Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.24 KB, 15 trang )

Câu hỏi: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay.
Bài làm:
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, quần chúng lao
động luôn luôn ước mơ, mong muốn được sống trong 1 xã hội bình đẳng, cơng
bằng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, họ liên tục đấu tranh để thực hiện
ước mơ, khát vọng đó. Nhiều tư tưởng tiến bộ nhân đạo đã hình thành phát triển
để dẫn dắt cuộc đấu tranh quần chúng. Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột
của giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng
dẫn. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng địi hỏi cấp bách đó. C.Mác (1818 –
1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa có phê phán những thành tựu
khoa học và những giá trị tư tưởng của nhân loại đạt được trước đó, bằng lao
động khoa học và sáng tạo hai ông đã phân tích xã hội tư bản, tổng kết thực tiễn
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. C.Mác và
Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Trong học thuyết của
mình, 2 ơng đã chứng minh sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự q độ
sang 1 xã hội mới khơng cịn chế độ người bóc lột người. Đó là chủ nghĩa xã
hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới đã xuất hiện những đặc điểm mới. Chủ
nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Sự
phát triển khơng đều của chủ nghĩa đế quốc tạo tiền đề cho chủ nghĩa vơ sản có
thể nổ ra thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở 1 nước.
Trong hồn cảnh đó, Lênin (1870 – 1924) đã vận dụng sáng tạo và phát
triển toàn diện học thuyết Mác – Ăngghen để giải quyết những vấn đề cơ bản
của cách mạng vô sản. Trên cơ sở phân tích sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa đế
1


quốc và thực tiễn phong trào của giai cấp công nhân Nga, Lênin đã lãnh đạo


cuộc cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra thời đại mới: thời đại quá
độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Những cống hiến vĩ đại của Lênin về cả lý luận và thực tiễn đã góp phần
làm cho hệ thống lý luận của Mác, Ăngghen ngày càng hồn chỉnh. Để ghi nhận
cơng lao và những đóng góp to lớn của Lênin, những người cộng sản và giai cấp
công nhân quốc tế trân trọng gọi học thuyết đó là CN Mác – Lênin.
Trong hoạt động cách mạng của mình, Lênin đã nhiều lần bị bắt, tù đày, bị
trục xuất ra nước ngoài, bị mưu sát, nhưng Người ln là tấm gương sáng chói
về tinh thần đấu tranh khơng khoan nhượng với kẻ thù giai cấp, lịng yêu mến
nhân dân và tin tưởng ở quần chúng, tinh thần lạc quan cách mạng, tinh thần yêu
lao động, tính khiêm tốn và giản dị.
Đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng của Lênin đã mở ra những chân
trời mới, soi đường, chỉ lối cho nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng CNXH. Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, năm 1920, khi
đến với tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin, từ trái tim mình, Hồ Chí Minh đã cảm nhận sâu
sắc “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tạo, tin
tưởng biết bao! Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” Chủ nghĩa Lênin đến với
chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái
“Cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn vận dụng một cách
sáng tạo những tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Dưới

2



ngọn cờ vẻ vang của Lênin, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cách
mạng tháng Tám thành công, đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
thống nhất tổ quốc, đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
Xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đảng ta cũng kiên quyết bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đấu tranh chống mọi thủ đoạn xuyên tạc, đổi trắng thay đen của mọi kẻ thù tư
tưởng, chống lại mọi biểu hiện xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác Lênin. Trên tinh thần ấy, trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân
Việt Nam đã có những nhận thức đầy đủ hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và vận
dụng sáng tạo những nguyên lý ấy vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Đảng ta có những bổ sung, phát triển lý luận trên một loạt vấn đề về chủ
nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt,
Đảng ta đã xác định rõ hơn “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Do nhân dân
làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đảng ta cũng
có nhận thức mới về đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền
với phát triển kinh tế tri thức, về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhằm phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường cho mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của kinh tế thị trường,
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo, về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm

3



đà bản sắc dân tộc, về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
củng cố vai trị lãnh đạo cách mạng của giai cấp cơng nhân Việt Nam, thực hiện
liên minh cơng – nơng – trí, đại đoàn kết dân tộc, nhận thức về thờ kỳ quá độ
của Đảng ra sát hợp thực tế hơn, thấy được tính chất quanh co, phức tạp, lâu dài
hơn của thời kỳ quá độ CNXH…
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Nguyễn Ái Quốc
đã khẳng định “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Điều khẳng định này của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị
trong điều kiện hiện nay. Tiếp tục tinh thần ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải
qua những thăng trầm của phong trào cách mạng thế giới, bằng thực tiễn đấu
tranh cách mạng của mình, những người Cộng sản Việt Nam khẳng định rằng,
những vấn đề cơ bản nhất trong học thuyết của Mác - Lênin là khơng gì bãi bỏ
được và vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và cách mạng trong thời đại ngày nay.
Đất nước ta đang từng bước đổi mới góp phần bổ sung, phát triển Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vận dụng,
phát triển sáng tạo những tư tưởng của Mác - Lênin tiếp tục đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là giữ vững chính trị xã hội, tăng
cường hoạt động đối ngoại, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ.
Tổ quốc bao giờ cũng gắn với nhà nước và giai cấp thống trị xã hội. Vấn
đề tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có Tổ quốc. Theo nghĩa đó mà
C.Mac và Ph. Ăngghen đã khẳng định “Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp cơng
nhân khơng có Tổ quốc”. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C.Mac,
Ph.Ăngghen sống, vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chưa được đặt ra một
4



cách trực tiếp. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến
mới của V.I.Lênin vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng nhiệm vụ bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang đặt ra trực tiếp ở nước Nga Xô Viết ngay sau
khi cách mạng vô sản Nga thành công năm 1917.
Theo CN Mác - Lênin bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một yếu tố
khách quan. Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh
dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hăng. Từ
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức
mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước, thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại
phong kiến. Bằng con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, và giai cấp vô sản đã
giải phóng hồn tồn cho đất nước. Để đạt được thành quả to lớn đó, nhân dân
cả nước khơng phân biệt giàu, nghèo, trai, gái đều đấu tranh để giành độc lập, tự
do. Trong thời đại ngày nay chính họ là người đại diện cho Tổ quốc, họ có
nhiệm vụ phải bảo vệ thành quả của mình.
Việt Nam đang từng bước xây dựng xã hội chủ nghĩa để mở đường đưa
dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú, đa dạng
về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.Chỉ với
chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng
tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành
viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thật sự của đất nước có cuộc
sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú.
Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả
năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ.
Đến nay, đất nước ta đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng. Sự
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị
đánh đổ về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng, muốn quay

5


trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần
tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngồi hịng lật đổ chính quyền, làm mất
lịng tin của người dân đối với Đảng. Vào thời gian khoảng từ 1999 – 2000, một
sự kiện nổi bật trên đất nước ta, đó là âm mưu đồng hóa nước ta của các thế lực
phản động Trung Quốc. Ở Tây Nguyên có rất nhiều mỏ quặng, các thế lực phản
động đã đưa 2 triệu dân Trung Quốc sang để khai thác quặng thiếc, họ không đòi
hỏi bất kỳ nguồn viện tợ nào mà chỉ với mục đích là khai thác hộ cho ta. Nhưng
phía sau hành động đó là cả 1 âm mưu: Mục đích thật sự của họ là mn 2 triệu
dân đó sẽ định cư ngay trên Tây Nguyên, để lấy Tây Nguyên làm căn cứ địa,
nhằm cô lập Tây Nguyên. Nhưng Đảng và Nhà nước ta đã can thiệp kịp thời,
phá tan được âm mưu của bọn chúng, giữ vững được độc lập chủ quyền của đất
nước. Thực tiễn trên đây một lần nữa đã chứng minh cho luận điểm của V.I.
Lênin rằng: Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền cịn khó
khăn hơn”.
Trong những năm đầu của chính quyền Xô Viết, V.I. Lênin trực tiếp lãnh
đạo xây dựng đất nước, chống lại sự chống phá của kẻ thù trong nước và sự cam
thiệp của đế quốc bên ngồi. Đó là những năm tháng cực kỳ gian khổ, khó khăn,
Người chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai
cấp vơ sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước. Quá trình lịch sử ấy đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất
khuất của dân tộc, trở thành “bức tường đồng” xung quanh Tổ quốc. Dù địch
hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm vào bức tường dó, chúng cũng
phải thất bại. Từ việc kế thừa các tư tưởng “dân là gốc” của ông cha ta đến tiếp
thu nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin nhân dân là người làm nên lịch sử, sự
nghiệp cách mạng là của nhân dâ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Lực lượng

tồn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết, khơng ai chiến thắng được lực lượng đó”.

6


Những năm vừa qua Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, quyết sách
quan trọng có tính chiến lược, thể hiện rõ quan điểm đổi mới trong lãnh đạo, chỉ
đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự như: Xác định rõ hơn quan điểm và bảo vệ
Tổ quốc, về đối tượng, đối tác về phương thức hoạt động của lực lượng công an
trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Từng bước củng cố thế
trận an ninh nhân dân, kết hợp với thế trận quốc phong toàn dân nhất là ở các địa
bàn trọng điểm. Cơng tác nắm tình hình chủ động hơn, triển khai có hiệu quả
nhiều kế hoạch bảo vệ, đảm bảo an toàn tuyệt đối các mục tiêu, các hội nghị
quốc tế, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, phát hiện ngăn chặn bọn
phản động từ bên ngoài xâm nhập vào nội địa, thu nhiều vũ khí chất nổ và
phương tiện hoạt động, đấu tranh làm thất bại ý đồ tập hợp lực lượng hình thành
tổ chức chính trị phản động của số đối tượng chống đối, giữ được ổn định tình
hình. Phối hợp chặt chẽ với các ngành, các địa phương giải quyết ổn định kịp
thời các vụ tranh chấp, khiếu kiện đông người trong nhân dân.
Trong lĩnh vực phịng chống tội phạm và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã
huy động được tốt hơn sức mạnh tổng hợp của tồn dân tham gia các chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm ma túy, mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ
em... Tập trung chỉ đạo nâng cao chát lượng các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản,
quản lý chặt hơn các loại đối tượng, tiếp tục mở các đợt phát động quần chúng
tấn công, trấn áp tội phạm, phát hiện, xử lý nhiều vụ án lớn về kinh tế, tiêu cực
tham nhũng, thu hồi tài sản cho Nhà nước trị giá hàng nghìn tỉ đồng, phát hiện,
bốc gỡ, xử lý hàng trăm băng nhóm tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức, làm
giảm được các loại tội phạm nghiêm trọng, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm,
xử lý, giải quyết nhiều tụ điểm tệ nạn xã hội. Công tác thi hành án phạt tù có tiến
bộ, đã đề xuất Nhà nước xét đặc xá, tha tù cho hàng vạn phạm nhân đảm bảo

yêu cầu chính trị, pháp luật, thể hiện rõ tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta,
được dư luận nhân dân trong nước và quốc tê đồng tình ủng hộ.

7


Trong lịch sử, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Vì vậy, cần nâng cao ý
thức mỗi một người dân về nghĩa vụ trách nhiệm của mình trong cơng cuộc bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I. Lênin đã khẳng định:
Bảo vê tổ quốc xã hôi chủ nghĩa là sự nghiệp thiêng liêng cao cả, mang tính
cách mạng, chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải được
quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết. Nhà nước ta luôn xem quân đội là
công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, của Nhà nước. Đường lối nhiệm vụ cách
mạng của Đảng là mục tiêu chiến đấu của quân đội. Phấn đấu thực hiện thắng
lợi đường lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng là nhiệm vụ duy nhất của quân đội
ta.
Trong tình hình hiện nay, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, cần phải
thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng. Tăng cường hơn nữa cơng tác
giáo dục quốc phịng – an ninh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách
nhiệm của hệ thống chính trị và tồn dân đối với sự nghiệp quốc phòng – an
ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc chỉ thị 12
– CT/TW của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
giáo dục Quốc phịng – an ninh, trong đó, vấn đề quan trọng cơ bản nhất là tăng
cường sự lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý, điều hành của chính quyền và vai trị
tham mưu của các ban, ngành, đồn thể đối với cơng tác giáo dục quốc phịng –
an ninh. Đối với cấp ủy, chính quyền các cấp, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo phải

được thể hiện bằng quân sự và công an cần phát huy vai trò nòng cốt, chủ động
làm tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các cấp đề ra chủ trương, biện pháp
lãnh đạo, chỉ đạo sát tình hình thực tiễn, giúp hội đồng giáo dục quốc phịng – an
ninh và phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đồn thể có liên quan theo dõi,
8


hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra kết quả và những vấn đề đặt ra trong quá trình tổ
chức thực hiện. Mặt khác cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa chương trình ,
nội dung, phương thức tiến hành cơng tác giáo dục quốc phòng – an ninh sát với
từng đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục có trọng tâm, trọng
điểm. Cùng với việc giáo dục lòng yêu nước, yêu chế độ, lịch sử, truyền thống
của Đảng và dân tộc, long tự tôn dân tộc, quan điểm, đường lối của Đảng, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền quốc phịng tồn
dân và an ninh nhân dân, cần chú trọng giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, cơng
chức và tồn dân nhận thức đúng mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc hội nhập kinh
tế của Đảng, cũng như đặc điểm, tính chất phức tạp, sự tác động của nó đối với
sự nghiệp quốc phòng an ninh. Bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta. Đối
tượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cần được mở rộng đến đội ngũ
cán bộ chủ chốt của các Doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp cổ phần và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí, chức sắc,
chức việc các tơn giáo. Trên cơ sở đó, mỗi tổ chức và cá nhân nâng cao ý thức,
trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc XHCN thông qua hoạt động công tác theo chức
năng, nhiệm vụ và trên cương vị, chức trách được phân công: Tỉnh táo, linh
hoạt, mềm dẻo khi xử lý các vấn đề trong quan hệ hợp tác, văn hóa xã hội, quốc
phòng – an ninh, đối ngoại theo đúng quan điểm của Đảng, đặt lên hàng đầu lợi
ích quốc gia, dân tộc.
Nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, đã đạt
được những thành tự quan trọng có ý nghĩa cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh và ngoại giao. Tình hình đặt ra yêu cầu mới, rất cấp thiết về việc

kết hợp chặt chẽ kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh, trong các chiến lược
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng có chọn lọc một số
cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang
bị cho ngành kinh tế và quốc phịng. Trên cơ sở đó, xây dựng, phát triển nền
cơng nghiệp quốc phịng độc lập, tự chủ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh

9


tế đất nước. Chú ý kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh, quốc phòng
an ninh với kinh tế - xã hội theo ngành, vùng, miền, lãnh thổ (đặc biệt chú ý tới
biên giới biển, hải đảo, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…).Tiếp tục
chấn chỉnh, phát triển và tổ chức tốt việc quân đội tham gia vào lao động sản
xuất và làm kinh tế, nhất là những đơn vị và doanh nghiệp làm nhiệm vụ ở vùng
kinh tế - xã hội, kinh tế - quốc phịng trọng điểm, góp phần xây dựng lên những
trung tâm, vùng, địa bàn và khu vực thực sự điển hình về cơng tác phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, cùng với đó là sự gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế - xã
hội và quốc phòng an ninh.
Một việc hết sức quan trọng là cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về kết
hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Trong thời gian qua, chúng
ta đã ban hành được một số luật, Pháp lệnh liên quan đến quốc phòng (Luật
Quốc phong, Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Nghĩa vụ quân
sự…). Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta cần hoàn thiện hệ thống văn bản với
những điều khoản cụ thể hơn, chi tiết hơn về kết hợp giữa kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh
dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. V.I. Lênin chỉ ra rằng: Đảng
cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đảng phải đề ra chủ
trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lơi kéo quần chúng và

phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh. Trong quân đội, chế độ chính ủy
được thực hiện, cán bộ chính trị được lấy từ đại biểu ưu tú của cơng – nơng,
thực chất đó là đại diện của Đảng, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân
đội. Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên
tắc cao nhất, là nguồn gốc sáng tạo sức mạnh vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
10


Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam có một quân đội kiểu mới – quân
đội của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân,
tính dân tộc sâu sắc đã đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến tay sai,
giành độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập, mở đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đại thắng mùa xuân 1975, đất nước Việt Nam thống nhất cùng xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN, Đảng ta luôn khẳng định nhất quán những
nguyên tắc chiến lược: Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng và Nhà nước,
của toàn dân và toàn quân ta. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối
với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong thời kỳ mới, những nguy cơ liên quan đến quốc phòng bảo vệ tổ
quốc Việt Nam, đáng chú ý là sự điều chỉnh chiến lược của các thế lực thù địch
cho thấy “Diễn biến hịa bình” là vấn đề chủ yếu nổi lên trong chiến lược chống
phá độc lập dân tộc và CNXH ở Việt Nam, không loại trừ khả năng xảy ra
“Cách mạng máu” để thúc đẩy nhanh việc xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế
độ XHCN, cũng không loại trừ khả năng chúng tiến hành chiến tranh xâm lược
kiểu mới nước ta. Đồng thời, những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, về tài
nguyên và các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia dân tộc tiếp tục diễn ra gay

gắt và phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ,
nhất là khi các nước lớn có sự mặc cả và thỏa hiệp về lợi ích gây phương hại đến
lợi ích của dân tộc Việt Nam. Do đó, nhiệm vụ quốc phịng bảo vệ tổ quốc
XHCN của chúng ta trong thời kỳ mới cần tập trung đấu tranh, làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, dập tắt các
cuộc “Cách mạng máu” của chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, sớm phát
hiện và triệt tiêu những yếu tố bất lợi có thể dẫn đến xung đột vũ trang, chiến

11


tranh cục bộ và sẵn sàng đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm lược kiểu mới
của địch.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phong bảo vệ tổ quốc XHCN trong
thời kỳ mới, trước hết và chủ yếu quyết định là giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phịng, trong đó cần tập trung thực hiện tốt
những chủ trương, giải pháp cơ bản sau đây.
Thứ nhất, tiếp tục bổ sung phát triển, cụ thể hóa đường lối và phương thức
lãnh đạo của Đảng, hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà nước đối với sự
nghiệp quốc phòng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chủ động nghiên cứu bổ
sung phát triển hai chiến lược trọng yếu, mang tính tổng hợp và toàn diện nhất
của đất nước là chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược bảo vệ tổ quốc,
trên cơ sở đó xây dựng tổ chức thực hiện tốt các chiến lược cơ bản của quốc gia
(Chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh, chiến lược ngoại giao và các chiến
lược chuyên ngành khác), các kế hoạch mang tính chiến lược của quốc gia (kế
hoạch phân vùng chiến lược về quốc phòng gắn liền với phân vùng chiến lược
kinh tế - xã hội theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ xây dựng với bảo vệ, kế hoạch
chiến lược và phòng thủ dân sự, kế hoạch chiến lược tổng thể xây dựng cơng
trình quốc phịng từ thời bình gắn chặt với bổ sung, điều chỉnh phương án phòng
thủ chiến lược, kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ lĩnh, thành phố trực thuộc

Trung ương.
Tiếp tục đổi mới, bổ sung hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, điều hành đối với
lĩnh vực quốc phịng, nhất là khi xử trí tình huống khẩn cấp về quốc phong hoặc
chiến tranh theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý điều hành tập
trung thống nhất, Bộ quốc phịng chủ trì phối hợp với các cơ quan, ban, ngành,
đồn thể chính trị - xã hội làm tham mưu và tổ chức thực hiện theo chức năng
nhiệm vụ, phát huy trách nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện
nhiệm vụ quốc phịng. Tích cực đổi mới, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc
phương thức lãnh đạo của Đảng đi đôi với lĩnh vực quốc phịng thơng qua hệ
12


thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo bộ máy chính quyền các
cấp quản lý điều hành cơng tác quốc phịng, lãnh đạo Mặt trận tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội để động viên và phát huy vai tró làm chủ của nhân
dân trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
Thứ hai, xây dựng và phát huy vai trò của hệ thống chính trị đối với sự
nghiệp quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Cần thường xuyên chăm lo xây
dựng hệ thống chính trị, nhất là các tổ chức Đảng và bộ máy chính quyền từ
Trung ương đến cơ sở quản lý trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân
dân, lãnh đạo và quản lý điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội có uy tín và
hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Luôn coi trọng hàng đầu việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực sự là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và của tồn xã
hội. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở Đảng, tổ chức Đảng ở cơ quan cấp chiến lược, tăng cường giáo dục, quản lý
rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và lối sống, năng
lực trí tuệ và trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ đảng viên,
khắc phục nguy cơ “tự diễn biến” “Tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Tích cực đấu
tranh làm trong sạch và lành mạnh hóa bộ máy chính quyền các cấp, giữ vững

và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân, thực hiện có hiệu
quả các chức năng, nhiệm vụ quản lý điều hành xã hội của nhà nước pháp quyền
XHCN, khắc phục nguy cơ tha hóa biến chất do tệ quan liêu, nạ tham nhũng,
đặc quyền đặc lợi, sách nhiễu và xa dân của bộ máy chính quyền. Chăm lo củng
cố, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể chính trị - xã hội, phát huy vai trị là cơ sở chính trị của Đảng và chính quyền
nhân dân, động viên và tổ chức nhân dân tích cực tham gia xây dựng tiềm lực và
sức mạnh quốc phòng, nhất là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Thứ ba, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội, bảo đảm thực sự trung thành và tin cậy về chính
13


trị, làm nịng cốt trong quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc. Về bản chất, quốc
phịng là cơng cuộc giữ nước của quốc gia dân tộc, có độc lập chủ quyền, bằng
sức mạnh tồn diện của Nhà nóc và của nhân dân, trong đó sức mạnh quân sự là
đặc trưng, qn đội là lực lượng nịng cốt.
Thứ tư, tích cực bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực
tổ chức thực hiện cơng tác quốc phịng của đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành và
các địa phương, tập trung vào các vấn đề cơ bản và đang đặt ra cấp thiết là:
- Tư duy mới về đối tượng và đối tác, hợp tác và đấu tranh theo tinh thần.
Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, quan hệ hữu nghị và hợp tác
bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm
mưu và hành động chống phá mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đều
là đối tượng đấu tranh. Chủ động giải quyết tốt các quan hệ giữa đối tượng và
đối tác, giữa hợp tác và đấu tranh, không để sơ hở và thua thiệt trong hợp tác,
không bị bất ngờ trước những âm mưu và hành động xâm hại lợi ích quốc gia.
- Tư duy mới về phương thức chiến lược quốc phòng bảo vệ Tổ quốc,
nhất là kết hợp chặt chẽ chiến lược quốc phòng với chiến lược an ninh và chiến
lược ngoại giao, dựa chắc trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giữ

vững hòa bình và ổn định, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt và phát triển
bền vững: “Giữ cho trong ấm, ngoài êm”, chủ động giữ nước ngay từ thời bình,
ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là phương thức tối ưu để bảo vệ Tổ
quốc, đúng với bản chất của quốc phịng Việt Nam đó là hịa bình và tự vệ.
Thứ năm, phát huy trách nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân đối với
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc.
Trong thời kỳ mới, trước những phát triển của tình hình và nhiệm vụ cần
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự
nghiệp quốc phịng. Đó là nhân tố chủ yếu trong cơ chế vận hành của nền quốc
14


phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Có thực hiện tốt nguyên tắc
chiến lược đó mới bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược mọi tình
huống và phát triển bền vững.
Là sinh viên, những tri thức trẻ tương lai của đất nước, tất cả đều phải có
trách nhiệm trong cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc. Khi ngồi trên ghế nhà trường, sinh
viên cần phải hoạt động tốt các cơng việc của đồn đội, tham gia bảo vệ an ninh
trật tự ở nhà trường và địa phương. Ln ln nâng cao trình độ, năng lực của
mình, tuyệt đối trung thành với Đảng. Sau khi đã học các bài về giáo dục quốc
phòng bảo vệ tổ quốc, chống bạo loạn lật đổ, diễn biến hịa bình, chúng ta cần
tuyên truyền vận động người thân trong gia đình, bạn bè đề cao cảnh giác với
các âm mưu của các thể lực thù địch. Diễn biến hịa bình đã được Đại hội VII
xác định là một trong bốn nguy cơ đe doạn đến nền an ninh quốc gia, vì vậy
chúng ta khơng được mất cảnh giác, phải thường xun trau dồi kiến thức chính
trị để có thể nhận biết được âm mưu của chúng.

15




×