, và phải thấy “tự

xấu hổ” khi bản thân không được đồng nghiệp kể cả học sinh kính phục về
chun mơn, nghiệp vụ. Từ đó thấy bản thân cần thiết phải vươn lên để có năng
lực trình độ thật sự.
Hai là: trong phân cơng giảng dạy hằng năm nhà trường đã đảm bảo có sự
đồng đều xen kẽ giữa những giáo viên giỏi, khá và cịn yếu về chun mơn
nghiệp vụ ở các khối lớp theo bộ mơn, để các giáo viên có thể trao đổi học hỏi
kinh nghiệm của nhau.
Ba là: triển khai các lớp tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên theo nội dung
và yêu cầu của Bộ giáo dục và Sở giáo dục.
Bốn là: thường xuyên phát động các phong trào thi đua trong đội ngũ cán
bộ công nhân viên chức của trường, tổ chức thi giáo viên giạy giỏi ở tất cả các
bộ mơn nhằm kích thích tinh thần hào hứng và niềm say mê của mỗi thầy, cô
giáo.
Năm là: cho giáo viên đi tham quan, học tập, giao lưu, trao đổi kinh
nghiệp, công tác chuyên môn và nghiệp vụ đối với các trường khác. Khuyến
khích giáo viên tự bồi dưỡng, tự học với tinh thần tự giác và coi đây là hình thức
chủ đạo có tính quyết định về kết quả bồi dưỡng
* Nhà trường đã đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá xếp loại về phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống và tiêu chuẩn đánh giá xếp loại về chuyên môn
nghiệp vụ của giáo viên Trường THPT Tân Kỳ 1.

22


TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI VỀ PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TÂN KỲ 1

Tốt
Chấp hành tốt chính
sách, pháp luật của

Nhà nước.
Gương mẫu thực
hiện đầy đủ nghĩa
vụ của cán bộ, công
chức, các quy định
của điều lệ nhà
trường, Quy chế về
tổ chức và hoạt
động của nhà
trường;
Hoàn thành xuất sắc
các nhiệm vụ được
giao;
Giữ gìn phẩm chất,
uy tín, danh dự của
nhà tơn giáo; tôn
trọng nhân cách của
người học, đối xử
công bằng với
người học, bảo vệ
quyên lợi, lợi ích
chính đáng của
người học;
Sống mẫu mực,
trong sáng; có uy tín
cao trong đồng
nghiệp, học sinh và
nhân dân; có ảnh
hưởng tốt trong nhà
trường và ngồi xã

hội.

Khá
Chấp hành đầy đủ
chính sách, pháp
luật của Nhà nước;
Thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của cán
bộ công chức, các
Quy định của Điều
lệ nhà trường.

Trung Bình
Chấp hành chính
sách, pháp luật của
Nhà nước;
Thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của cán
bộ, công chức, các
quy định của Điều
lệ nhà trường;

Kém
Khơng chấp hành
đầy đủ chính sách
pháp luật của Nhà
nước;
Có thiếu sót về đạo
đức lối sống;


Hồn thành tốt các
nhiệm vụ được
giao;
Giữ gìn phẩm
chất, uy tín, danh
dự của nhà giáo;
tơn trọng nhân
cách của người
học, đối xử công
bằng với người
học, bảo vệ các
quyền, lọi ích
chính đáng của
người học;
Có uy tín cao
trong đồng nghiệp,
học sinh và nhân
dân.

Hồn thành các
nhiệm vụ được
giao;
Cịn thiếu sót trong
kỷ luật lao động,
nề nếp chun
mơn và lối sống,
có khuyết điểm
nhưng chưa có
mức độ kỷ luật
khiển trách;


Khơng hồn thành
các nhiệm vụ được
giao;
Bị xử lý kỷ luật từ
hình thức khiển
trách trở lên;

Uy tín trong đồng
nghiệp và học sinh
chưa cao.

23

Khơng cịn tín
nhiệm trong đồng
nghiệp, học sinh và
nhân dân.


TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI VỀ CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ ĐỐI VỚI
GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT TÂN KỲ 1
Giỏi
Hoàn thành tốt các
chỉ tiêu sau:
Đạt trình độ đào tạo
về chun mơn
nghiệp vụ trở lên.
Đảm bảo dạy đúng
nội dung chương

trình và kế hoặch
dạy học. Chuẩn bị
bài lên lớp, đánh giá
học sinh theo đúng
quy định. Kết quả
học tập của học sinh
có tiến bộ rõ rệt.
Hồn thành xuất sắc
cơng tác chủ nhiệm
lớp và các hoạt động
khác. Thường xuyên
tham gia bồi dưỡng,
tự bồi dưỡng nâng
cao trình độ chun
mơn nghiệp vụ.
Tổ chức cho học
sinh lĩnh hội vững
chắc các kiến thức
cơ bản, rèn luyện
được những kỹ năng
chủ yếu, giáo dục
tình cảm tốt. Sử
dụng hợp lý phương
pháp dạy học làm
cho tiết học tự nhiên
nhẹ nhàng và hiệu
quả.
Kết quả 3 tiết dạy
được khảo sát tốt
thiểu phải có 2 tiết

đạt loại tốt, 1 tiết đạt
loại khá.

Khá
* Hoàn thành đầy
đủ các tiêu chí sau:
- Đạt trình độ đào
tạo về chun mơn
nghiệp vụ trở lên.
- Đảm bảo đúng nội
dung chương trình
và kế hoạch dạy
học. Chuẩn bị bài,
lên lớp, đánh giá
học sinh đúng quy
định. Kết quả học
tập của học sinh có
tiến bộ. Hồn thành
cơng tác chủ nhiệm
lớp và các hoạt động
khác. có ý thức
tham gia bồi dưỡng
nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp
vụ.
- Tổ chức cho học
sinh lĩnh hội các
kiến thức cơ bản
chính xác, rèn luyện
được những kỹ năng

chủ yếu, có ý thức
giáo dục tình cảm
cho học sinh.
Phương pháp dạy
học phù hợp với nội
dung tiết học.
- Kết quả 3 tiết dạy
được khảo sát tối
thiểu phải có 2 tiết
đạt loại khá, 1 tiết
đạt loại trung bình.

Trung Bình
* Hồn thành tương
đối đầy đủ các tiêu
chí sau:
- Đảm bảo đúng các
nội dung chương
trình và kế hoặch
dạy học. Chuẩn bị
bài, đánh giá học
sinh đúng quy định.
Hồn thành cơng tác
chủ nhiệm lớp và
các hoạt động khác
ở mức độ trung
bình. Có ý thức
tham gia bồi dưỡng,
tự bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ
nhưng chưa thật
cao.
- Việc tổ chức cho
học sinh lĩnh hội các
kiến thức cơ bản và
rèn luyện kỹ năng
cịn những sai sót
nhỏ. Có ý thức vận
dụng các phương
pháp dạy học song
chưa nhuần nhuyễn.
- Kết quả 3 tiết dạy
được khảo sát tối
thiểu phải có 2 tiết
đạt loại trung bình
trở lên.

24

Kém
- Hồn thành
chưa đầy đủ hai
tiêu chí nhiệm vụ
giảng dạy, giáo
dục và kết quả
đánh giá các tiết
dạy. Không được
xếp vào các loại
từ trung bình trở

lên.


SAU MỘT THỜI GIAN XEM XÉT ĐÁNH GIÁ NHÀ TRƯỜNG ĐÃ ĐƯA RA
ĐƯỢC NHỮNG CON SỐ CỤ THỂ NHƯ SAU:

(Đơn vị: %)
Các tiêu chí đánh giá
ý thức tự học tự bồi
dưỡng của giáo viên

Phiếu giáo viên

Tốt

Có ý thức và kế
hoạch tự bồi dưỡng
77
chun mơn nghiệp
vụ
Có ý thức tìm tịi, học
hỏi để vận dụng các
phương pháp mới vào 76
công tác giảng dạy –
giáo dục học sinh
Tham gia đầy đủ nội
dung thường xuyên
của nghành.
94


Phiếu lãnh đạo

Khá

TB

Tốt

Khá

TB

13

0

75

15

0

14

0

75

15


0

6

0

90

10

0

25


×