Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

BAO CAO VE YERSINIA hoan chinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.98 KB, 23 trang )

Báo cáo về YERSINIA

A- TỔNG QT VỀ YERSINIA
I/ ĐẶC TÍNH:
 Là vi khuẩn Gram (–)
 Vi sinh vật kị khí không bắt buộc
 Hình que (dạng phẩy hoặc dạnh thẳng)
 Di chuyển ở nhiệt độ nhỏ hơn 30oC, không di chuyển ở

nhiệt độ lớn hơn 30oC
 Đường kính: 0.5 – 0.8 micromet
 Chiều dài: 1 – 3 micromet
 Không hình thành bào tử
 Có 11 loài :
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.
 Y.

pestis (1894)
pseudotuberculosis (1883)
enterocolitica (1939)
intermedia (1981)
frederiksenii (1981)


kristensenii (1981)
aldovae (1984)
rohdei (1987)
mollaretii (1988)
bercovieri (1988)
ruckeri (1978)

 Trong đó có 2 loài gây nhiễm trùng trong thực phẩm là:
 Y. pseudotuberculosis
 Y. enterocolitica
 Có 3 loài gây bệnh cho người:
 Y. pestis
 Y. pseudotuberculosis
 Y. enterocolitica

II/ MÔI TRƯỜNG:
 Có mặt ở nhiều loài động vật, con người và thực phẩm
 Động vật : heo, chim, hải ly, thỏ, sóc, cừu, bọ chét, chó,

mèo, ngựa, các loài gặm nhắm và gia súc.
 Thực phẩm: thịt, hải sản và sữa …
 Ngoài ra yersinia còn có ở hồ, ao. Trong một số trường hợp,
yersinia còn ở trong đất

Bảng 1: Đặc điểm hóa sinh của các lồi Yersinia
Chú thích:
a

= dương tính sau 3 ngày, (+) = dương tính sau 7 ngày
Một vài giống Y. intermedia âm tính với Simmons citrate, rhamnose, melibiose, raffinose và

Simmons citrate.
c
Một vài giống biotype 5 thì âm tính.
b

Trang 1


Báo cáo về YERSINIA

Bảng 1: Đặc điểm hóa sinh của các loài Yersinia
Các loài Yersinia
Reaction

Y.
pestis

Y.
Y.
Y.
Y.
Y.
Y.
Y.
Y.
Y.
pseudotuberculosis enterocolitica intermedia frederiksenii kristensenii aldovae rohdei mollaretii bercovieri

Y.
ruckeri


Lysine

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Arginine

-

-


-

-

-

-

-

-

-

-

-

(c)

+

+

+

+

+


+

+

+

Ornithine

-

-

+

Motility at RT (2226°C)

-

+

+

+

+

+

+


+

+

+

+

35-37°C

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-


-

Urea

-

+

+

+

+

+

+

+

+

+

-

Phenylalanine
deaminase


-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Mannitol

+

+

+


+

+

+

+

+

+

+

+

Sorbitol

+/-

-

+

+

+

+


+

+

+

+

-

Cellobiose

-

-

+

+

+

+

-

+

+


+

-

Adonitol

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Inositol


-

-

+/-(+)

+/-(+)

+/-(+)

+/-(+)

+

-

+/-

-

Sucrose

-

-

+(c)

+


+

-

-

+

+

+

-

Rhamnose

-

+

-

+

+

-

+


-

-

-

-

Raffinose

-

+/-

-

+

-

-

-

+/-

-

-


-

Melibiose

-

+/-

-

+

-

-

-

+/-

-

-

-

Simmons citrate

-


-

-

+/-

+/-

-

-

+

-

-

+

Voges- Proskauer

-

-

+/-(+)

+


+

-

+

-

-

-

-

Indole

-

-

+/-

+

+

+/-

-


-

-

-

-

Salicin

+/-

+/-

+/-

+

+

-(+/-)

-

-

+/-

(+)


Esculin

+

+

+/-

+

+

-

+

-

(+)

(+)/-

Lipase

-

-

+/-


+/-

+/-

+/-

+/-

-

-

-

Pyrazinamidase

-

-

+/-

+

+

+

+


+

+

+

-

Trang 2


Báo cáo về YERSINIA

III/ YERNISIA ENTEROCOLITICA
Đây là loài vi khuẩn phổ biến có mặt trong thực
phẩm
Đặc tính:
 Gram (-), hình que
 Có thể phát triển khi có hoặc không có oxy
 Có thể phát triển ở nhiệt độ ướp lạnh
Môi trường sống:
 Động vật: gia cầm, heo chim, hải ly, chó, mèo …
 Con người
 Thực phẩm: trái cây, rau quả, thịt (heo, bò, cừu …),
sữa chưa tiệt trùng, hải sản, đậu hủ, bánh sandwich.
Tỷ lệ nhiễm ở thực phẩm là 65 – 90%
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển:
 Nhiệt độ : 0 – 44oC, tối ưu ở 28 – 29oC
 pH: 4.2 – 10, tối ưu ở pH = 7.2 – 7.4
 Hoạt độ của nước: aw max = 0.945 (5% NaCl)

 Chậm phát triển ở môi trường chân không, 100% N 2
hay hỗn hợp CO2, N2. Phát triển hiệu quả ở nhiệt độ
ướp lạnh.
Khả năng sống sót:
 Nhiệt độ : Sống được 64 tuần ở trong nước 4oC, dễ
dàng chịu đựng cái lạnh.
 pH: sống được ở pH có giá trị nhỏ khi ở nhiệt độ
thấp.
Dựa vào sự khác nhau về hóa sinh và DNA gần
giống nhau mà các loài Y. aldovae, Y. bercovieri, Y.
frederiksenii, Y. intermedia, Y. kristensenii, Y. mollaretii, Y. rohdei
and Y. ruckeri gần giống với Y. enterocolitica.
Aleksic và Bockemuhl đã chia Y. enterocolitica thành 18
nhóm huyết thanh (serogroups) dựa vào kháng nguyên O.
Các nhóm gây bệnh là : O:1, 2a, 3; O:2a,3; O:3; O:8; O:9;
O:4,32; O:5,27; O:12,25; O:13a,13b; O:19; O:20 vaø O:21. Trong
đó các nhóm gây bệnh ở người : O:3; O:8; O:9 và O:5,27
Y. enterocolitica gây bệnh Yersinin (một loại nhiễm
trùng đường ruột, Y. pseudotuberculosis cũng gây loại nhiễm
trùng này). Ở đây, chúng đều có mang plasmid với một
số đặc tính nguy hiểm: tự động kết dính với môi trường
ở 35 – 37oC, kìm hãm sự phát triển trong môi trường thiếu
hụt canxi, sản xuất các protein ngoại bào ở 35 – 37 oC, có
khả năng sản xuất ra viêm màng kết trong heo và
chuột, có thể gây chết người bởi các nhiễm trùng
đường ruột gây ra bởi chính vi khuẩn này. Những bằng
chứng gần đây chỉ ra rằng nếu chỉ có plasmid thì ít nguy
Trang 3



Báo cáo về YERSINIA

hiểm. Nhưng khi plasmid kết hợp với những tính chất vật
trung gian thì có thể gây chết người. Sự nhiễm trùng
đường ruột phụ thuộc vào gen của vật chủ và vào các
nhóm huyết thanh, trong đó nhiễm sắc thể của gen vật
chủ cũng tăng tính độc hại của Yersinin.
Y. enterocolitica có 2 gen nhiễm sắc thể : inv và ail.
Các gen này mã hóa phenotype để xâm chiếm các tế
bào động vật hữu nhũ.
Các vụ bùng phát bệnh:

1976, ở thành phố Oneida, New York, khi các em
học sinh uống sữa sôcôla

12- 1981 đến 2 – 1982, ở King County, Washington,
xảy ra ở đậu hũ nhiễm trùng. Kết quả là do
nước đã bị nhiễm trùng do chưa qua xử lý Clo

11/6 – 12/7/1982 bùng phát ở Arkansas, Tennessee
và Mississippi, xảy ra ở sữa chưa tiệt trùng.
IV/ YERSINIA PSEUDOTUBERCULOSIS
Đặc tính:

Hình cầu que


Gram (-)




Thuộc họ Entorobacteria



Y.pseudotuberculosis phân bố rộng trong môi
trường: đất, nước, rau quả…

Loài vi khuẩn này được phát hiện đầu tiên bởi
Malassez và Vignal vào năm 1883, chúng có nhiều
tên khác nhau trước khi được xếp vào chủng Yersinia.
Cái tên pseudotuberculosis xuất phát từ một loại
bệnh gây khối u màng ruột do kí sinh gây ra nhưng có
hiện tượng gần giống bệnh lao.

Loài vi khuẩn gây bệnh ở động vật hoang dã
và vật nuôi trong nhà. Các loài vật này mang
Y.pseudotuberculosis đang tiềm ẩn mối đe dọa.

Y.pseudotuberculosis ít thường xuyên gây bệnh cho
người nhưng đã cũng có vài vụ bùng phát bệnh do
thức ăn hoặc nguồn nước đã nhiễm bẩn từ phân
động vật. Mức độ phát triển bệnh ở người cũng
khác nhau, từ đau bụng, sốt đến nhiễm trùng máu,
phổ biến là bệnh viêm màng ruột được bắt chước
như hội chứng phụ.
V/ YERSINIA PESTIS:
Đặc tính:

Vi khuẩn Gram (-)



Kị khí không bắt buộc
Trang 4


Báo cáo về YERSINIA



Hình cầu que



Đường kính : 0.5 đến 0.8 micromet



Chiều dài : 1 đến 3 micromet



Có khả năng lên men đường



Di động trong môi trường phân lập và bất
động trong môi trường vật chủ

Được bao bọc bởi lớp màng nhầy

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển:
Nhiệt độ: 4 – 40oC , tối ưu là ở 28 – 30oC
pH: 5 – 9.6, tối ưu ở 7.2 – 7.6
Sự độc hại:

Bao nhầy có thể chống lại sự thực bào của
bạch cầu

Y. pestis cũng có thể chống lại sự tiêu diệt của
huyết thanh

Có gen gây ức chế sự di chuyển của bạch cầu,
chống lại sự kết hợp của tiểu cầu.
Môi trường sống:
Con người và các loài vật khác: chuột, sóc, thỏ và
con vật nuôi trong nhà
Gây bệnh:
Là tác nhân gây bệnh dịch hạch.
Tính nhạy cảm:
Y. pestis nhạy cảm cao đối với vài loại kháng sinh, chủ yếu là streptomycin và
chloramphenicol.

B- NHỮNG ĐỘC TỐ CỦA YERSININ
 Enterotoxin
Một số thí nghiệm về tính độc hại được tiến hành để phân biệt những mầm bệnh
nguy hiểm của Yersinin enterocolitica. Một vài giống Yersinin enterocolitica và
những lồi có quan hệ gần thì sản xuất ra một loại độc tố bền nhiệt là enterotoxin
mà có thể được phát hiện bằng cách tiêm chất lỏng nuôi cấy vào cơ của thú vật nhỏ
và làm tương tự đối với Encherichia Coli (ST). Tuy nhiên, yersinia spp chỉ sản xuất
ST ở nhiệt độ thấp . Có nhiều giống yersinia sản xuất protein phụ thuộc vào môi

trường, nhưng giống Yersinin enterotoxin độc tính thì khơng. Vai trị của ST trong
q trình gây bệnh của yersinia khơng rõ ràng.
 Độc tố V và W
 Homongenate
 Yersinin entercolitica mang 6 kiểu mầm bệnh : 1A, 1B, 2, 3, 4, 5
 1B: từ 2 đến 5 mang pYV
Trang 5


Báo cáo về YERSINIA

 1A: không mang pYV

Trang 6


Báo cáo về YERSINIA

C- KHẢ NĂNG GÂY BỆNH CỦA YERSINIA
 BỆNH DỊCH HẠCH ( YERSINIA PESTIS )
Bệnh dịch hạch là gì?
Bệnh dịch hạch là một căn bệnh của lồi gậm nhấm (chủ yếu là chuột). Tác nhân
gây bệnh là trực khuẩn Yersinia Pestis, thuộc họ Enterobacteriaceae, là trực khuẩn
Gram âm. Bệnh dịch hạch lây truyền từ các động vật gặm nhấm sang người qua vết
cắn của chấy rận, bọ chét. chủ yếu qua bọ chét chuột loài Xenopsylla cheopis, đây là
véc tơ chính truyền bệnh dịch hạch. Ngồi ra, ở Việt Nam cịn có lồi Pulex irritans
và một số lồi thuộc giống Xenopsylla có khả năng truyền bệnh dịch hạch.
Trong thế kỷ mười bốn, căn bệnh này lan truyền trên toàn thế giới qua ba đợt
dịch lớn, và giết chết từ một phần ba tới một nửa dân số tại các khu vực có nạn dịch
hạch. Nếu khơng được điều trị kịp thời, tỉ lệ tử vong ở thể hạch là 75% v2 ở thể phổi

là gần 100%.
Nhờ hệ thống vệ sinh và điều kiện sống được cải thiện, hiện nay nạn dịch hạch
rất hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên dịch hạch vẫn là 1 bệnh nguy hiểm thuộc diện kiểm
dịch quốc tế. Ở Việt Nam , vùng trọng điểm mắc bệnh là ở Tây Nguyên.
Bệnh thường phát triển mạnh trong mùa khô, phù hợp với mùa phát triển của
chuột và bọ chét, tuy nhiên dịch cũng được ghi nhận vào các thời điểm khác trong
năm kể cả mùa mưa.
Lịch sử phát hiện :
Yersinia Pestis được khám phá vào năm 1984 do công của bác sĩ và nhà vi khuẩn
người Pháp Alexandre Yersin trong trận dịch của bệnh dịch hạch tại Hồng Kông.
Yersin là thành viên của "trường phái Paster”. Shibasaburo Kitasato, một nhà vi
khuẩn học người Nhật được huấn luyện tại Đức, thuộc "trường phái Koch" đối thủ,
lúc bấy giờ cũng tham gia tìm tác nhân gây bệnh của dịch hạch. Tuy nhiên chính
Yersin là người đã liên kết bệnh dịch hạch với Yersinia pestis. Vi khuẩn này lúc đầu
được gọi là Pasteurella pestis, và sau đó được đặt lại tên theo tên của Yersin.
Có 4 loại bệnh dich hạch và các triệu chứng lâm sàng:
Thời kỳ ủ bệnh của bệnh dịch hạch thường từ 1-6 ngày, đối với dịch hạch thể
phổi thời gian ủ bệnh ngắn hơn khoảng từ 2-4 ngày. Bệnh dịch hạch thường gặp ở
người gồm các thể bệnh: thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi và thể màng
não.
• Bệnh dịch hạch thể hạch (Bubonic plague) là loại bệnh dịch hạch thường gặp
nhất trong tự nhiên, chiếm hơn 90% các trường hợp mắc bệnh dịch hạch. Các triệu
chứng của bệnh này khởi phát nhanh và đột ngột, bao gồm sốt, những cơn lạnh run,
suy nhược, và đau đầu, buồn nôn. Bệnh chuyển sang giai đọan tồn phát các hạch
bạch huyết sưng, hay cịn gọi là “sưng bạch hạch” , hạch có thể to bằng ngón tay cái
hoặc bằng quả trứng gà, lúc đầu đau và cứng chắc, sau đó hạch mềm hóa mủ. Thể
hạch có thể tiến triển thành thể phổi hoặc thể màng não thứ phát.
• Bệnh dịch hạch gây nhiễm trùng huyết (Septicemic plague) là một căn bệnh
nhiễm trùng máu, ít gặp hơn. Bệnh này chiếm chưa tới 20% các trường hợp mắc
bệnh dịch hạch “tự nhiên”. Thường là thứ phát, thể hạch rất dễ tiến triển đột ngột

thành nhiễm khuẩn tối cấp với sốt cao khoảng 40-41°C, tình trạng nhiễm khuẩn,
Trang 7


Báo cáo về YERSINIA

nhiễm độc, huyết áp giảm, mạch nhanh, nhỏ vật vã, rối loạn tinh thần, hôn mê,
thường bệnh nhân chết trong vòng 3-5 ngày nếu ko được điều trị sớm.
• Bệnh dịch hạch thể phổi (Pneumonic plague) là loại bệnh dịch hạch nghiêm
trọng nhất nhưng thường ít gặp nhất trong tự nhiên. Bệnh này chiếm chưa tới 14%
các trường hợp mắc bệnh dịch hạch. Tuy nhiên, người ta tin rằng dạng bệnh dịch
hạch này chủ yếu là do tấn công khủng bố gây ra. Bệnh xuất hiện khi vi khuẩn xâm
nhập vào phổi và nhanh chóng gây ra một dạng bệnh viêm phổi nghiêm trọng. Các
triệu chứng của bệnh dịch hạch thể phổi bao gồm sốt cao, đau ngực, ho, thở dốc và
ho ra chất dịch có lẫn máu hoặc đờm, xuất hiện tràn dịch màng phổi, có biến chứng
phù phổi cấp. Nếu không được bắt đầu điều trị bằng thuốc trụ sinh trong vòng 24
giờ đồng hồ, bệnh nhân có thể nhanh chóng bị shock và tử vong. Đối với các bệnh
nhân không được điều trị ngay, tỷ lệ tử vong gần như là 100%. Các triệu chứng của
bệnh dịch hạch thể phổi thường xuất hiện trong vòng một hoặc hai ngày sau khi tiếp
xúc với vi khuẩn gây bệnh này.
• Bệnh dịch hạch thể màng não: luôn thứ phát sau thể hạch và nhiễm khuẩn
huyết, rất hiếm gặp.
Cách lây nhiễm:
Người ta bị nhiễm bệnh dịch hạch thể hạch từ thú vật đã nhiễm bệnh. Vi khuẩn
lây truyền qua các vết cắn của chấy/rận đã nhiễm bệnh, vết cắn hoặc cào của thú vật
đã nhiễm bệnh,hoặc do tiếp xúc trực tiếp với xác của thú vật đã nhiễm bệnh.
Con người bị nhiễm bệnh dịch hạch thể phổi do hít phải các hạt nước nhỏ li ti có
chứa vi khuẩn gây bệnh dịch hạch. Các hạt nước này bắn vào khơng khí khi người
bị nhiễm bệnh hoặc thú vật đã nhiễm bệnh ho. Tuy nhiên, khi bệnh dịch hạch được
sử dụng làm vũ khí, vi khuẩn gây bệnh dịch hạch có thể được chủ tâm thả vào

khơng khí.
Chẩn bệnh và điều trị :
Tính sinh bệnh là do hai kháng nguyên kháng thực bào F1 và VW; cả hai đều
cần thiết cho độc tính của vi khuẩn. Chúng được vi khuẩn sản xuất ra ở 37°C, điều
này giải thích tại sao một số côn trùng như bọ chét chỉ mang khuẩn khơng độc tính.
Hơn nữa, Y. pestis sống sót và sản xuất các kháng nguyên F1 và VW bên trong các
tế bào máu như bạch cầu đơn nhân mà khơng trong bạch cầu đa nhân trung tính.
Miễn dịch tự nhiên hay cảm ứng có được là do cơ thể sản xuất kháng thể opsonin
đặc hiệu chống lại các kháng nguyên F1 và VW. Chúng kích thích hiện tượng thực
bào ở bạch cầu trung tính.
Chẩn đốn xác định tác nhân gây bệnh trong phịng thí nghiệm bằng cách nhuộm
bệnh phẩm (nhuộm Wayson, Giemsa), ni cấy, thử phage, tìm kháng ngun F1
với 2 loại phản ứng ngưng kết hồng cầu thụ động và trung hồ kháng thể.
Phịng chống bệnh dịch hạch: đến nay chưa có vacxin phịng chống bệnh có hiệu
lực cao cho nên việc phòng chống dịch hạch chủ yếu là giám sát vật chủ, vector và
vi sinh vật; phát hiện sớm bệnh nhân và điều trị kịp thời bệnh nhân dịch hạch; điều
trị dự phòng với những người tiếp xúc và có nguy cơ lây bệnh; diệt chuột và diệt bọ
chét.
Tất cả các loại bệnh dịch hạch đều có thể điều trị được bằng thuốc trụ sinh.
Thuốc điều trị đặc hiệu: Streptomycine, Tetracycline, Chloramphenicol,
Trimethoprim / Sulfamethoxazol.

Trang 8


Báo cáo về YERSINIA

Tuy nhiên, những người mắc bệnh dịch hạch thể phổi phải được điều trị trong
vòng 24 tiếng sau khi các triệu chứng xuất hiện. Nếu không được chữa trị, bệnh dịch
hạch thể phổi gần như là luôn gây tử vong.

Thuốc lá chuyển gene và vắc-xin chống dịch hạch :
Kháng sinh có thể được sử dụng để chữa bệnh dịch hạch, nhưng các biện pháp
chữa trị chỉ có hiệu quả nếu bệnh được phát hiện sớm. Một vài chủng Y. pestis có
thể kháng thuốc kháng sinh, nên các nhà khoa học phải tìm kiếm các biện pháp sản
xuất hàng loạt câc loại vắc-xin mới. Luca Santi và Hugh S. Mason đã khám phá ra
loại vắc-xin phòng bệnh dịch hạch trong lá cây thuốc lá. Cây trồng chuyển gen là hệ
thống sản xuất vắc xin thay thế có hiệu quả, vì chúng có thể biểu lộ nhiều loại
prơtêin, cũng như thực hiện các thay đổi cần thiết để các loại prơtêin đó hoạt động.
Hệ thống cây trồng cũng ít khi chứa các loại vi khuẩn có thể là nguồn bệnh đối với
động vật. Và việc sản xuất đại trà các loại vắc-xin trên cây trồng cũng dễ dàng hơn.
Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học đã phân tích sự biểu thị của 2
prơtêin của Y.pestis trên cây trồng: kháng nguyên F1, tạo thành 1 phần của vỏ bao
ngồi tế bào Y.pestis, kháng ngun V, có tham gia vào quá trình gây bệnh, và hỗn
hợp của F1 và V. Các gen của 2 kháng nguyên này được đưa vào tế bào cây thuốc lá
bằng khuẩn Agrobacterium tumefaciens. Sau đó các prơtêin được tạo thành được
phân tích tính kháng nguyên và thử nghiệm trên chuột bạch.
Các nhà nghiên cứu thấy rằng: 1) cả 3 loại kháng nguyên trên đều biểu lộ ở mức
độ cao trên lá cây thuốc lá; 2) cả 3 loại prôtêin đều tạo ra phản ứng miễn dịch ở
chuột thí nghiệm; 3) sau khi xịt liều Y pestsis có chứa 100% độc tố vào chuột,
những con chuột được sử dụng vắc-xin có tỉ lệ sống rất cao sau 21 ngày, trong khi
những con chuột giả miễn dịch (sham-immunized) đều chết sau 6 ngày.
Cách phòng chống:
Tuyên truyền giáo dục cộng đồng thực hiện tốt công tác vệ sinh mơi trường, bố
trí và sắp xếp vị trí cũng như cấu trúc nhà ở và kho hàng hợp lý, quản lý lương thực,
thực phẩm, nuôi mèo, đặt bẫy, phá vỡ hang tổ chuột, khống chế, phá huỷ nơi sinh
sản của chuột, bọ chét, khi thấy chuột chết bất thường phải khai báo ngay với y tế cơ
sở. Các hiện tượng sốt, nổi hạch phải đến cơ sở y tế để khám và điều trị.
Bệnh dịch hạch có thể dùng làm vũ khí khủng bố:
Việc có thể sử dụng bệnh dịch hạch làm vũ khí đã được nghiên cứu trong ít nhất
là 60 năm. Theo hồ sơ báo cáo, người Nhật đã tìm cách sử dụng các quả bom nhỏ

(bom tiểu) để reo rắc chấy/rận đã nhiễm bệnh dịch hạch trong chiến tranh thế giới II.
Cả Hoa Kỳ và Liên Xô cũ đều đã nghiên cứu các phương pháp thả vi khuẩn dịch
hạch vào trong khơng khí trong những năm 50 và 60.
Bệnh dịch hạch được coi là có thể dùng làm vũ khí sinh học bởi vì:
• Vi khuẩn dịch hạch có thể được thả vào trong khơng khí, do đó chúng có thể
truyền bệnh cho rất nhiều người.
• Vi khuẩn được thả vào trong khơng khí sẽ gây ra bệnh dịch hạch thể phổi nguy
hiểm.
• Bệnh dịch hạch thể phổi có thể truyền từ người này sang người khác, do đó làm
căn bệnh càng lan rộng hơn.
• Bệnh dịch hạch thể phổi là một căn bệnh nghiêm trọng và có tỷ lệ tử vong cao.
• Nạn dịch hạch thể phổi sẽ gây ra cảm giác hết sức sợ hãi và hoang mang. Dấu
hiệu đầu tiên của một cuộc tấn công bằng bệnh dịch hạch thể phổi sẽ là rất nhiều
Trang 9


Báo cáo về YERSINIA

người cần chữa trị bệnh hô hấp nghiêm trọng, khoảng một tới hai ngày sau cuộc tấn
công. Tới lúc đó, vi khuẩn dịch hạch sẽ khơng cịn có trong khơng khí nữa. Nếu
khơng được điều trị nhanh chóng và tích cực, nhiều người đã tiếp xúc với vi khuẩn
dịch hạch này sẽ chết.

 BỆNH GIẢ LAO Ở BỒ CÂU (PSEUDOTUBERCULOSIS)
Bệnh giả lao ở các loài gia cầm và chim hoang, trong đó có bồ câu đã được biết
đến từ lâu (Riech, 1889), nhưng mãi đến 1904, Kynyoun (1904) mới phân lập được
vi khuẩn gây bệnh, gọi là Yersinia pseudotuberculosis (vi khuẩn giả lao).
Tác nhân:
Tác nhân gây bệnh giả lao ở bồ câu là Yersinia pseudotuberculosis. Vi khuẩn này
có các đặc tính gần giống vi khuẩn tụ huyết trùng nên còn gọi là Pasteurella

pseudotuberculosis. Vi khuẩn thuộc gram âm, trịn hai đầu, có kích thước 0,5x0,85µm, cịn gọi là vi khuẩn lưỡng cực vì khi nhuộm bắt màu sẫm ở hai đầu. Vi khuẩn
phát triển tốt trên môi trường thạch pepton, thạch máu có thêm một số axit amin và
thích hợp ở nhiệt độ 37°C.
Vi khuẩn dễ dàng bị diệt dưới ánh sáng mặt trời, ở nhiệt độ 60°C hoặc làm khơ.
Nhưng có thể bảo quản hàng năm trong mơi trường thạch để ở nhiệt độ lạnh.
Hiện có 6 serotype vi khuẩn đã được xác định là typ I, II, III, IV, V, VI và 8
subtyp gây bệnh cho một số loài chim và thú.
Các triệu chứng lâm sàng :
Chim bị nhiễm vi khuẩn chủ yếu qua đường tiêu hố. Vi khuẩn tồn tại và lưu
hành trong mơi trường tự nhiên và thức ăn. Chim ăn uống phải thức ăn nước uống bị
nhiễm vi khuẩn sẽ bị mắc bệnh. Vi khuẩn cũng xâm nhập vào cơ thể chim qua
đường hơ hấp, do hít thở khơng khí có vi khuẩn.
Vào cơ thể chim, vi khuẩn nhanh chóng xâm nhập vào hệ thống hạch lâm ba,
phát triển nhanh số lượng, rồi vào máu, đến các phủ tạng như gan, lách, phổi, thận
và ruột. Các trường hợp bệnh cấp tính, vi khuẩn tăng số lượng, rồi vào máu, đến các
phủ tạng như gan, lách, phổi, thận và ruột. Các trường hợp bệnh cấp tính, vi khuẩn
tăng số lượng rất nhanh trong máu, gây nhiễm trùng huyết. Khi đến các phủ tạng, vi
khuẩn sẽ tồn tại ở đó gây ra hiện tượng viêm nhiễm với các hạt nhỏ có chứa bựa
vàng xám, giống như các hạt lao dạng "lao kê". Các hạt này đơi khi cũng có ở tổ
chức cơ.
Chim nhiễm mầm bệnh có thời gian ủ bệnh ngắn, chỉ 1-2 ngày. Chim bệnh có
biểu hiện tăng thân nhiệt, bỏ ăn, niêm mạc tụ huyết đỏ sẫm, mắt nhắm, đứng ủ rũ,
thở khó, chảy nước mũi, nước mắt; sau đó xuất hiện ỉa chảy phân xanh vàng. Bệnh
tiến triển nhanh. Chim bệnh chết sau 2-4 ngày, từ khi xuất hiện các dấu hiệu lâm
sàng đầu tiên. Mổ chim bệnh thấy: bao tim có tụ huyết, đơi khi có dịch vàng; phổi,
lách, gan và các niêm mạc có tụ máu. Các phủ tạng và đơi khi ở cơ cịn có các hạt
giống hạt kê, hoại tử có màu vàng xám. Các trường hợp nhiễm trùng huyết thấy:
máu đỏ sẫm, chậm đông, các niêm mạc tím đỏ.
Dịch tễ học :
Trong tự nhiên, nhiều lồi gia cầm và chim trời bị bệnh giả lao như gà nhà, gà

rừng, ngỗng, vịt, gà tây, bồ câu, vẹt... Nhiều loại thú nhỏ cũng nhiễm
pseudotuberculosis như: khi, chuột lang, thỏ, chuột bạch... khi tiêm truyền thực
nghiệm.
Trang 10


Báo cáo về YERSINIA

Bồ câu non dưới một năm tuổi thường nhiễm vi khuẩn và bị bệnh thể cấp tính.
Bệnh thường phát tra và lây lan trong đàn chim khi thời tiết lạnh và ẩm ướt.
Chẩn đoán:
Chẩn đoán lâm sàng. Căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng và bệnh tính đặc trưng
để chẩn đốn: bệnh tiến triển nhanh với các triệu chứng như thở khó, chảy rãi
rớt,tiêu chảy phân xanh vàng hoặc vàng đục; mổ khám có các đám tụ huyết ở các
nội tạng; đặc biệt có các hạt nhỏ hoại tử có bựa vàng xám.
Chẩn đốn vi sinh vật. Phân lập, xác định vi khuẩn từ các mẫu bệnh phẩm là
dịch xuất tiết hoặc phủ tạng chim bệnh.
Điều trị:
Điều trị ít có hiệu quả, vì bệnh tiến triển nhanh. Khi phát hiện các dấu hiệu lâm
sàng đầu tiên thì chim đã bị rất nặng, khó chữa. Khi phát hiện một vài chim bị bệnh
thì cần phải điều trị có tính chất phịng ngừa cho tồn đàn.
Thuốc điều trị: Phối hợp hai loại: Kanamycin 2 gam, Tetracyclin 2 gam, nước
1000 ml, cho toàn đàn chim uống liên tục 3-4 ngày.Thuốc trợ tim mạch: tăng sức đề
kháng: cho uống hoặc trộn thức ăn các vitamin B1, K, A, D, E. Cho chim ăn thức ăn
dễ tiêu, bớt ăn các loại hạt.
Phịng bệnh:
Thực hiện cho chim ăn sạch, uống sạch.
Giữ gìn vệ sinh chuồng trại và môi trường sống của chim, cần làm vệ sinh và
tiêu độc theo định kỳ.
Khi có dịch xảy ra: Phát hiện sớm chim bệnh để cách ly điều trị hoặc xử lý, tránh

lây nhiễm cho đàn chim.
Tổ chức tiêm vacxin phòng bệnh cho đàn chim trưởng thành khi có vacxin
phịng bệnh giả lao.

 BỆNH GAN:
Thói quen của người Việt Nam ta hay ăn rau cải sống, gỏi cá sống, hải sản, thịt
tái, thịt chó, những món ăn thật ngon… nhưng khơng biết rằng đó là nguồn mang ký
sinh trùng: giun, sán: sán chó, sán lá gan… gây nên những bệnh gan nguy hiểm mà
việc điều trị đơi khi khơng phải dễ dàng.
Bệnh gan do nhiều lồi vi sinh vật gây nên trong đó có: Yersinia Enterocolitica.
Bệnh thường biểu hiện bởi viêm hồi đại tràng ở trẻ em, viêm hồi tràng đoạn cuối
hay viêm hạch mạc treo ở người lớn. Bệnh nhân có các triệu chứng liên quan đến
gan thường có kèm các bệnh tồn thân khác như: xơ gan, xơ gan, nhiễm sắc ở các
mô Thể nhiễm trùng huyết bán cấp thường giống như thương hàn hay sốt rét. Đa ổ
abces lan tỏa có ở gan, lách. Tỉ lệ tử vong khoảng 50%. Điều trị với
fluoroquinolone.

 BỆNH VIÊM RUỘT
Bệnh viêm ruột là gì?
Bệnh nhiễm vi khuẩn Yersinia ở ruột là một bệnh viêm ruột do một vi khuẩn (vi
trùng) gọi là Yersinia enterocolitica gây ra.
Vi khuẩn này được tìm thấy trong phân (đi tiêu) của người và thú vật bị nhiễm,
đặc biệt là ở heo.
Trang 11


Báo cáo về YERSINIA

Vi khuẩn Yersinia enterocolitica thường nhiễm bệnh ở trẻ em nhất.
Triêu chứng:

Các triệu chứng thường bắt đầu từ 3 đến 7 ngày sau khi bị nhiễm bệnh và bao
gồm: Tiêu chảy, đau bụng, sốt, một số các triệu chứng khác nhau như là buồn nơn và
ói mửa.
Đơi khi những người khơng có các triệu chứng bệnh, nhưng có thể chuyển vi
khuẩn trong phân của họ. Những người nào khơng có điều trị bằng thuốc kháng sinh
có thể chuyển vi khuẩn trong phân của họ từ 2 đến 3 tháng, ngay cả khi họ khơng có
các triệu chứng bệnh.
Cách lây nhiễm:
Người ta có thể bị nhiễm bệnh bằng cách ăn các thực phẩm bị ô nhiễm, đặc biệt
là thịt heo sống hoặc nấu chưa chín, sữa khơng được khử trùng, và qua tiếp xúc với
thú vật bị bệnh hoặc nước bị ô nhiễm.
Những người bị bệnh mà không rửa tay sạch sẽ sau khi sử dụng nhà vệ sinh có
thể lây truyền bệnh cho người khác.
Chẩn bệnh và điều trị:
Vi khuẩn có thể đưọc nhận dạng bằng một thử nghiệm cấy phân.
Trong những trường hợp nặng, một bác sĩ có thể cho toa thuốc kháng sinh để
điều trị bệnh nhiễm vi khuẩn Yersinia.
Phòng ngừa:
Đừng ăn thịt heo sống hoặc nấu chưa chín.
Chỉ nên uống sữa hoặc các sản phẩm sữa đã được khử trùng.
Rửa tay bằng xà bông và nước trước khi ăn và chuẩn bị thức ăn, sau khi tiếp xúc
với thú vật, và sau khi đụng đến thịt sống.
Sau khi xử lý ruột heo non, hãy rửa tay và các móng tay cho kỹ bằng xà bông và
nước trước khi đụng đến ấu nhi hoặc đồ chơi, chai sữa, hoặc núm vú cao su của
chúng.
Nếu quý vị làm ruột heo non, đừng chăm sóc trẻ nhỏ hoặc pha chế thức ăn hay
sữa của chúng trong quá trình này.
Dùng riêng thớt cho thịt và các loại thực phẩm khác.
Cẩn thận chùi rửa tất cả thớt, mặt quầy, và dụng cụ nấu nướng bằng xà bơng và
nước nóng sau khi chuẩn bị thịt sống.

Vứt bỏ phân thú vật theo đúng cách vệ sinh
LƯU Ý: Những người bị nhiễm vi khuẩn Yersinia không nên phụ trách thức ăn hoặc
cung cấp chăm sóc trẻ hay chăm sóc bệnh nhân trực tiếp cho đến khi khơng cịn các
triệu chứng bệnh.

Trang 12


Báo cáo về YERSINIA

D- SỰ XUẤT HIỆN TRONG THỰC PHẨM CỦA YERSINIA


Những người bị bệnh mà không rửa tay sạch sẽ sau khi sử dụng nhà vệ
sinh có thể lây truyền bệnh cho người khác.

Vi khuẩn Yersinia enterocoliticia được tìm thấy ở trong các sản phẩm
phân bón của thú ni, thú vật được thuần hố hay hoang dã. Do đó, Yersinia
enterocolicitica có thể được tìm thấy trong thịt, gia cầm, sữa chưa qua khử trùng,
các sản phẩm từ bơ sữa, đồ biển từ nước thải bị ô nhiễm, và các sản phẩm bón
vườn với phân thơ. Do đó, người ta có thể bị nhiễm bệnh bằng cách ăn các thực
phẩm bị ô nhiễm, đặc biệt là thịt heo sống hoặc nấu chưa chín, sữa khơng được
khử trùng, và qua tiếp xúc với thú vật bị bệnh hoặc nước bị ô nhiễm. Thực phẩm
cũng bị nhiễm do người chế biến thức ăn không rửa tay sạch sẽ trước khi cầm vào
thức ăn hay dụng cụ dùng để chế biến thức ăn.
Các trường hợp nhiễm Yersinia enterocolitica, có thể xác định được bằng cách
cấy và làm serotypes từ phân bệnh nhân và từ nguồn thực phẩm nghi ngờ hoại
nhiễm.
Nhiều trận dịch ngộ độc do thức ăn bị nhiễm độc tố tụ đã được ghi nhận. Phần
lớn các loại thức ăn này được làm bằng tay, chứa nhiều protein như thịt jambon, thịt

gà, vịt, khoai lang tây, xà lách trộn trứng, bánh ngọt có kem. Về phương diện cổ
điển, thức ăn bị nhiễm độc tố do người làm thức ăn có những ổ mủ trên da tay,
nhưng trên thực tế điều này chỉ đúng trong một số các trường hợp.
Gần đây tại Hoa Kỳ người ta cũng đã ghi nhận các vụ dịch do nhiễm phải
Yersinia enterocolitica do bệnh nhân ăn phải đậu hủ hoặc uống phải sữa tươi bị hoại
nhiễm(4).

Một số loại thực phẩm có nhiều khả năng nhiễm Yersinin:

 THỊT GÀ:
Giống như thịt bị và heo, thịt gà khơng có chất xơ, chất carbohydrate và chứa
nhiều chất cholesterol và chất béo bão hòa. Chất cholesterol trong thịt gà cũng bằng
khoảng như trong thịt bò là 25 milligrams một ounce. Bác sĩ Castilli nói rằng, mỗi
100 mg cholesterol, tức ăn khoảng 4 ounces thịt gà hằng ngày sẽ làm gia tăng hàm
lượng trong máu lên nửa chấm (0,5).
Giống như các loại thịt khác, chính trong thịt nạc gà đã có sẵn chất béo mà bạn
không thể nào loại bỏ được. Chất béo bão hịa saturated fat khơng tốt cho chúng ta,
nó đóng cục xung quanh bờ thành các mạch máu. Khi nó nhập vào cơ thể, sẽ được
biến đổi thành cholesterol qua sự kích thích của gan. Vì thế, ngay cả thịt gà nạc
"lean" cũng có một số lượng đáng kể chất béo bão hòa và chất cholesterol. So sánh
với thịt gà, thực phẩm rau đậu hồn tồn khơng có cholesterol.
Ngồi chất béo bão hòa và chất cholesterol, chất độc trong thịt gà là một vấn đề
nghiêm trọng. Theo Consumer Reports, "Có ít nhất là 5 phần trăm hội chứng thuốc
độc đã được thừa nhận và báo cáo." Tổ chức sức khỏe thế giới WHO (The United
Nations World Health Organization) cho biết khoảng 10% bệnh tật do thực phẩm
độc hại trên thế giới. Cơ quan phịng ngừa và kiểm sốt bệnh tật CDC của chính phủ
Trang 13


Báo cáo về YERSINIA


Hoa Kỳ cũng cho hay là những bệnh gây nên do thịt gà đã gia tăng 300% trong
khoảng từ năm 1988 đến năm 1992.
Theo một báo cáo của sở nghiên cứu kinh tế của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ thì
"những vi khuẩn sinh bệnh tật gồm virus, bacteria, parasites, và fungi trong thức ăn
đã gây nên 6,5 triệu đến 33 triệu người bệnh và có trên 9.000 tử vong mỗi năm tại
Hoa Kỳ. Chi phí hằng năm tốn khoảng 5,6 tỷ đến 9,4 tỷ dollars. Thịt là nguồn chính
dẫn đến số người bệnh và chết này."
Tài liệu báo cáo cũng nói rằng "Thực phẩm mang những vi khuẩn gây bệnh là
những loại chứa nhiều protein động vật, như thịt bị, heo, gà, cá, tơm, trứng và sữa
cùng các phó sản của sữa như cheese và bơ".
Trong số những bệnh gây nên bởi thực phẩm được xác nhận bởi CDC, trên 90
phần trăm là do chín loại bacteria. Thịt gia cầm (poultry) bao gồm thịt gà ta và gà
tây là nguồn cung cấp lớn nhất năm loại vi khuẩn Campylobacter jejuni hay coli,
Salmonella, Shigella, Yersinia, and Staphylococcus aureus.

 THỊT HEO:
Hầu hết các trường hợp nhiễm bệnh là do ăn phải
các thức ăn bị hư hỏng nhất là các sản phẩm thịt heo
sống hay chưa nấu chín. Sự chuẩn bị một bữa ăn với ruột
hay ruột non heo có thể là sự mạo hiểm lớn. Trẻ em
cũng có thể bị nhiễm nếu người giữ trẻ cầm vào ruột
non sống và không rửa tay kỹ trước khi bế đứa trẻ hay
cầm vào đồ chơi của đứa bé, chai lọ, hay núm vú giả.
Thức uống hư hỏng, sữa chưa được tiệt trùng, hay nước
chưa được xử lý cũng có thể truyền mầm bệnh. Đôi khi
sự lây nhiễm Yersinin enterocoliticia xảy ra sau khi tiếp xúc
với thú vật bị nhiễm. Ở trường hợp hiếm hơn, nó có
thể truyền vi khuẩn từ phân hay các ngón tay bẩn của
người này đến người khác. Nó có thể xảy ra khi những

thói quen vệ sinh cơ bản và thói quen rửa tay không được
thực hiện đầy đủ. Hiếm khi vi khuẩn được lây qua trong
quá trình truyền máu.
Thịt Heo Là 1 Nguồn Lây Nhiễm Yersinin Ở Người:
Thịt heo là một nguồn quan trọng góp phần vào sự lây
nhiễm Yersinin ở người. Vào năm 2000, một báo cáo ở
Đan Mạch đã từng cho rằng: một phòng thí nghiệm địa
phương đã thực hiện cuộc điều tra về thịt heo sống và
tìm ra rằng có 6.3% trên 96 mẫu được điều tra có kết
quả dương tính với Yersinin enterocoliticia. Tổng cộng có 265
trường hợp lây nhiễm với Yersinin enterocoliticia được báo
cáo ở Đan Mạch vào năm 2000. Hầu hết các mẫu phân
lập đều là serotype O:3. Vào năm 1985, có 1512 trường
hợp nhiễm Yersinin được phát hiện. Bởi vì hầu hết thịt heo
bán trong các chợ ở Đan Mạch đều bị nhiễm Yersinin
enterocoliticia serotype O:3. Ở Đan Mạch, nguyên nhân chính
của sự lây nhiễm Yersinin là do thịt heo.
Trang 14


Báo cáo về YERSINIA

Mỗi năm ở Mỹ, Yersinin enterocoliticia gây ra từ 3000
đến 20000 trường hợp nhiễm ở người. Trong trận dịch ở
Chicago, tác nhân gây nhiễm bệnh đường ruột được
chẩn đoán là Yersinin serotype O:3. Trận dịch được xác định
là do ruột non heo mà những đứa bé đã ăn. Tất cả 8
đứa trẻ bị nhiễm đều đã trực tiếp ăn ruột non heo,
hoặc cùng liên quan đến một nhà trẻ mà ở đó món
ruột heo này được chuẩn bị.

Ở Canada, Y.pseudotuberculosis từ sữa đã được nhận
dạng như là 1 nguyên nhân của trận dịch truyền nhiễm
Yersinin ở British Columbia vào năm 1998. Y.pseudotuberculosis
cũng đã đượïc phân lập trong heo và thịt heo ở Nhật.
Sự Thịnh Hành Của Yersinin Trong Các Trại Nuôi
Heo:
Thịt heo được xem như là 1 nguồn quan trọng,nếu không
phải là nguồn chính cho sự lây truyền yersinin ở người. Sự
tồn tại của Y.enterocolitica là khá cao trong những nông
trại nuôi heo trên toàn thế giới. Kết quả từ 1 cuộc
nghiên cứu chỉ đạo ở trường Đại Học của Guelph cho
thấy rằng xấp xỉ 39% trong 80 trại heo Ontario được kiểm
tra có kết quả dương tính với Yersinia. Sự tồn tại thật sự
trong bầy heo có thể còn cao hơn 39% bởi vì trong đợt
nghiên cứu này người ta chỉ mới kiểm tra trong các chợ
bán thịt heo.
Ở Đan Mạch, một cuộc khảo sát vào năm 1993 cho
thấy rằng 90% của bầy heo và 75% của heo thịt có xét
nghiệm máu dương tính với Yersinia. Năm 2000, những mẫu
phân thu được từ heo cho thấy 13% trong các chợ bán thịt
heo có kết quả dương tính với Y.enterocoliticia.
Báo cáo tỷ lệ % về sự phổ biến của Yersinin ở vài
quốc gia khác nhau trong khoảng từ 30% - 90%. Những con
số này chỉ ra rằng Yersinia là một trong những tác nhân
gây bệnh chính trong thực phẩm có trong thịt heo. Để
giảm, hay ngay cả tiêu diệt Y.enterocoliticia từ thịt heo,
công nghiệp thịt heo phải tiến đến một quy trình gắn
liền giữa chăn nuôi với cheá bieán.

Trang 15



Báo cáo về YERSINIA

E- CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA TRONG THỰC PHẨM
Phương pháp 1: Phương pháp nuôi cấy (Culture Methods)
Nguồn của Yersinia Enterocolitica có thể tác động rõ rệt đến phương pháp phân
lập. Thường thì sẽ dễ dàng hơn khi tìm phân lập lồi gây bệnh trong các mẫu bệnh
nhiễm độc riêng rẽ hơn là các mẫu thực phẩm không mang triệu chứng. Do số giống
Yersinia Enterocoliticia mang triệu chứng gây bệnh nhỏ và số giống sinh vật trong
quần thể lớn trong các mẫu thực phẩm, việc phân lập trực tiếp ngay trên môi trường
chọn lọc cũng hiếm khi thành công. Để phát triển số chuỗi Yersinia trong các mẫu
này, việc bổ sung vào mội trường lỏng trước khi phân lập trên môi trường rắn là cần
thiết. Một vài phương pháp phân lập khác nhau có giá trị cho việc phân lập Yersinia
Enterocoliticia được cho trong Bảng1

1. Làm lạnh (cold enrichment) :
Lồi psychrotrophic Yersinia Enterocoliticia có vẻ hiếm so với
Enterobacteriaceae khác. Do đó, việc bổ sung chất hịa tan khác nhau ở 4ºC trong
một khoảng thời gian dài được áp dụng để phân lập Yersinia spp. Làm giàu lạnh
trong PBS (photphate – buffersd saline) hay trong PSB (photphate – buffered saline
with sorbitol and bile salts) đựơc dùng rộng rãi cho các mẫu bệnh, thực phẩm, môi
trường. Làm giàu lạnh cũng có hiệu quả đối với mẫu phân. Tuy nhiên trở ngại lớn
nhất là sự hiện diện của yersinia Enterocoliticia không gây bệnh và vi khuẩn
psychrotrophic khác - đựơc thêm vào trong suốt q trình bổ sung, và gia đoạn ni
cấy dài (cụ thể là 21 ngày). Nếu dùng phương pháp làm lạnh với KOH (potassium
hydroxide) hệ thực vật nền tảng có khi sẽ giảm làm cho sự chọn lọc của khuẩn lạc ít
chặt chẽ hơn.
2. Làm giàu mơi trường chọn lọc (selective enrichment) :
Ở nhiệt độ cao, một vài môi trường chọn lọc cho việc phân lập Yersinia

Enterocoliticia sẽ tăng cường kèm theo các tác nhân kháng khuẩn khác nhau và
được sử dụng như các nguồn chọn lọc. Wauters đã trình bày rõ ràng MRB (modified
Rappaport broth) : chứa MgCl 2 (magnesium chloride), malachite green và
carbenicillin, mẫu này được nuôi ở 25ºC từ 2 – 4 ngày. Sau đó ơng tăng cường việc
bổ sung broth xuất phát từ modified Rappaport nền với vigasan, ticarcillin và
potassium chloride (ITC). Các môi trường này đều hữu ích trong việc phát hiện ra
chuỗi bioserotypr 4/O : 3. Schiemann đã thúc đẩy môi trường BOS (bile – oxalate –
Trang 16


Báo cáo về YERSINIA

sorbose) để phân lập yersinia Enterocoliticia, đặc biệt là chuỗi bioserotype 1B/O : 8.
Hai giai đoạn làm giàu được biết ít hơn là dựa trên TSB (tryptic soy broth). Landgraf
dùng TSB cùng với polymyxim và novobiocin (TSPN) và nuôi ở 18ºC trong 3 ngày
để tách Yersinia Enterocolitica trong sữa. Toora đã tạo nên 2 bước để tách Yersinia
Enterocoliticia từ thực phẩm ăn liền và thịt heo bằng cách giảm TSB có chứa men đã
chiết, muối mật và irgasan.
3. Thành phần Agar chọn lọc :
Rất nhiều môi trường có thành phần agar chọn lọc có giá trị cho việc phân lập
yersinia Enterocolitica từ các mẫu bệnh, thực phẩm và mơi trường. Đối với mơi
trường ruột bình thuờng, người ta sử dụng rộng rãi MacConkey (MAC) agar, CIN
agar (Cefsulodin – irgasan – novobiocin) và SSDC agar (Samonella – Shigella
deoxy cholate calcium chloride) được thúc đẩy để phân lập Yersinia Enterocoliticia.
Đây là 2 môi trường thường đựơc sử dụng cho các mẫu thực phẩm. CIN agar hầu
như đựơc chấp nhận trong các mẫu bệnh bởi tốc độ nhanh và độ chọn lọc cao. Tuy
nhiên, hầu hết các chuỗi Yersinia Enterocoliticia bioserotype 3/O:3 gây bệnh thường
bị kìm hãm khi các mẫu có mơi trường CIN được tiêm phịng.
Ba loại agar chọn lọc khác : agar BABT4, VYE, KV202 cũng được tăng cường
nhưng sử dụng không rộng rãi. SSI (Statens Serum Institute) – môi trường ruột - một

môi trường tổng quát để khám phá loài gây bệnh đường ruột cũng rất hiệu quả đối
với việc phát hiện Yersinia spp.
4. Nhận dạng :
Devenish và Schiemann đã xác định được độ tối thiểu của hai lồi nghiên cứu
sinh hóa Kigler iron và Christensen urea. Chúng được yêu cầu phải xác định
Yersinin giữa các loài vi khuẩn với hình thái khuẩn lạc quen thuộc trên agar CIN.
Yersinia Enterocoliticia còn được xác định bởi các phương pháp vi sinh như sự lên
men sucrose, rhamnose và melibiose.
Hệ thống API 20E cũng được dùng rộng rãi cho việc nhận dạng sự phân lập
Yersinin một cách chắc chắn và chính xác. Hệ thống này có tốc độ nhận dạng chính
xác lên đến 93% đối với Yersinia Enterocoliticia ni ở 28oC thay vì 37oC.
Phương pháp 2: Phương pháp lai khuẩn lạc (Coliony Hybridization

Methods)
Sự phân lập loài Yersinia enterocoliticia gây bệnh rất tỉ mỉ, khó khăn, tốn nhiều
thời gian, có khi chiếm đến 4 tuần.Vì vậy, một vài thí nghiệm đã áp dụng các
phương pháp nhanh và đáng tin cậy để phát hiện chuỗi yersinia gây bệnh từ các mẫu
bệnh, mẫu thức ăn và môi trường. Bằng cách dùng những mẫu xét nghiệm có trộn
lẫn DNA với giống Yersinia gây bệnh được phát hiện, dùng que dò nhằm vào
plasmid và DNA độc hại có liên quan trong nhiễm sắc thể.
Que dị dựa vào trình tự nucleotid từ gen virF và yadA trên plasmid độc hại :
+ Gen virF đã được điều chỉnh đóng vai trị chủ yếu trong nhiệt cảm ứng của
các yếu tố và thành phần có nhiễm độc.
+ Gen yadA là tác nhân gây độc chủ yếu của Yersinia Enterocoliticia giải mã
các chất hoạt động bề mặt của protein màng ngoài.
+ Goverde đã đưa ra phương pháp pha trộn các lồi là dùng que dị nhắm vào
gen ail hoặc inv mang nhiễm sắc thể.
Trang 17



Báo cáo về YERSINIA

+ Gen inv của Yersinia Enterocoliticia giải mã để cho phép vi khuẩn xâm
chiếm các mô tế bào. DNA tương ứng được tìm thấy trong tất cả các giống Yersinia
Enterocoliticia. Những vi khuẩn không gây bệnh không chứa chuỗi inv mang chức
năng.
+ Durisin lại đưa ra một phương pháp bao gồm gen yst đựơc tìm thấy trong
Yersinia Enterocoliticia ( khơng có trong Yersinia pseudotuberculosis va Yersinia
pestis). Gen này có chứa độc tố bền nhiệt trong ruột. Trong những lồi Yersinia
khác, Yersinia kristensenii có DNA tương ứng với yst.
Việc lai các khuẩn lạc không yêu cầu phải tạo mơi trường ni cấy sạch, việc
này có thể phát hiện nhanh chóng và liệt kê tất cả các lồi sinh vật gây bệnh. Tuy
nhiên một quần thể mang tính chất cao (high background flora) sẽ làm giảm hiệu
quả lai bởi vì những tế bào quan trọng phát triển một cách không khỏe mạnh đầy đủ
trong sự hiện diện của quần thể thực vật đối kháng. Dù vậy, Nesbakken đã tìm ra và
chứng minh đựơc số lượng của Yersinia Enterocoliticia gây bệnh trong sản phẩm
thịt heo Norwegian có giá trị cao khi kiểm tra bằng phương pháp lai khuẩn lạc hơn
bằng phương pháp nuôi cấy.
Phương pháp 3: Phương pháp PCR (PCR-Based Detection Methods)
PCR (Polymerase Chain Reaction) là phản ứng chuỗi trùng hợp. PCR là một
kỹ thuật phổ biến trong sinh học phân tử nhằm khuyếch đại (tạo ra nhiều bản sao)
một đoạn DNA mà không cần sử dụng các sinh vật sống (E. coli, nấm men). PCR
được sử dụng trong các nghiên cứu sinh học, y học, thực phẩm…

Trang 18


Báo cáo về YERSINIA

PCR là một phương pháp đầy hứa hẹn để phát hiện vi khuẩn gây bệnh trong

những mẫu bệnh, mẫu thực phẩm và môi trường. Phương pháp này nhanh hơn
phương pháp lai khuẩn lạc bởi vì sự phát triển độc lập các lồi trước khi phân tích là
khơng cần thiết. Những xét nghiệm PCR khác nhau đã tạo nên việc phát hiện
Yersinia Enterocoliticia gây bệnh trong các mẫu tự nhiên.
1. Gen mục tiêu ( target genes)
* Một vài xét nghiệm PCR đã được phát triển để phát hiện pYV dương tính
Yersinia Enterocoliticia trong những mẫu bệnh, thực phẩm và môi trường. Phương
pháp này sử dụng primers nhằm vào gen virF và yadA định vị trên pYV. Viitanen đã
ứng dụng primers đặc biệt cho plasmid độc hại khoá mã gen yopN của Yersinia
Enterocolitica O:3. YopN bị ảnh hưởng bởi sự kiểm sốt của Yop giải phóng ra
Yersinia Enterocoliticia gây bệnh. Arnold đã trình bày rõ ràng và chính xác xét
nghiệm bằng phương pháp PCR dựa trên gen yopT đã gây ra ảnh hưởng độc tố
trong đại thực bào (macrophages).
* Bởi vì plasmid có thể bị mất trong q trình nuôi cấy và bảo quản, phương
pháp PCR nhằm vào các gen độc hại mang nhiễm sắc thể. Gen ail định vị trên
nhiễm sắc thể của giống Yersinia Enterocoliticia gây bệnh hầu như thường xuyên
được sử dụng làm gen mục tiêu. Thêm vào đó một vài xét nghiệm được tạo ra để
phát hiện gen inv và gen yst. Weynants đã đẩy mạnh phương pháp PCR để phát hiện
Yersinia Enterocoliticia O:3 trong các mẫu phân, primers được hình thành để mở
rộng một đoạn của gen rfbC. Yersinia - một phần đặc biệt của gen 16S rRNA được
sử sụng để phát hiện Yersinia spp, đặc biệt là trong các mẫu máu.
* Rất nhiều phương pháp PCR đựơc tạo ra để phát hiện nhiều hơn gen
Resinia Enterocoliticia cùng một lúc. Sự kết hợp thường xuyên nhất trong các xét
nghiệm PCR đa thành phần là virF và ail. Trong những phương pháp này, các mẫu
đã nhiễm pYV âm và dương tính đã được tách riêng có thể được phát hiện đồng
thời. Lantz đã phát minh ra một phương pháp PCR đa thành phần để đồng thời phát
hiện gen yadA mang plasmid và một phần Yersinia đặc biệt của gen rRNA 16S. Hai
phương pháp đa thành phần sử dụng việc hoà lẫn primers đối kháng inv, ail, virF và
cũng được tạo ra để phát hiện Yersinia Enterocoliticia và Yersinia
pseudotuberculosis trong thực phẩm và nước. Harnett đã đẩy mạnh phương pháp

PCR phức tạp để phát hiện gen yst, ail, virF đồng thời trong các mẫu phân.
Weynants đã kết hợp gen rfbC, inv, ail và virF trong xét nghiệm bằng phương pháp
PCR đa thành phần để so sánh, đánh giá, phân biệt sự khác nhau của Yersinia
pseudotuberculosis, Yersinia Enterocoliticia gây bệnh và Yersinia Enterocoliticia
O:3 trong phân.
2. Sự chuẩn bị mẫu :
Mặc dù kỹ thuật PCR mang lại hiệu quả tối ưu đối với môi trường nuôi cấy
vi khuẩn thuần khiết nhưng độ nhạy sẽ bị giảm khi nó áp dụng trực tiếp vào các mẫu
tự nhiên. Một nguyên nhân quan trọng là : đây là sự hợp thành phức tạp của nhiều
mẫu như phân, máu, phomai, gà và đất, chính điều này có thể ức chế phương pháp
PCR. Proteinases – enzym phá huỷ cấu trúc polymer của DNA sẽ trở thành một
nhóm quan trọng của chất ức chế phương pháp PCR trong nhiều mẫu vi khuẩn. Ảnh
hưởng của sự kìm hãm phương pháp PCR của mẫu phân được gây ra bởi một vài
chất, trong đó có một chất được biết đến là muối mật.
Sự ức chế phương pháp PCR được quan sát trong mẫu máu bị gây ra chủ yếu
bởi heme và có thể giảm bớt khi thêm vào huyết thanh Albumin của trâu bò.
Trang 19


Báo cáo về YERSINIA

Sự ức chế phương pháp quan sát trong thịt heo bị gây ra chủ yếu bởi những
phân tử bền nhiệt và có thể đi qua bộ lọc 0.2 µm.
Vì vậy các bước chuẩn bị mẫu khác nhau sẽ tạo ra các kết quả khác nhau.
Một vài phương pháp, chẳng hạn như bổ sung, pha loãng, lọc, li tâm, hấp phụ
đã được sử dụng cho việc tập trung và phân chia giống Yersinia Enterocoliticia trong
các mẫu tự nhiên. Bước bổ sung trước khi thực hiện ngiên cứu bằng phương pháp
PCR sẽ làm gia tăng độ nhạy và đảm bảo cho việc phát hiện những tế bào có thể tồn
tại đựơc, bước này được áp dụng cho hầu hết các phương pháp. Để hạn chế sự phát
triển, gia tăng của các quần thể đặc trưng, việc chọn lọc bổ sung broth cũng đựơc sử

dụng. Từ khi bề mặt thực phẩm là hướng chủ yếu của việc nhiễm khuẩn, thì cách
tiến hành trao đổi nhẹ nhàng ( không bị phá hoại) để bổ sung Yersinia
Enterocoliticia trước khi tiến hành phương pháp PCR sẽ làm giảm lượng DNA
không đặc hiệu lấy từ thực phẩm và những nhân tố gây ức chế trong lưới thức ăn.
Bước pha loãng được yêu cầu trong các mẫu nhiễm nặng để làm giảm số
lượng hợp chất gây ức chế và giảm sự tập trung cao vào các DNA khơng chính yếu.
Waage đã chứng minh rằng việc pha lỗng sau khi làm giàu qua một đêm đơi khi lại
cần thiết trước khi phân tích vi khuẩn để đạt được kết quả PCR chắc chắn, có lẽ bởi
vì sự ức chế bởi hàm lượng DNA cao trong broth giàu dinh dưỡng.
Bước li tâm thường được sử dụng để tập trung giống Yersinia Enterocoliticia
trước khi tiến hành phương pháp PCR. Trở ngại chính trong q trình li tâm là việc
cùng tập hợp các mẫu gây ức chế với nhau kèm theo sinh vật muốn hướng đến. Mật
độ li tâm nổi trên bề mặt đựơc sử dụng để tập trung các giống Yersinia
Enterocoliticia và để giảm bớt các chất ức chế phương pháp PCR.
Quy trình chia cắt đựơc sử dụng trong vài nghiên cứu để tập trung và phân
cắt Tersinia Enterocoliticia O:3 từ những chất ức chế phương pháp PCR.
Sự lọc được sử dụng để tập trung giống Yersinia Enterocoliticia trong mẫu nước.
3. Các mẫu thực phẩm :
Thực phẩm thường trở thành nguồn chủ yếu của sự lây nhiễm Yersinia
Enterocoliticia, mặc dù việc tách các loài gây bệnh hiếm khi đựơc phát hiện, khám
phá từ các mẫu thực phẩm.
Thịt heo sống đựơc kiểm tra rộng rãi do sự liên kết Yersinia Enterocoliticia 4/O:3
và loài heo. Tuy nhiên, tốc độ tách riêng các loài gây bệnh của Yersinia
Enterocoliticia sẽ chậm trong thịt sống ngoại trừ gan, thận heo… Trong những
nghiên cứu này, việc bổ sung chọn lọc trong ITC và MRB hầu như được sử dụng.
Các giống Yersinia Enterocoliticia dựa vào bioserotypes liên kết với bệnh ở người
đã đựơc khám phá chỉ một vài lần từ mẫu thịt bò, gia cầm và sữa. Trong các trường
hợp này, sự lây nhiễm chéo có khả năng xuất hiện trong suốt tiến trình, trong q
trình đóng gói và điều khiển từ lúc giống Yersinia Enterocoliticia gây bệnh chưa
từng được khám phá từ trâu bò và gia cầm sống.

Sự xuất hiện của Yersinia Enterocoliticia gây bệnh trong một vài thực phẩm
đựơc ước lượng, đánh giá bởi cả phương pháp nuôi cấy và phương pháp PCR. Trong
tất cả những nghiên cứu này, phương pháp PCR chiếm ưu thế hơn, thể hiện độ nhạy
cao hơn trước đây cho những mẫu lây nhiễm tự nhiên. Đối với thịt heo bị lây nhiễm
nhân tạo, Boyapalle đã cho thấy xét nghiệm TaqMan nhằm vào gen ail từ 100 –
1000 lần hiệu quả hơn xét nghiệm bằng phương pháp PCR truyền thống với sự phát
hiện chất gel và nếu 10000 lần sẽ hiệu quả hơn phương pháp nuôi cấy. Visnubhatla
cũng dùng xét nghiệm TaqMan nhưng thay gen ail bằng gen yst. Đây là lần đầu tiên
Trang 20


Báo cáo về YERSINIA

yst dương tính Yersinia Enterocoliticia được phát hiện trên từng phần quanh thịt bị,
trong đó tốc độ phân lập Yersinia Enterocoliticia đựơc nâng lên. Cấp độ lây nhiễm
của những sản phẩm này cao một cách rõ rệt, bởi vì phương pháp ni cấy xác định
Yersinia Enterocolitica chỉ khi nào là 106 CFU hoặc nhiều sinh vật trong 1gam có
mặt. Sự xuất hiện Yersinia Enterocoliticia gây bệnh cũng diễn tả sự hiệu quả của xét
nghiệm bằng phương pháp PCR hơn là phương pháp nuôi cấy.
4. Chiết DNA :
DNA được chiết từ tế bào bị thuỷ phân bởi thành tế bào giải phóng DNA
hoặc bằng quy trình lọc DNA một cách chặt chẽ. Nhiệt độ thường xuyên dùng trước
khi tiến hành phương pháp PCR để phá vỡ thành tế bào của vi khuẩn và khơng hoạt
hố những chất gây ức chế phương pháp PCR kém bền nhiệt. Tuy nhiên khi nghiên
cứu các mẫu tự nhiên, một mình biện pháp nhiệt độ sẽ không đủ cho Yersinia
Enterocoliticia. Biện pháp proteinase K hầu như đựơc dùng chủ yếu trước khi thực
hiện phương pháp nhiệt trong phương pháp PCR, từ đó phát hiện trực tiếp Yersinia
Enterocoliticia trong các mẫu tự nhiên. Proteinase K gây thoái hoá protein thành tế
bào, protein ức chế phương pháp PCR và polypeptids trong mẫu, ngồi ra cịn chống
lại sự nhiễm DNase bền nhiệt. Yersinia Enterocoliticia khống chế nhân hoạt động để

phá vỡ sản phẩm PCR, điểu này có thể được ngăn chặn bởi proteinase K trước khi
tiến hành PCR. Dickinson đã nêu được rằng: bằng cách gia tăng lượng proteinase K
từ 0.2 – 1 mg/ml và sử dụng thành phần isopropanol kết tủa của DNA, Yersinia
Enterocolitica có thể được phát hiện trực tiếp một cách hiệu quả trong các mẫu gà
sống và phomai.
Việc tinh chế DNA đựơc thực hiện bởi việc chiết phenol – chloroform truyền
thống và kết tủa ethnol trong một vài mẫu PCR đẩy mạnh để phát hiện Yersinia
Enterocoliticia trực tiếp trong các mẫu tự nhiên. Tuy nhiên, thực sự thì phương pháp
này hao tốn thời gian và khơng thích hợp cho số lượng lớn các mẫu. Rất nhiều dụng
cụ tinh chế DNA có giá trị để phân lập DNA nhanh hơn và dễ dàng hơn. Trong số đó
có một vài dụng cụ đựơc dùng trong xét nghiệm PCR đối với Yersinia
Enterocoliticia.
5. Phát hiện các sản phẩm khi tiến hành phương pháp PCR :
Phương pháp chủ yếu dùng để phát hiện sản phẩm khi tiến hành phương pháp
PCR của Yersinia Enterocoliticia là điện di trong chất gel điện di. Việc này sẽ cho ra
kích cỡ và số lượng của sản phẩm cũng như là đánh giá khái quát kết quả. Tuy nhiên
khó có thể đảm bảo đựơc rằng phương pháp PCR giải mã đúng trình tự giữa các
primers. Hơn nữa, ethidium bromide -chất gây biến dị- cũng làm thay đổi màu của
gel điện di và khơng thích hợp cho việc kiểm tra thực phẩm đều đặn trong phịng thí
nghiệm. Để khắc phục vấn đề này, Rasmussen phát hiện các sản phẩm Yersinia
Enterocoliticia mở rộng hơn bằng cách giữ các sản phẩm có dùng sự lai chủng
oligonucleotid cố định. Các sản phẩm khi tiến khi tiến hành bằng phương pháp PCR
đựơc cố định trong những giống microtiter và đựơc phát hiện dưới ánh huỳnh
quang. Gần đây, xét nghiệm PCR 5’ – nuclease (TaqMan) khơng cịn u cầu phát
hiện chất gel điện di mà dùng để phát hiện trực tiếp Yersinia Enterocoliticia trong
các mẫu thực phẩm và mẫu máu. Với phương pháp fluorogenic này, que dò được
thiết kế để pha trộn phần bên trong của chuỗi đang hướng đến. Khi đó, thuốc nhuộm
dính chặt và có khả năng phát ra ánh huỳnh quang.

Trang 21



Báo cáo về YERSINIA

6. Kết quả dương tính giả :
Khi sử dụng phương pháp PCR truyền thống (tiến hành vài bước bằng tay)
kết quả sẽ xuất hiện dương tính giả dựa trên lây nhiễm chéo có thể là một vấn đề
nếu sự phịng ngừa đặc biệt khơng đựơc đề cập đến. Một số nhiễm bệnh khi xét
nghiệm bằng phương pháp PCR có thể là dương tính giả. Tuy nhiên các kết quả
dương tính giả này có thể đựơc kiểm tra với một số lượng điều chỉnh vừa đủ. Kết
quả dương tính giả có thể gây ra nếu primers khơng tương xứng đặc hiệu khi nhiệt
độ thấp đựơc sử dụng hoặc khi chuỗi gen được nhắm đến cũng được phát hiện là
chuỗi khơng nhiễm bệnh. Grant đã tìm ra giống khơng nhiễm biotype 1A ở Yersinia
Enterocoloticia thỉnh thoảng chuỗi đồng đẳng trên nhiễm sắc thể nhiễm bệnh trên
các gel ail, myf, yst. Kết quả dương tính giả là do tế bào chất tránh được sử dụng để
làm giàu trước khi tiên hành phương pháp PCR. Những điều này bảo đảm cho phát
hiện tế bào có thể tồn tại và làm tăng độ nhạy. Rasmussen đã chứng minh rằng biện
pháp làm giàu môi trường là cần thiết trước khi tiến hành phương pháp PCR để tăng
độ nhạy khi mẫu nhiễm bệnh tự nhiên đựơc nghiên cứu. Biện pháp làm giàu trước
cũng được sử dụng thường xuyên ở Yersinia Enterocoliticia nhiễm bệnh để phát
hiện trong các mẫu tự nhiên.
7. Kết quả âm tính giả :
Kết quả âm tính giả khi sử dụng phương pháp PCR có thể xảy ra thường
xuyên hơn kết quả dương tính giả khi nghiên cứu các mẫu tự nhiên. Lý do chính của
kết quả âm tính giả là sự có mặt của các yếu tố kìm hãm trong các mẫu thực phẩm.
các mơi trừờng làm giàu cũng có thể gây cản trở việc phát hiện bằng phương pháp
PCR. Thậm chí một lượng nhỏ MgCl 2 được phát hiện bằng cả ITC và MRB broths
có thể kìm hãm phương pháp PCR. Để khắc phục vấn đề này, Knutsson đã phát triển
một mơi trường PCR tương thích cho Yersinia Enterocoliticia. Tuy nhiên, phương
pháp này khơng dễ khắc phục các chất kìm hãm phương pháp PCR do các mẫu tự

nhiên chưa được nhận thức đúng mức. Kết quả âm tính giả được gây ra bởi các chất
kìm hãm trong các mẫu có thể đựơc kiểm tra bằng việc điều khiển bên trong. Kết
quả âm tính giả thỉnh thoảng có thể là ngun nhân bởi chuỗi hỗn tạp các gen nhắm
đến trên các giống Yersinia Enterocoliticia khác nhau.
KẾT LUẬN
Phương pháp phân lập không hiệu quả là nguyên nhân chủ yếu cho sự không
phổ biến của Yersinia Enterocoliticia gây bệnh trong những nghiên cứu trước đây.
Việc phát hiện giới hạn cho Yersinia Enterocoliticia gây bệnh là từ 10 3 – 106 CFU
hoặc nhiều sinh vật trong 1gam mẫu. Vì vậy, mẫu agar Yersinia chọn lọc cũng đánh
giá khơng đầy đủ. Hơn nữa, các lồi Yersinia Enterocoliticia không gây bệnh xuất
hiện cùng lúc với Yersinia Enterocolitica gây bệnh. Điều này làm khó khăn để đánh
giá các lồi.
Khi nguồn dinh dưỡng bổ sung khơng đầy đủ, chúng chứa những tác nhân gây ức
chế sự phát triển của một vài chuỗi gây bệnh. Do đó, lý do tại sao hầu như lúc nào
cũng phát hiện giống Yersinia Enterocoliticia ( bioserotype 4/O:3) chính là phương
pháp phân lập sự đa dạng loài này.
Xét nghiệm bằng phương pháp PCR cung cấp sự đánh giá việc xuất hiện
Yersinia Enterocoliticia gây bệnh trong các mẫu bệnh, thực phẩm, môi trường tốt
hơn là phương pháp nuôi cấy. Hiện nay phương pháp PCR nhanh và hiệu quả để xác
định và liệt kê Yersinia Enterocoliticia gây bệnh trong các mẫu tự nhiên. Sự cải tiến
sau này trong xét nghiệm PCR tập trung vào việc hợp nhất sự kiểm soát bên trong
Trang 22


Báo cáo về YERSINIA

một cách chắc chắn và phát triển khả năng tự động của tồn bộ tiến trình, từ đó sẽ
nâng cao sự hữu ích của các phương pháp trong phịng thí nghiệm và trong nghiên
cứu trong cơng nghệ thực phẩm. Khi mẫu trở nên tự động, số lần dùng mẫu thủ công
sẽ giảm xuống và sự lây nhiễm sẽ ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, phương pháp phân lập

hiệu quả cũng rất cần bởi nếu khơng có phân lập các giống Yersinia Enterocoliticia,
sẽ khơng có giống nào đựơc diễn tả, các thông tin quan trọng về sự lan truyền cũng
sẽ bị bỏ qua.

Trang 23



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×