Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa MácLê Nin về xây dựng nền văn hóa XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.72 KB, 25 trang )

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành cho bài thảo luận này, trước hết chúng em xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc đến cô Tạ Thị Vân Hà đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tận
tình nhóm chúng em trong suốt quá trình học trên lớp cũng như là giải quyết những
vấn đề khó khăn xảy ra. Những kiến thức từ các bài giảng của cô là giá trị cốt lõi
để em có thể từ đó mà hồn thành bài thảo luận này một cách đầy đủ, trọn vẹn
nhất.
Ngoài ra nhóm chúng em cũng xin cảm ơn tất cả các nguồn tham khảo, trích
dẫn trên Internet, những người đã bỏ ra công sức và thời gian tạo nên những bài
viết xúc tích, ngắn gọn như vậy cho chúng em - những người cịn thiếu kĩ năng và
thiếu sót.
Cuối cùng là một lời động viên đến nhóm chúng ta: Cảm ơn các bạn đã không
lười biếng và trễ nải. Mỗi người đều chung tay đóng góp, bàn luận góp ý, chỉnh
sửa, phân cơng nhau rất hợp lí và chặt chẽ góp phần làm cho bài thảo luận thêm
đầy đủ.
Tuy nhiên, do kiến thức cịn hạn hẹp khơng tránh khỏi những thiếu sót trong
cách diễn đạt, trình bày hay dẫn ý phù hợp. Chúng em rất mong nhận được những
lời đóng góp ý kiến chân thành của cơ và các bạn trong lớp để chúng em có thể
hồn thành bài tiểu luận một cách xuất sắc nhất.
Xin trân trọng cảm ơn!

2


LỜI MỞ ĐẦU
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin”
Lời chỉ giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở chúng ta phải trung


thành, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, với lý tưởng XHCN mà nhân dân ta đang
thực hiện. Mặc dù có những biến động to lớn của tình hình, sự tiến công của các
thế lực thù địch, nhưng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn là cơ sở, phương pháp luận để giải quyết và soi sáng những vấn đề cơ bản của
thời đại chúng ta, của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay,
chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đại hội XI: “Đảng phải nắm vững,
vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề
ra” Và đặc biệt quan điểm của Mác- Lê nin về vấn đề xây dựng nền văn hóa
XHCN ln đóng một vai trò thật sự quan trọng trong nền phát triển của nước nhà.
Vậy làm thế nào để có thể xây dựng nền văn hóa XHCN? Để nhà nước có thể
quản lý mọi hoạt động văn hóa, xã hội bằng những chính sách đầu tư, khuyến
khích sự phát triển tồn diện các hoạt động văn hóa, xã hội theo mục tiêu phục vụ
lợi ích của nhân dân, xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa? Để biết
được điều đó, chúng ta trước hết phải tìm hiểu rõ về quan điểm của Mác về vấn đề
này. Chính vì vậy, chúng em mới cùng nhau thảo luận, tìm hiểu, nghiên cứu đề tài:
“Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin về xây dựng nền văn hóa XHCN” để mọi
người có thể hiểu sâu cũng như rút ra những bài học cho riêng mình, cố gắng phát
huy năng lực, góp phần nào giúp cho đất nước phát triển, tiên tiến hơn.

3


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LENIN
VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XHCN
I. Quan niệm cơ bản về nền văn hóa và văn hóa
1. Định nghĩa nền văn hóa và văn hóa
Khái niệm “văn hố” có một nội hàm hết sức phong phú, bởi vậy cho đến nay
có khá nhiều định nghĩa. Tự nhiên, nếu nhìn từ góc độ bao qt nhất, có thể định

nghĩa: Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong lịch sử nhờ lao động của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong
từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Theo khái niệm trên, có thể nói: cái cốt lõi của văn hố chính là hệ giá trị đóng
vai trị làm cơ sở cho việc xây dựng nên một nền văn hoá nhất định, như: nền văn
hố phương Đơng, phương Tây, văn hố Hy Lạp, văn hoá Phục Hưng Tây Âu,…
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện xã hội có giai cấp
thì nội dung của vãn hố cũng có tính giai cấp. Từ đó có thể nói tới các khái niệm
theo tính giai cấp đó, như khi nói: nền văn hố tư sản, nền văn hố vơ sản hay nền
văn hố xã hội chủ nghĩa,...
Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện
trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ
bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”.
Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
• Văn hóa vật chất: Là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết
tinh trong sản phẩm vật chất.
• Văn hóa tinh thần:


4


+ Là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống
tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
+ Là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí, ngun
tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối
hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được

con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình
+ Là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và những phương thức thỏa
mãn nhu cầu đó.
=> Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những
năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó,
văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt
động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.
Ngồi ra văn hóa còn bao gồm cả văn học nghệ thuật, khoa học, triết học, phong
tục, tôn giáo,… Khi xã hội phát triển hơn thì văn hóa cũng phát triển và xuất hiện
thêm một số thuật ngữ: văn hố gia đình, văn hố ngơn ngữ, văn hố giao tiếp, văn
hố dịch vụ, văn hố quản lý. => Nó như là một u cầu bức thiết địi hỏi về chất
lượng, về sự hồn thiện, về tính nhân văn trong mọi hoạt động của con người, và ở
ngay bản thân con người
=> Như vậy, có thể thấy khái niệm văn hố có nội hàm sâu rộng với những ý
nghĩa tích hợp tồn bộ hoạt động của con người với tư cách là chủ thể hoạt động
trong mọi lĩnh vực của thực tiễn xã hội. Hạt nhân trung tâm của khái niệm văn hoá
là hoạt động sáng tạo, hoạt động hướng đích khẳng định nhân tính của con người
với tư cách là chủ thể có ý thức, có trí tuệ, và nó được thể hiện trong cả ba quan
hệ tương tác cơ bản: văn hoá và tự nhiên; văn hoá và xã hội; văn hoá và con
người.
Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người
nên sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế,
chính trị của mỗi chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và chính trị
ấy sẽ khơng thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa.
=> Văn hóa trong xã hội có giai cấp mang tính giai cấp.
(Đây cũng là quy luật của xã hội có giai cấp, vì rằng phương thức sản xuất tinh
thần, văn hóa khơng thể khơng phản ánh và không bị chi phối bởi phương thức sản
xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác
5



nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các nền văn
hóa khác nhau.)
2. Tính chất nền văn hóa
+ Tính nhân loại phổ biến: văn hóa là của con người phục vụ lợi ích và nội dung
nhân đạo giá trị nhân văn và dân chủ. Do đó việc giao lưu văn hóa giữa các dân tộc
trở thành một quy luật trong sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc.
+ Tính giai cấp: bản chất là giai cấp cầm quyền
+ Tính kế thừa: mang tính giai cấp và nó được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi
thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh tế, chính trị của nó
Một nền kinh tế lành mạnh: nguyên tắc công bằng, hướng đến đời sống người
lao động  xây dựng một nền văn hóa tinh thần lành mạnh.
Kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa cịn chính trị sẽ là yếu tố quy định
khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn
hóa.
+ Tính dân tộc: được thể hiện rõ nhất ở việc phản ánh khát vọng của dân tộc Việt
Nam, đó là khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, khát vọng hịa bình.
Đời sống tâm hồn, tình cảm, mọi mối quan hệ riêng chung của người dân Việt Nam
mấy chục năm qua đều xoay quanh khát vọng ấy. Và từ khát vọng trở thành lý
tưởng, hành động của cả một thế hệ. Các loại hình văn nghệ dân gian được gìn giữ
và lưu truyền như chèo, tuồng, cải lương, ca trù, ví, giặm, hát then, nhã nhạc cung
đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên… cùng các sinh hoạt, tập tục, lễ hội trong đời
sống của người Việt hàng ngàn năm được lưu truyền, phục dựng… đã chứng tỏ sức
sống lâu bền và bản sắc của văn hóa Việt Nam.
+ Nói về tính khoa học của văn hóa, nền văn hóa của chúng ta suốt 7 thập kỷ qua
đã đưa đến một tư duy khoa học cho mọi tầng lớp nhân dân, giúp nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, ứng dụng KHKT vào sản xuất và đời sống,
bài trừ hủ tục lạc hậu, đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Điều cần quan tâm
nhất hiện nay là cơng tác quản lý di tích, lễ hội, thiết chế văn hóa, dịch vụ viễn
thơng và Internet, dịch vụ giải trí… cần được quản lý một cách khoa học, văn minh

hơn.

6


+ Văn hóa là các giá trị tinh thần và vật chất do nhân dân Việt Nam sáng tạo nên và
trở lại phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân. Tính đại chúng của văn hóa Việt
Nam vì thế thể hiện ở mục đích phục vụ đơng đảo quần chúng nhân dân, tạo nền
tảng tinh thần cho xã hội. Các loại hình văn hóa nghệ thuật, các lễ hội, hệ thống
thiết chế văn hóa, di sản văn hóa… do nhân dân dày công sáng tạo và vun đắp đã
phát huy tác dụng, phục vụ đời sống nhân dân trong thời kỳ kháng chiến cũng như
trong công cuộc xây dựng hiện nay. Tuy nhiên, trong thời đại phát triển vũ bão của
cơng nghệ thơng tin, nếu khơng có cách tiếp nhận, khơng có phương pháp tổ chức
và tun truyền thì các hoạt động văn hóa sẽ rất khó lịng thu hút được đông đảo
nhân dân tham gia, nhất là với giới trẻ.

II. Quan niệm cơ bản về nền văn hóa XHCN
1. Định nghĩa về nền văn hóa XHCN
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, văn hóa ln trong q trình phát triển
và có sự biến đổi khơng ngừng theo qui luật vận động, phát triển từ thấp đến cao.
Sự thay đổi từ một nền văn hóa này bằng một nền văn hóa khác ln diễn ra và là
một hiện tượng thường xuyên trong lịch sử xã hội. Sự ra đời của nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tập hợp các phương thức, cơ chế, tổ chức
và thiết chế xã hội trong hoạt động sáng tạo, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa
nhằm đáp ứng ngày càng tơt các nhu cầu tinh thần của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn xã hội, trên cơ sở hệ tư tưởng Mác Lenin, chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
nhân dân lao động là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ mọi giá trị văn
hóa.

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là sự phát triển tự nhiên, hợp qui luật khi phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa đã hình thành, là nền vàn hoá được xây dựng trên cơ sở hệ giá trị tư tưởng
cách mạng của giai cấp cơng nhân; có sự kế thừa, tiếp thu chọn lọc đối với những
tinh hoa văn hoá đã được con người sáng tạo ra trong lịch sử.

7


=> Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hố có bản chất giai cấp khác căn bản
so với các nền văn hố trước đây (thí dụ nền vàn hố tư sản), thế nhưng nó lại là sự
tiếp tục của sự phát triển văn hoá mà nhân loại đã sáng tạo ra. V.I. Lênin đã từng
nhấn mạnh rằng: “Văn hóa vơ sản khơng phải bỗng nhiên mà có nó khơng phải do
những người tự cho mình là chun gia về văn hóa vơ sản phát minh ra... Văn hóa
vơ sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà lồi
người tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và
xã hội của bọn quan liêu”.
Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề
chính trị ( sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền ) và tiền đề kinh tế ( chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được
thiết lập ). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
lĩnh vực đời sống tinh thần và nền văn hóa vơ sản hay cịn gọi là nền văn hóa mới
xã hội chủ nghĩa được xây dựng.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên
nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo nhằm
thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân, đưa nhân dân lao động trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để trên tất
cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa… chính vì vậy, Lênin đã khẳng định

sự thay thế nền văn hóa tư sản bằng nền văn hóa vơ sản là một sự thay đổi lớn về
tư tưởng, “lịch sử tư tưởng là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là
lịch sử của đấu tranh tư tưởng”
2. Nội dung cơ bản của nền văn hóa XHCN
Việc xây dựng nền văn hoá XHCN bao gồm những nội dung chính sau:
- Một là cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội
mới.
Theo LêNin “CNXH sinh động , sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng
nhân dân”.Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần , trí lực, tư
tưởng …càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng CNXH.Do đó, nâng
8


cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội dung cơ bản của
nền văn hố xã hội chủ nghĩa.Trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng
đối với công cuộc xây dựng CNXH.
=> Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lao động có chất lượng và bồi dưỡng nhân tài,
hình thành và phát triển đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa vừa là nhu cầu cấp bách,
vừa là nhu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
- Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện.
+ Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã
sáng tạo ra lịch sử.Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, trong mọi thời đại sự hình thành
và phát triển co người ln gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội.Mỗi
xã hội có những nấc thang phát triển khác nhau của sự tiến bộ đều cần đến những
mẫu người nhất định, có năng lực đáp ứng nhu cầu của sự phát triển.Chính vì vậy,
mỗi giai cấp cầm quyền của mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau khi đã ý thức được về
xã hội mà mình tạo dựng, thì trước tiên giai cấp đó phải quan tâm đến việc xây
dựng con người.
+ Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, thì việc xây dựng con
người mới đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng XHCN trở thành một yêu cầu

tất yếu.Do đó xây dựng con người mới phát triển toàn diện của xã hội mới là một
trong những nội dung cơ bản của văn hố vơ sản, của nền văn hố XHCN.
+ Con người mới XHCN được xây dựng là con người phát triển tồn diện. Đó là
người có tinh thần và năng lực lao động thành công CNXH, là con người lao động
mới, là con người có tinh thần u nước chân chính và tinh thần quốc tế trong
sáng, là con người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao.
- Ba là xây dựng lối sống mới XHCN :
+ Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác
nhau, là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật
chất, tinh thần và xã hội con người , là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế
xã hội và có tác động đến hình thái kinh tế xã hội đó.Lối sống mới XHCN là một
đặc trưng có tính nguyên tắc của XHCN và việc xây dựng lối sống mới tất yểu trở
thành một nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
9


+ Lối sống mới XHCN đựoc xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản
của nó.Đó là chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu tồn dân giữ vai
trị chủ đạo , ngun tắc phân phối theo lao động, quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, hệ tư tưởng khoa học cách mạng của giai cấp cơng nhân giữ vai trị chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, xố bỏ tình trạng băt bình đẳng dân tộc,
giới tính thể hiện cơng bằng mở rộng dân chủ.
- Bốn là: Xây dựng gia đình văn hố xã hội chủ nghĩa.
+ Gia đình là một hình thức cộng đồng đặc biệt, ở đó con người chung sống với
nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hơn nhân và quan hệ huyết thống.Gia
đình là một giá trị văn hoá của xã hội .Văn hố gia đình ln gắn bó, tương tác với
cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định
của mỗi quốc gia dân tộc nhất định.
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng gia đình văn hóa, điều trước tiên là phải xây

dựng được cơ sở kinh tế - xã hội của nó. Gia đình văn hóa từng bước được xây
dựng cùng với tiến trình phát triển của cơng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong q trình đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa
có tác động trực tiếp và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ quyết định nhất
đến việc xây dựng gia đình văn hóa.
+ Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hóa là nhằm góp phần xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ giữa gia đình
và xã hội. Gia đình là "tế bào" của xã hội, mỗi gia đình hịa thuận, hạnh phúc, ổn
định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định, lành mạnh của xã hội; và ngược lại, xã
hội phát triển ổn định, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho gia đình ấm no, hạnh phúc.
Hơn nữa, xét về mối quan hệ lợi ích thì trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của gia đình
và lợi ích của xã hội có sự phù hợp về cơ bản.
+ Gia đình văn hóa là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển trên cơ sở giữ
gìn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ những yếu tố lạc hậu,
những tàn tích của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, tư bản chủ nghĩa, đồng
thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại về gia đình.
+ Có nhiều nội dung quan trọng cần phải thực hiện trong q trình xây dựng gia
đình văn hóa. Tuy nhiên, với tính chất cơ bản của gia đình trong chủ nghĩa xã hội,
thì việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình

10


với xã hội là nội dung quan trọng nhất. Mối quan hệ trong gia đình là một bộ phận
của quan hệ xã hội, đồng thời là biểu hiện của quan hệ xã hội.
- Năm là: Xây dựng và phát triển nền giáo dục quốc dân nhằm mục tiêu nâng cao
dân trí, trình độ học vấn cho nhân dân; tiến hành xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức mới xã hội củ nghĩa phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. Tính chất về nền văn hóa XNCN

- Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung c ốt lõi, gi ữ vai trò
chủ đạo, quyết định phương hướng phát triển của nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa.
- Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hố được hình thành, phát
triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
thơng qua tổ chức đẳng cộng sản, có sự quản lí của nhà n ước xã h ội
chủ nghĩa.
- Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
- Tính triệt để, tồn diện của cách mạng XHCN đòi h ỏi ph ải thay đ ổi
phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh
thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của XHCN.
- Có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu s ắc. Trong ti ến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và h ưởng th ụ văn
hố khơng cịn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột.
Cơng cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh v ực
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội từng bước tạo ra ti ền đ ề v ật ch ất
và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây d ựng n ền văn hoá
mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hố đó.
- Nền văn hố XHCN là nền văn hố có sự kế thừa đối với nh ững tình
hoa của lịch sử văn hố các dân tộc trên thế giới.
4. Vai trò của nền văn hóa XHCN
+ Văn hóa là động lực của sự phát triển
+ Khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người và huy động sức
mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát triển xã hội.

11


+ Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển: Phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên

ngoài => bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, lâu bền.
+ Văn hóa là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử
phát triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia nào,
con người cũng đều đóng vai trị quyết định với q trình sản xuất, mà trước hết,
họ là một thực thể văn hóa. Tố chất con người (tinh thần yêu nước, trình độ khoa
học cơng nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý nghĩa quyết định
làm nên sức mạnh của văn hóa ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và do đó ở thời kỳ hiện
đại, nói đến tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia, người ta không chỉ nói tới tài
nguyên thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định là văn hóa, được thể hiện
qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người ở quốc gia đó...
Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân - thiện - mỹ,
văn hóa có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất của mọi thành viên
xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách để đóng góp
vào sự nghiệp phát triển của dân tộc.
Văn hóa vừa phản ánh đời sống hiện thực con người và xã hội, vừa thúc đẩy sự
phát triển, sự hoàn thiện nhân cách, làm phong phú và sâu sắc thêm các giá trị nhân
bản, nhân đạo và nhân văn của đời sống xã hội.
5. Đặc trưng của nền văn hóa XHCN
 Cơ sở vật chất- kĩ thuật của XHCN là nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Chỉ
nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra
càng nhiều của cỉa vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật
chất và văn hóa của nhân dân, khơng ngừng nâng cao phúc lợi cho tồn dân.
Nền cơng nghiệp hiện đại đó đã phát triển dựa trên lực lượng sản xuất, ở những
nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”
trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa để tưng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa
xã hội.
 Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã được xóa bỏ ở XHCN, thiết lập chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu: Bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Nếu chế độ này được củng cố, hoàn thiện:

12


 Đảm bảo thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển
 Xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội => Làm cho mọi
thành viên trong xã hội gắn bó với nhau vì lợi ích căn bản.
 CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Quá trình xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt
động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân.
Chính bản chất và mục đích đó cần phải tơt chức lao động và kỷ luật với phù
hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư
của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
 Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động nguyên tắc phân phối lao động
cơ bản nhất.
=> Bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo và
hưởng thụ . Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao
theo nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng theo lao động”.
 Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới:

+ Mang bản chất giai cấp cơng nhân, tình nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc, thực hiện quyền lợi và lợi ích của nhân dân.
+ Do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc
nhà nước, đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác tự quản của
nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình
rõ hơn.
 CNXH giúp giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột, thực hiện cơng bằng

bình đẳng tiến độ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển

toàn diện nhất là phát triển lối sống XHCN, làm cho mọi người phát huy tính
tích cực của mình trong cơng cuộc xây dựng XHCN.
 Xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình

trạng nơ dịch và áp bức dân tộc, thực hiện sự công bằng và bình đẳng xã hội.
 Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của CNXH nói lên tính ưu việt và
do đó CNXH là một xã hội tốt đẹp lí tưởng ước mơ của toàn thể nhân loại.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân, là nền
tảng tư tưởng và giữ vai trị chủ đạo quyết định phương hướng phát triển nội dung
của nền văn hố xã hội chủ nghĩa. Vai trị chủ đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin đối
với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động
thực sự trở thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng
13


này phản ánh bản chất giai cấp công nhân và tính đảng của nền văn hố xã hội chủ
nghĩa.
- Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua tổ chức Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn
đề có tính ngun tắc, là nhân tố quyết định trước tiên đối với việc xây dựng nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa khơng hình thành và phát
triển một cách tự phát, trái lại, nó phải được hình thành và xây dựng một cách tự
giác, có sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mọi sự coi
nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà
nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ
dẫn đến làm mất phương hướng chính trị của nền văn hoá- nền tảng tinh thần của
xã hội.
- Nền văn hố xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn
hố khơng cịn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Cơng cuộc cải

biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội
từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây
dựng nền văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hoá đó.
6. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa XHCN
Đất nước ta đang trong thời kì q độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, vì thế việc xây
dựng một nền Văn hóa xã hội Chủ nghĩa cũng là điều tất yếu, tất yếu trịn q trình
cải tạo tâm lí, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng
nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc hậu.
Mặt khác, xây dựng nền văn hóa XHCN là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa
quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa tinh thần. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu dài của q
trình xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, về thực chất, đây cùng chính là
cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản
và hệ tư tưởng vơ sản trong q trình phát triển xã hội.
Tính triệt để, tồn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thay đổi
phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp
với phương thức sản xuất mới của xã hội chủ nghĩa. Tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định phương thức sản xuất tinh
thần, phương thức sản xuất mới XHCN ra đời thì việc xây dựng nền văn hóa mới
14


XHCN cũng đồng thời diễn ra nhằm thay đổi bản chất của ý thức xã hội phù hợp
với việc xác lập quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Việc bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến tới XHCN của những người đứng đầu thế
giới là vô cùng đúng đắn, nhưng lại gặp mn vàn khó khăn từ những nguyên nhân
khác nhau từ chủ quan đến khách quan, để chống lại những tư tưởng đả phá nhà
nước, ta cần làm rõ vì sao việc quá độ lên XHCN là hồn tồn đúng đắn thơng qua
phân tích tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa XHCN như sau:
Tính tất yếu của việc xây dựng nền vãn hóa xã hội chủ nghĩa xuất phát từ những

căn cứ sau đây:
• Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng xã hội có tính chất tồn
diện, triệt để: diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực vãn
hố. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mỗi phương thức sản xuất sẽ tạo
ra một phương thức sinh hoạt văn hoá tinh thần tương ứng, đáp ứng nhu cầu
phát triển của nó. Xây dựng phương thức sản xuất mới tất yếu đòi hỏi phải xây
dựng một phương thức sinh hoạt văn hoá tinh thần tương ứng cho nhu cầu phát
triển của phương thức sản xuất này – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
• Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng tất yếu địi hỏi phải từng bước xố bỏ,
cải tạo tính giai cấp trong nền văn hố cũ (văn hoá tư sản, văn hoá phong kiến,
…) đồng thời xây dựng những giá trị văn hoá mới mang bản chất của giai cấp
cơng nhân, phục vụ lợi ích của tồn thể nhân dân lao động.
• Xây dựng nền văn hố mới là nhằm tạo ra động lực văn hoá đảm bảo phát huy
được sức mạnh, nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân lao động trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là
một tất yếu khách quan, bởi vì văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế - xã hội phải nhằm mục tiêu
văn hóa, vì một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, vì sự phát triển tự do,
tồn diện của con người. Nền văn hóa XHCN tạo ra những tiền đề nâng cao
phẩm chất, học vấn, giác ngộ chính.
7. Phương thức xây dựng nền văn hóa XHCN
Để thực hiện được những nội dung chính yếu của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
cần phải thực hiện các phương thức cơ bản sau đây:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân
trong đời sống tinh thần của xã hội.

15


+ Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai

cấp cầm quyền, phải bằng mọi phương pháp thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng
và các thiết chế tư tưởng của mình để tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng, quá
trình tư tưởng nhằm giữ vững, tăng cường vai trị chủ đạo của hệ tư tưởng của
mình trong đời sồng tinh thần xã hội, bởi “những tư tưởng thống trị của một thời
đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”.
=> Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp
cơng nhân thơng qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý của nhà nước xã
hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm cho
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Do
đó, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân
trong đời sống tinh thần xã hội là phương thức quan trọng để xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa. Đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của
nền văn hóa đó. Phương thức này được tiến hành thơng qua việc truyền bá hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trong các tầng lớp nhân dân bằng những phương
pháp và hình thức thích hợp.
+ Giữ vững và tăng cường vai trị chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân
trong đời sống tinh thần xã hội là phương thức quan trọng để xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa. Đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của
nền văn hóa đó. Tiến hành theo hình thức truyền bá đến giai cấp cơng nhân.
+ Khơng ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối
với mọi hoạt động văn hóa là phương thức có tính ngun tắc, là nhân tố quyết
định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Phương thức này
được coi là sự đảm bảo về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng trên nền
tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quĩ đạo và mục tiêu xác định.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, thực chất đây là sự tăng cường
chun chính vơ sản trong hoạt động văn hóa. Thiết lập chun chính vơ sản thì
mới có tiền đề chính trị cho việc xây dựng nền văn hóa vơ sản. Giữ vững và khơng
ngừng tăng cường chun chính vơ sản là sự đảm bảo cho thắng lợi của q trình

xây dựng nền văn hóa vơ sản.
Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách
văn hóa của mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp,
pháp luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên
tắc, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản.
16


+ Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế
thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa của văn hóa nhân loại.
+ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khơng hình thành từ hư vơ, trái lại, nó được hình
thành trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền
móng và trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Lênin đã từng nói: Văn
hóa vơ sản là sự phát triển hợp qui luật của tổng số những kiến thức mà lồi người
tích lũy được, “đó là con đường đang và sẽ tiếp tục đưa văn hóa vơ sản, cũng như
chính trị kinh tế học do Mác hồn chỉnh lại”
 Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa
nhân loại với quá trình sản sinh giá trị mới, tạo nên sự thống nhất biện chứng
của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn hóa. Đây được coi là phương thức nhằm
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phong phú, đa dạng. cùng với quá
trình này là những phương pháp thích hợp nhằm đưa những giá trị văn hóa
vào đời sống xã hội để đông đảo nhân dân được hưởng thụ văn hóa do mình
sáng tạo ra.
+ Tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo văn
hóa: Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng,
đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào
làm tăng tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhằm lôi cuốn đông đảo nhân

dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.
8. Vận dụng vào Việt Nam
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mac lenin về xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa ở việt nam:
Sử dụng lý luận này vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản
sắc dân tộc. Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc với những bản sắc văn hóa riêng
biệt nhưng cũng rất hài hịa và thống nhất.
Phong kiến phương bắc 1000 năm đô hộ nhân dân ta vẫn khơng bị đồng hóa.
Ngày nay Việt Nam vẫn ln hướng về tổ tiên, giữ gìn những lối sống giản dị
nhưng thấm đẫm tính dân tộc và những nét đẹp trong cuộc sống. Nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc goomg những giá trị bền vững tinh hoa cộng đồng, giá trị lịch
17


sử. Kết tinh từ những gì đẹp đẽ nhất , độc đáo nhất của cộng đồng việt nam. Có giá
trị bền vững trường tồn với thời gian, kết nối cộng đồng gắn bó với nhau cùng gắn
bó và phát triển. Biểu hiện cụ thể là lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, khoan
dung…
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về vấn đề văn
hóa XHCN của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa Việt Nam trong quá trình đổi mới cùng những thành tựu, hạn chế trong
quá trình hội nhập thế giới vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích phát triển cuộc sống,
lồi người phát triển ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức pháp luật, tôn giáo. Nghị quyết
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn
là nghị quyết có chiến lược , chỉ đạo q trình phát triển sự nghiệp văn hóa nước ta
cần được bổ xung và phát huy trong thời kỳ mới. Xây dựng bản sắc văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc phát triển tồn diệnthống nhất văn hóa đa dạng. Xây

dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước , ý thức trách nhiệm, cơng dân có
sức khỏe lao động.
Nhìn từ góc độ triết học ta thấy phạm trù văn hố trong quan điểm của Hồ Chí
Minh bao hàm: Ý thức xã hội với các hình thái và cấp độ tâm lý, hệ tư tưởng của
nó như khoa học, chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tơn giáo và tồn tại xã
hội - một bộ phận của tự nhiên đã in trên mình dấu ấn hoạt động có ý thức của con
người trong q trình sinh tồn và phục vụ cho nhu cầu sinh tồn đó của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam
cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc
địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn hố đế quốc, đồng thời phát triển những truyền
thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ
thế giới để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại
chúng”.
Người địi hỏi phải biết giữ gìn vốn văn hố q báu của dân tộc, khơi phục
những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá dân tộc, loại bỏ những yếu tố tiêu
cực trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Đây là quan điểm bảo tồn bản
sắc văn hố dân tộc có chọn lọc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IV của Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập trung tiến hành cuộc cách mạng xã hội
18


chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa phát triển tồn diện. Giữ gìn, kế thừa, phát triển văn
hóa dân tộc, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự coi đó là mục tiêu và đông lực phát triển kinh tế xã
hội. Vấn đề phát huy văn hóa dân tộc, nguồn sức mạnh nội sinh của đất nước trong
quá trình hội nhập. Vào WTO, chúng ta vừa có điều kiện phát huy văn hóa dân tộc,
vừa có trách nhiệm ý thức hơn trong việc tơn vinh những giá trị văn hóa dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện, Đảng đã chủ

trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
xác định những định hướng lớn chỉ đạo việc đổi mới và nâng cao chất lượng phê
bình văn học - nghệ thuật; cơng tác quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm
vụ văn hóa - văn nghệ.
Đảng xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác Lênin có vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Đồng thời, kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII), đã ra Nghị
quyết chuyên đề về: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, xác
định những quan điểm cơ bản:
- Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa
trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. văn hóa khơng phải là kết quả
thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hoàn toàn
vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy
kinh tế. “Văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh
hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp”.
- Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập
dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm
mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
19


diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã

hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền
vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lịng u nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng
tạo trong lao động,….
- Ba là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm xác định trách
nhiệm của mọi người dân Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa nước nhà; cơng nhân, nơng dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ
vai trị quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa.
- Bốn là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Cuộc
đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay đang diễn ra hết sức
nóng bỏng, quyết liệt, phức tạp. Văn hóa là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và khác
với các hoạt động kinh tế. Tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, nhưng các
hoạt động văn hóa ln mang ý nghĩa chính trị - xã hội, có tác động sâu sắc đối với
đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tập quán cộng đồng. Vì vậy, cần phải tiến hành
một cách kiên trì, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát huy tinh
thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong xây dựng và
phát triển văn hóa; đẩy mạnh phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, làm cho văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động của xã hội,
vào từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, cũng như mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người trong xã hội.
- Năm là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với thực
tiễn của cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của
cộng đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một công ước quốc tế về đa dạng văn

hóa hiện nay.

20


Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ.
Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội gồm 6 đặc
trưng: Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước
bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh
năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội. Những
đặc trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động lực và mục tiêu của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã đạt được một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm,
chiến lược gắn độc lập dân tộc với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này cịn nhiều hạn chế. Đảng
ta chưa nhận thức hết tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời kỳ quá độ; chưa
xác định nội dung “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, thậm chí đối lập chủ nghĩa tư
bản với chủ nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn; tư duy
giáo điều, giản đơn về chủ nghĩa tư bản, đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức, nơ
dịch lồi người của chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ
những tiến bộ, văn minh của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Việc giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn
nhiều hạn chế, yếu kém. Chủ trương “lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển” là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan. Nhất là thời kỳ sau khi thống nhất đất nước, do duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp làm triệt tiêu nhiều động lực phát triển đất nước.
Trong thời kỳ mới, văn hóa phải thơi thúc con người tự nhận thức được trách
nhiệm của mình và thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực
21


hoạt động. Cần phải làm cho văn hóa thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội và vào
từng con người; vào kinh tế với tư cách là văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh
nghiệp và quản trị doanh nghiệp; vào tổ chức, quản trị và điều hành đất nước; vào
lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hóa chính trị,... Chính vì vậy, bên cạnh ba trụ
cột phát triển bền vững kinh tế - xã hội gồm phát triển bền vững về kinh tế, xã hội
và môi trường thì sự phát triển bền vững của bất cứ một quốc gia nào trong thời
hiện đại cũng còn cần phải có sự phát triển bền vững về văn hóa.
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy những biến động to lớn, diễn ra vơ
cùng nhanh chóng và đầy bất ngờ theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Bên
cạnh những sự đồng thuận rộng rãi của cộng đồng quốc tế về nhiều vấn đề là
những mâu thuẫn và xung đột rất khó lường trên nhiều mặt khác nhau từ kinh tế
đến chính trị cũng như quan hệ giữa các nước lớn với nhau, giữa các nước lớn và
các nước nhỏ; thậm chí có cả những mâu thuẫn giữa các tộc người, giữa các tôn
giáo trong cùng một cộng đồng dân tộc. Những biến động mang tính tồn cầu và
những mâu thuẫn cả lớn và nhỏ đó địi hỏi tất cả các quốc gia nằm trong vịng xốy
của chúng, nhất là các nước đang phát triển như nước ta, phải có cách ứng xử vừa
rất linh hoạt, mềm dẻo để thích nghi và hội nhập, vừa rất bản lĩnh và có ngun tắc
để khơng tự đánh mất mình về mọi phương diện, đồng thời cũng không bị lạc lõng,
không bị lạc điệu và nhất là không bị lạc hậu, không bị tụt hậu xa hơn nữa so với

các nước khác trong cộng đồng thế giới.
Quốc gia nào đạt được tất cả những mục tiêu đó cũng đồng nghĩa với việc quốc
gia ấy sẽ có được sự phát triển nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và bền vững hơn. Trong
sự phát triển này, văn hóa đóng vai trị hết sức quan trọng, bởi vì cả chính trị lẫn
kinh tế đều khơng thể thiếu văn hóa và đều địi hỏi phải có văn hóa. Nói cách khác,
trong điều kiện thế giới hiện nay và trong thời kỳ mới của đất nước ta, văn hóa
phải thấm sâu vào cả chính trị lẫn kinh tế. Phải gắn kết thật chặt chẽ văn hóa với
chính trị và với kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Hơn bao giờ hết, ngày nay khơng thể làm chính trị một cách
thơng minh để mong có được hiệu quả và thành công, cũng như không thể phát
triển kinh tế đất nước nhanh và thật sự bền vững nếu thiếu văn hóa soi sáng và dẫn
đường, nghĩa là “văn hóa... khơng thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính
trị”

22


Văn hóa khơng phải là thứ tồn tại bên ngồi xã hội lồi người, càng khơng phải
là thứ vốn có sẵn trong tự nhiên ngay từ thuở mới khai thiên, lập địa. Đồng thời,
văn hóa cũng khơng phải là cái bất biến trong thời gian; trái lại, văn hóa ln luôn
được phát triển, bổ sung, được làm giàu thêm, và cùng với thời gian, được các thế
hệ sau kế thừa có chọn lọc, thậm chí bị vượt bỏ ở những mặt nhất định nào đó.
Văn hóa cũng khơng phải là thứ mà khi mỗi con người mới được sinh ra đã có
ngay trong bản thân mình. Theo nghĩa rộng nhất, “văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(2). Như vậy,
văn hóa là một trong những nét đặc trưng tiêu biểu, hay là thuộc tính đặc trưng cơ
bản nhất của lồi người và chỉ có ở con người. Điều đó có nghĩa là văn hóa vừa
mang tính người, vừa mang tính xã hội và phản ánh đậm nét trình độ phát triển mọi
mặt của một xã hội, của một cộng đồng người và của một dân tộc. Trong một quốc

gia dân tộc cũng có thể tồn tại các dịng văn hóa khác nhau, song vẫn có sự thống
nhất trong đa dạng. Chính vì vậy mà bên cạnh việc thừa nhận những điểm chung
cũng cần thừa nhận những sắc thái riêng của văn hóa các tộc người trong một cộng
đồng dân tộc và của các dân tộc khác.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, xét cả trên
bình diện quốc gia lẫn khu vực và quốc tế, hơn bao giờ hết, văn hóa ngày càng gắn
bó hơn, quyện chặt hơn với chính trị và kinh tế.
Nói đến chính trị là nói đến những hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa
các giai tầng, các giai cấp và các tộc người trong một quốc gia. Đặc biệt, khi nói
đến chính trị thì cần phải nhấn mạnh vai trị của việc giành lấy chính quyền, giữ
được chính quyền, củng cố và xây dựng chính quyền; đến việc sử dụng quyền lực
nhà nước, huy động sức mạnh và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào
các công việc của đất nước; xác định các nhiệm vụ và nội dung hoạt động cụ thể
của nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể nhất định cũng như xun suốt trong
nhiều năm. Vì vậy, nói đến một nền chính trị lành mạnh, tiến bộ là nói đến một nền
chính trị vì dân, vì nước, vì sự phát triển không ngừng và sự trường tồn của dân tộc
và của đất nước.
Một khi đã thừa nhận chính trị liên quan đến mối quan hệ giữa các giai tầng, các
giai cấp và các tộc người trong cùng một quốc gia thì trước hết cần có cách giải
quyết sao cho thật hài hịa và cơng bằng mối quan hệ cơ bản của xã hội, đó là các
23


quan hệ lợi ích giữa họ với nhau. Khơng thể gọi là một nền chính trị tiến bộ, khơn
ngoan, hợp lịng dân nếu khơng tạo được sự cơng bằng, sự đồng thuận rộng rãi và
chân thành trong toàn thể xã hội để mọi người toàn tâm toàn ý bảo vệ nó và chiến
đấu, hy sinh vì nó.
Trong thế giới đương đại, văn hóa cần và phải thấm sâu vào chính trị ngay từ
bước đầu hoạch định đường lối lâu dài cùng các chính sách cụ thể cũng như trong
suốt cả chặng đường hiện thực hóa các chính sách đó.

Muốn tạo được sự công bằng xã hội một cách thực chất và tránh được sự phân
cực giàu nghèo quá mức để khơng xảy ra sự bất ổn xã hội thì văn hóa cao nhất
trong chính trị đương đại là phải coi con người thuộc tất cả các giai tầng và giai
cấp trong xã hội vừa là chủ thể, vừa là khách thể của thể chế chính trị để vừa khơi
dậy được sức mạnh tiềm ẩn của họ, vừa phục vụ họ một cách tốt nhất. Đó chính là
một nền chính trị và thể chế chính trị thơng minh, tất cả đều do con người và vì con
người. Đó cũng là chỗ dựa quan trọng hàng đầu nhằm tạo nên sự bền vững lâu dài
của chế độ. Khi mỗi con người cảm thấy mình là một phần hữu cơ của dân tộc, của
cộng đồng, thật sự được tôn trọng, được hưởng sự tự do, sự cơng bằng và bình
đẳng thì tất cả họ sẽ là những người cực kỳ trung thành bảo vệ chế độ, ra sức xây
dựng đất nước và đó chính là đất nước, “là xã hội duy nhất mà người có tinh thần
tự do thích sống”
Để phát triển đất nước ta thì bên cạnh một nền chính trị lành mạnh, một xã hội
ổn định, tiến bộ, còn cần phải tập trung đầu tư phát triển kinh tế, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, ngày nay không thể phát triển kinh tế
bằng mọi giá, nhất là khơng thể vì các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà hy sinh mơi
trường sống. Nói cách khác, trước hết phải gắn kết sự phát triển kinh tế với văn
hóa sinh thái. Cần nhớ lại chỉ dẫn của C. Mác cách đây hơn một thế kỷ rằng, “nếu
canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý
thức... thì sẽ để lại sau nó đất hoang”.
Mở rộng chỉ dẫn đó của C. Mác cần phải biết rằng, dù là phát triển sản xuất
nông nghiệp hay phát triển cơng nghiệp đều cần có sự hiểu biết sâu sắc mối quan
hệ giữa con người và giới tự nhiên; phải thấu hiểu việc con người và xã hội lồi
người khơng thể tồn tại nếu thiếu sự trợ giúp của tự nhiên; đặc biệt, con người
“hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một
dân tộc khác, như một người sống bên ngồi giới tự nhiên”. Điều đó có nghĩa là,
muốn phát triển kinh tế một cách hiệu quả và khơng phải trả giá về mơi trường thì
khơng thể thiếu văn hóa, nhất là kiến thức văn hóa sinh thái.
24



Văn hóa cũng chưa thấm sâu vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; văn hóa kinh
doanh và văn hóa doanh nghiệp chưa được coi trọng, chưa được coi là điều kiện
cốt tử cho sự phát triển bền vững của đất nước. Càng đáng ngại hơn là trình độ văn
hóa doanh nghiệp và doanh nhân của chúng ta chưa đáp ứng được u cầu kinh
doanh trong điều kiện tồn cầu hóa hiện nay. Kinh tế đất nước, và nói chung cả
những mặt khác của đất nước, sẽ không thể nào phát triển bền vững nếu trình độ
văn hóa kinh doanh khơng được kịp thời nâng lên, nếu văn hóa kinh doanh và văn
hóa doanh nghiệp khơng được coi trọng đúng mức.
Dễ dàng nhận ra, hiện nay, bên cạnh các nhà sản xuất và các doanh nhân chân
chính, có đạo đức và có văn hóa thì tình trạng sản xuất, kinh doanh chộp giật, thiếu
đạo đức, phản văn hóa vẫn đang tràn lan dường như ở tất cả các lĩnh vực, kể cả
lĩnh vực liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người.
Nói tóm lại, trong thời kỳ mới, văn hóa phải thôi thúc con người tự nhận thức
được trách nhiệm của mình và thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi
lĩnh vực hoạt động. Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị và kinh tế; phải
“thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế”, đồng thời văn hóa phải
góp phần “ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên”(10) (tức là những người
đang nắm quyền lãnh đạo, quyền cầm quyền và quyền quản lý nhà nước) để bảo
đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

25


×