Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Bai tạp luật tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.91 KB, 8 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP MÔN: LUẬT TTDS

Câu hỏi số 3: Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự.

Bắc Giang, tháng 05 năm 2020


1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS
1.1. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong
những nguyên tắc cơ bản và quan trọng để họ tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình trong q trình tham gia tố tụng. Đây được xem là nguyên tắc
có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó các quan hệ dân sự
được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu
trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể.
Từ khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự :“Là một quyền tố tụng được
quy định trong pháp luật TTDS, theo đó đương sự có quyền tự quyết định về việc
tham gia TTDS, tự quyết định và sử dụng những biện pháp cần thiết mà pháp luật
trao cho nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp tại Tòa án theo quy định
của pháp luật”. Từ đó cho thấy, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự chính
là sự ghi nhận về mặt nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS, đây
được xem là những quyền năng cơ bản của các đương sự khi tham gia vào hoạt
động tố tụng, chính vì vậy pháp luật quy định quyền tự định đoạt của đương sự là
một trong nhưng nguyên tắc cơ bản và quan trọng đối với đương sự nói riêng và
trong hoạt động TTDS nói chung.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một kết luận: “Nguyên tắc quyền tự


định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của
luật TTDS Việt Nam, theo đó đương sự có quyền tự do thể hiện ý chí của mình
trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, quyết định các quyền, lợi ích của mình trong q trình giải quyết
vụ việc dân sự và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực
hiện được quyền tự định đoạt của họ trong TTDS”.
1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Nguyên tắc quyên tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm
khác của pháp luật TTDS thì ngun tắc này cịn mang những ý nghĩa riêng của
nó:
Thứ nhất, việc Nhà nước thể chế hóa quyền tự định đoạt của đương sự là
một nguyên tắc quan trọng trong pháp luật TTDS là sự khẳng định pháp luật thực
sự đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện bằng hành vi của mình
quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của họ và việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của chính mình.
Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì
ngun tắc này cịn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong
việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự, tòa án chỉ tiến hành giải quyết vụ
việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, điều đó đồng nghĩa với việc Tịa án sẽ
khơng được xem xét và giải quyết vụ việc dân sự khi khơng có u cầu của đương
sự. Quy định trên đã góp phần giúp Tịa án xác định được trách nhiệm của mình
trong việc thực hiện chức năng xét xử.

2


Thứ ba, hoạt động xét xử có vai trị rất lớn trong việc ổn định trật tự pháp
luật, giữ vững kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của mọi người… Việc quy

định nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS càng khẳng định
quan điểm nhất quán của nhà nước ta đó là đương sự được quyền tự do thể hiện ý
chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Nhờ đó mà các hoạt động xét xử đảm bảo được tính
đúng đắn, khách quan và phát huy được vai trò của hoạt động này đối với việc ổn
định trật tự kỉ cương xã hội.
2. Pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS
Nguyên tắc quyền tự định đoạt được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản
của đương sự được ghi nhận cụ thể tại Điều 5 BLTTDS 2015 với tên gọi quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn u cầu đó.
2. Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của luật và khơng trái đạo đức xã hội.”.
Từ đó, thơng qua quy định trên, có thể nhận định rằng quyền tự định đoạt
của đương sự trong pháp luật TTDS được thể hiện một cách cụ thể qua những khía
cạnh pháp lý sau:
2.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi
ích của mình
2.1.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự,
yêu cầu giải quyết việc dân sự
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận tại điều
186 BLTTDS 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại
Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Bên cạnh đó, điều 187 cũng quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích cơng cộng và lợi ích của Nhà
nước. Nhà nước đã chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan tổ
chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ thể
khác.
Đối với việc dân sự, tuy khơng có tranh chấp trực tiếp giữa các bên, nhưng
người yêu cầu việc dân sự cũng phải chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự.
Họ được quyền đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Tuy nhiên u cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu
Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt hoặc công nhận các quyền, nghĩa vụ của họ.
2.1.2 Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố
của bị đơn

3


Theo khoản 4 Điều 72 BLTTDS 2015 thì bị đơn có quyền “Đưa ra yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề
nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có
quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này”. Và tại
Điều 200 BLTTDS 2015 cũng quy định rất cụ thể và chi tiết về các điều kiện cũng
như là thời điểm mà bị đơn được phép đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn.
Như vậy, quyền quyết định và tự định đoạt phản tố của bị đơn chỉ được thực hiện
khi có những mối ràng buộc nhất định với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Mặt
khác, quyền quyết định và tự định đoạt phản tố của bị đơn chỉ được thực hiện tại
những thời điểm trong những giai đoạn tố tụng nhất định theo quy định tại khoản 3
Điều 200 BLTTDS 2015.
2.2.3 Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan
Trong TTDS, khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quy

định tại Khoản 4 Điều 68 BLTTDS 2015, họ là người tuy không khởi kiện, không
bị kiện nhưng việc giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa
án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng và họ cũng có quyền thể hiện sự tự định
đoạt của mình thơng qua việc đưa ra u cầu độc lập được quy định tại điều 201
BLTTDS 2015 khi đáp ứng đủ những điều kiện sau:
- Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
- Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
- Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc
giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
2.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút
yêu cầu và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự
2.2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút
yêu cầu
Theo quy định tại Điều 244 BLTTDS 2015, khơng chỉ có ngun đơn có
quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện mà bị đơn cũng có quyền thay đổi,
bổ sung, rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng có quyền
thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng giai đoạn
của TTDS mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có thể được Tịa án chấp
nhận hay khơng chấp nhận.
Trước khi mở phiên Tịa sơ thẩm, quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu là quyền
tuyệt đối của đương sự, theo đó việc đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
không bị hạn chế. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quyền tự định đoạt của
đương sự trong vấn đề thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu sẽ bị hạn chế, điển hình
như tại phiên Tịa sơ thẩm, theo quy định tại khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015,
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự chỉ được chấp nhận nếu việc thay đổi,
bổ sung không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn
hoặc yêu cầu độc lập ban đầu, hay trước khi mở phiên Tòa phúc thẩm hoặc tại
phiên Tòa phúc thẩm, nguyên đơn chỉ được phép rút đơn khởi kiện khi có sự đồng
ý của bị đơn( theo quy định tại Điều 299 BLTTDS 2015), đây được xem là quy


4


định nhằm góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự khác
trong quá trình tham gia tố tụng.
Đặc biệt, pháp luật TTDS hiện hành có quy định các trường hợp thay đổi địa
vị tố tụng khi các đương sự trong vụ án tiến hành rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập theo quy định tại Điều 245 BLTTDS 2015 nhằm góp phần
đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự cũng như bảo vệ được các quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác tham gia tố tụng.
Xét về bản chất, mặc dù yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan làm phát sinh một quan hệ pháp luật mới
khác với quan hệ pháp luật mà nguyên đơn yêu cầu, tuy nhiên, việc tiến hành giải
quyết các yêu cầu của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nêu trên
đều giống như việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng thể hiện quyền tự định đoạt của mình thơng qua
việc bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu phản tố, u cầu độc lập mà mình đã đưa ra
trước đó trong từng giải đoạn theo quy định của pháp luật.
2.2.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ
việc dân sự
Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động, các bên đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết tranh chấp dân sự ở bất cứ một giai đoạn nào trong TTDS. Cùng với đó, hịa
giải được xem là một trong những thủ tục có ý nghĩa rất quan trọng nhằm giúp đỡ
các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp đã phát sinh.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS 2015 thì: “Tịa án có trách nhiệm tiến hành
hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Tuy nhiên, việc hòa giải
phải đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, xuất phát từ ý chí chủ quan, tự

nguyện của chính đương sự, khơng ai có thể cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa
thuận trái với ý muốn của họ. Tịa án chỉ cơng nhận thỏa thuận của các đương sự
nếu thỏa thuận đó là phù hợp với các quy định của pháp luật, khơng xâm phạm tới
quyền và lợi ích của các chủ thể khác ( quy định tại khoản 2 Điều 205 BLTTDS
2015).
Quyền tự định đoạt của đương sự còn thể hiện ở quyền tự thỏa thuận, dàn
xếp, thương lượn với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án sau khi Tòa án
đã thụ lý. Trong trường hợp này, Tịa án khơng phải là người chủ động đưa vụ án ra
hòa giải mà các đương sự tự thương lượng, thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ
án. Việc các đương sự tự thỏa thuận với nhau về giải quyêt vụ án có thể được thực
hiện ở mọi giai đoạn trong quá trình tố tụng.
2.3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định
của Tòa án.
2.3.1 Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn
người đại diện, ngươi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Theo quy định tại Điều 75 BLTTDS 2015, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đương sự có quyền nhờ luật sư hoặc người khác mà tòa án chấp
nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền

5


và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự được pháp luật tố tụng tơn trọng. Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải đảm bảo các điều kiện quy
định tại khoản 2 Điều 75 BLTTDS 2015 . Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay
đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự do hai bên quyết
định. Như vậy, một lần nữa quyền tự định đoạt của đương sự lại được thể hiện và

nội hàm của nó đều hướng tới lợi ích của đương sự.
2.3.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết
định của Tịa án
Có thể thấy, theo quy định tại Điều 271 BLTTDS 2015 thì: “Đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Theo đó, những phần
của bản án, quyết định bị kháng cáo thì chưa được thi hành mà cần phải được Tòa
án cấp phúc thẩm xem xét và giải quyết theo trình tự phúc thẩm”. Từ đó, quyền
kháng cáo là phương tiện pháp lý quan trọng và là một trong những nội dung của
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, quyền này bị giới hạn
bởi những quy định của pháp luật về đối tượng có quyền kháng cáo theo quy định
tại Điều 271 BLTTDS 2015 và thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273
BLTTDS 2015. Mặt khác, đương sự cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo theo Khoản 2, Điều 284 BLTTDS 2015: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại
phiên tịa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện
kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng khơng được
vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng
nghị đã hết“.
Đương sự, người đại diện của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
kháng cáo bản án, quyết định, hành vi tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc tại
phiên tịa cấp sơ thẩm khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định, hành vi tố tụng
đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong thể hiện thông qua
việc kháng cáo là một trong những quyền tố tụng quan trọng, bảo đảm cho đương
sự có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như phát hiện,
khắc phục, sửa chữa những sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc.
2.4. Trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo thực hiện quyền tự định

đoạt của đương sự trong TTDS
Bên cạnh việc quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham
gia tố tụng, BLTTDS 2015 vẫn tiếp tục kế thừa và quy định rõ trách nhiệm của Tòa
án trong việc đảm bảo cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của đương
sự trong TTDS.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS 2015 quy định: “… Tòa án chỉ
thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và
chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Quy định này được

6


hiểu rằng Tòa án chỉ được quyền thụ lý giải quyết VVDS khi có đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu của đương sự. Nếu như khơng có đơn khởi kiện, u cầu của của
đương sự thì Tịa án khơng được phép thụ lý và giải quyết bất kì vụ việc nào. Quy
định trên đã chứng tỏ pháp luật TTDS luôn luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của
đương sự, việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định đoạt
của đương sự
Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết, Tịa án chỉ xem xét vụ việc “trong
phạm vi yêu cầu” của đương sự mà không được phép giải quyết thiếu hoặc vượt
quá phạm vi yêu cầu của đương sự. Trách nhiệm của Tịa án đó là giải quyết đúng
và đầy đủ yêu cầu của đương sự, đảm bảo cho đương sự được thực hiện quyền tự
định đoạt, không hạn chế các đương sự thực hiện các quyền này. Nếu các đương sự
chưa hiểu, chưa biết mình có quyền và nghĩa vụ tố tụng gì thì Tịa án cần phải giải
thích cho họ biết các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ, từ đó giúp đương sự thực
hiện tốt hơn quyền tự định đoạt của mình, có như vậy thì mới đảm bảo được
ngun tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ việc dân sự cũng như đảm
bảo nguyên tắc đó được thực thi trên thực tiễn.
3. Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền
định đoạt của đương sự trong TTDS

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS
Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây cho thấy, nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS đang ngày càng được quan tâm và coi trọng
hơn bao giờ hết. Trong q trình giải quyết vụ án, Tịa án đều tạo điều kiện thuân
lợi để các chủ thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ TTDS nên trên thực tế,
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS đã được thực hiện khá
tốt. Theo tinh thần của Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc bảo đảm cho đương sự thực
hiện quyền quyết định và tự định đoạt luôn được tôn trọng . Tuy nhiên, trong lĩnh
vực này pháp luật nước ta được áp dụng vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
- Việc BLTTDS quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên
tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn theo quy định tại
khoản 1 Điều 299 BLTTDS 2015 là vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự. Bởi
nói đến tự định đoạt tức là pháp luật cho đương sự quyền quyết định khởi kiện, hay
tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình, cho nên việc đương sự rút đơn khởi
kiện ở bất kì giai đoạn nào cũng là hình thức thực hiện quyền tự định đoạt của
mình, do đó quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại giai đoạn phúc thẩm phải
hỏi ý kiến của bị đơn sẽ không đảm bảo được quyền tự định đoạt của đương sự.
- Địa vị tố tụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là
khác nhau. Nhưng hiện nay pháp luật tố tụng lại chưa có quy định cụ thể và sự
khác biệt về địa vị tố tụng của hai chủ thể này nên việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn nhiều vướng mắc
- Hiện nay BLTTDS quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và việc
dân sự khác nhau, nhưng lại không quy định thủ tục chuyển hóa trong việc giải
quyết giữa các vụ việc dân sự dẫn đến làm phức tạp hóa q trình giải quyết các vụ

7



việc cụ thể, gây khó khăn cho đương sự trong việc định đoạt bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình.
- Do đương sự khơng hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp luật nên không
thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ TTDS. Trên thực tế, có khơng ít trường hợp đương
sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi đã hết thời hiệu khởi
kiện nên bị trả lại đơn. Hoặc có đương sự thực hiện quyền kháng cáo, đối với bản
án, quyết định của Tịa án trong nhiều trường hợp khơng đúng thời hạn do pháp
luật quy định nhưng đương sự vẫn kháng cáo.
3.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS
- Nên quy định rõ ràng và cụ thể hơn nữa sự khác biệt về địa vị tố tụng của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có yêu cầu độc lập, bởi khi tham gia tố tụng với
những quyền và nghĩa vụ khác nhau thì vai trị của các chủ thể sẽ khác nhau.
- Không nên quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại tòa phúc
thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn. Bởi nó sẽ vi phạm nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự; do trong các tranh chấp dân sự, đương sự được quyền tự mình
quyết định yêu cầu hay khơng u cầu Tịa án giải quyết, thì họ cũng có quyền
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc tồn bộ các yêu cầu khởi kiện của mình ở mọi
giai đoạn tố tụng.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
và trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự. Theo hướng có sự chuyển hóa từ loại
việc này sang loại việc kia, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đương sự khi
tham gia vào quá trình tố tụng để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
- Nhà nước cần đẩy mạnh cơng tác tun truyền pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật trong nhân dân.
Như vậy nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một
trong những nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của pháp luật TTDS. Đây được xem là

một nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đó chính là lý do mà nguyên tắc
này đã rất được chú trọng xây dựng và hoàn thiện ngay từ khi cơ quan tư pháp của
nhà nước Việt Nam mới được thành lập.

8



×