Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

lý luận chung của lý thuyết về chủ nghĩa trọng cung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.02 KB, 30 trang )

1
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

1/ Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu trong cải cách
và phát triển KT-XH như thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng lên, cơ sở
hạ tầng được xây dựng hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc…Việc chuyển hướng từ nền kinh tế theo cơ chế quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước tạo ra những bước
phát triển đáng kể.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng cịn có các mặt hạn
chế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Với những thành tựu trong
chiến lược phát triển KT-XH và những kết quả đã đạt được trong sự nghiệp CNH HĐH đất nước. Chúng ta phải thừa nhận sự đóng góp khơng nhỏ từ lý luận, chính
sách của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng cung để đưa ra các giải pháp thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Cho nên đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Theo đó vấn
đề vận dụng các học thuyết kinh tế vào việc tăng trưởng kinh tế càng trở nên quan
trọng, địi hỏi chúng ta phải có một số chính sách phù hợp nhằm thu hút vốn đầu tư
hợp lý hơn, hấp dẫn hơn. Chính vì vậy, tơi chọn nghiên cứu đề tài: “Vận dụng học
thuyết kinh tế trường phái trọng cung để đề ra các giải pháp thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”
2/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích: Đóng góp một số ý kiến trong việc vận dụng học thuyết kinh tế trọng
cung để đề ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích vấn đề thuế và chi tiêu Chính Phủ ở Việt Nam hiện nay để vận dụng học
thuyết kinh tế trường phái trọng cung vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam.


SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


2
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

- Đề xuất ý kiến để đưa ra một số giải pháp nhằm tăng trưởng kinh tế Việt Nam
hiện nay.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Học thuyết kinh tế trường phái trọng cung
- Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu sự vận dụng học thuyết kinh tế trọng cung vào nền kinh tế Việt Nam
qua từng giai đoạn.
- Nghiên cứu những chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện
nay.
4/ Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các thơng tin, số liệu từ các tài
liệu, báo cáo của Bộ tài chính, Sở kế hoạch và đầu tư…
5/ Đóng góp của đề tài
+ Về mặt lý luận: Đề tài đã nêu bật cơ sơ lý luận của vấn đề nghiên cứu, trang bị
thêm phương pháp luận có hệ thống, có chiều sâu của vấn đề.
+ Về mặt thực tiễn: Đề tài đã góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc vận dụng học thuyết kinh tế trường phái trọng cung để đề ra các giải pháp thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
6/ Kết cấu của đề tài
Chương I: Lý luận chung về học thuyết trường phái trọng cung và tăng

trưởng kinh tế.
Chương II: Vận dụng học thuyết kinh tế trường phái trọng cung vào vấn đề
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

SV: NguyÔn Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


3
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỌC THUYẾT TRƯỜNG PHÁI
TRỌNG CUNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1/ Lý luận chung về lý thuyết trọng cung
1.1.1/ Lý luận kinh tế của trường phái trọng cung
Từ đầu những năm 70, nhiều cuộc tranh luận hết sức gay gắt trong giới khoa
học Mỹ bàn về những nguyên nhân làm cho nền kinh tế Mỹ bị suy giảm. Có thể
nói, từ các cuộc tranh luận và tham khảo ý kiến của chính phủ, đã phân định ra hai
loại ý kiến: loại ý kiến thứ nhất cho rằng nguyên nhân chính làm cho sức mạnh của
Mỹ bị giảm sút trong suốt cả thập kỷ qua và nhiều căn bệnh trở nên không khắc
phục được là do kết quả của một loạt tác động hoàn toàn khách quan. M.Mass và
G.Forester, hai nhà kinh tế học có tên tuổi ở Mỹ khẳng định “nguyên nhân của tình
trạng đó là cạn dần nguồn tài ngun thiên nhiên, do việc sản xuất năng lượng ngày
càng ít đi, do năng suất lao động bị suy giảm và do nền kinh tế phải chịu nạn lạm
phát quá cao”. Loại ý kiến thứ hai chiếm ưu thế, họ là những người đại diện cho lợi
ích của giới bảo thủ, của các công ty lớn, họ cho rằng nguyên nhân của mọi sự suy
yếu cả nền kinh tế xã hội, cả ở trong nước và trên trường quốc tế nằm ngay trong
chính sách nền kinh tế của nhà nước. Họ kết tội học thuyết kinh tế trường phái

SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


4
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

Keynes. Thậm chí có người cịn kết tội “John M.Keynes sẽ được các nhà sử học
đánh giá trong tương lai đánh giá như một sự lệch lạc trong lịch sử tư tưởng kinh tế
của Mỹ”. Chính M.Feldstein, chủ tịch hội đồng cố vấn của Tổng thống Reagan
(1982) khẳng định rằng “nguyên nhân quan trọng nhất của tình hình kinh tế xấu là
do sự can thiệp quá mức của nhà nước”, và ơng cịn thêm, “việc nhà nước sử dụng
sai chính sách tiền tệ-tín dụng đã làm cho tồn bộ nền sản xuất mất ổn định và nạn
lạm phát phát triển nhanh chóng”.
Và cuối cùng họ cho rằng cần phải có một lý thuyết mới, làm cơ sở lý thuyết
cho sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế hay nói cách khác để khắc phục nền
kinh tế xấu đi, địi hỏi chính sách kinh tế của nhà nước được vạch ra phải dựa trên
một lý thuyết mới, đó là “chủ nghĩa trọng cung và lý thuyết đường cong Laffer”.
Các nhà kinh tế Mỹ dùng học thuyết trường phái trọng cung để đối lập với quản lý
tổng cầu của M.Keynes.
Nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng cung là đề cao vai trò chủ động sản xuất
kinh doanh của giới chủ, đề cao cơ chế tự điều tiết của thị trường tự do, định hướng
nền kinh tế vào nhiều mục tiêu của sản xuất, tạo ra nhiều của cải, các nguồn lực cần
phải được huy động để sản xuất, tạo ra tiềm lực thực sự cho đất nước. Những người
theo trường phái trọng cung cho rằng, trước đây nền kinh tế Mỹ phát triển nhanh
chóng như vậy là do cơ chế thị trường tự do được tôn trọng và sự can thiệp của nhà
nước không đáng kể. Nhà kinh tế lớn của Mỹ I.Kristoll - một trong những người
đầu tiên, ngay từ năm 1977 đã tuyên bố “sự diệt vong” của lý thuyết Keynes và ơng
cho rằng “chỉ có khu vực kinh doanh tự do của tư nhân mới có khả năng đạt được

sự phát triển kinh tế ổn định, dù chính phủ có tự đặt ra nhiệm vụ gì đi nữa, thì trong
đó khơng thể duy trì sự can thiệp vào kinh tế - sự kích thích tư nhân chỉ sản xuất và
do thị trường tác động và điều tiết”. Theo những người thuộc trường phái trọng
cung cùng với việc tơn trọng tính chủ động của giới chủ, họ sẽ có cơ hội và chịu
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


5
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở tự giác chấp nhận và làm
các nghĩa vụ theo luật định. Nếu cơ chế thị trường tự do được tơn trọng thì khơng
cần phải có các ép buộc về hành chính từ phía Nhà nước. Thậm chí, nếu bị ép buộc,
thì phản ứng của giới chủ sẽ mang tính chất tiêu cực. Thực tế của những quy định
can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh trong nhiều thập kỷ qua, đối với khu
vực tư nhân là kìm chế hàng loạt sáng kiến tư nhân, khu vưc này từ trạng thái năng
động và có hiệu quả trở nên phát triển cầm chừng. Tất nhiên là vì kinh doanh tư
nhân nên họ vẫn chịu trách nhiệm về tính hiệu quả của kinh doanh song không cao,
không phát huy hết tiềm năng của họ. Hơn nữa việc thực hiện các nghĩa vụ theo
luật định, đặc biệt trong vấn đề bảo vệ môi trường, nộp thuế … giới chủ thường
viện dẫn những khó khăn khác nhau để tìm cách thối thác. Từ thực tế đó nhiều nhà
kinh tế cho rằng giảm thiểu tối đa sự ràng buộc kinh tế của nhà nước, để cho giới
chủ hoạt động “tự do” thì họ sẽ khơng cịn lý do gì để phản biện khi thực thi các
nghĩa vụ theo luật định. Tất nhiên người ta cũng nhấn mạnh rằng, hệ thống luật
định của nhà nước cũng phải thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng lợi ích của khu
vực tư nhân.
Cạnh tranh được xem là yếu tố cần thiết, nó khơng chỉ thúc đẩy giới kinh doanh
cải tiến chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật…

mà nó cịn tạo ra những cơ sở cho thị trường tự cân bằng. Vì theo một số nhà kinh
tế học trường phái trọng cung mà đại biểu xuất sắc là Anthurn Laffer cũng xác nhận
rằng tự do cạnh tranh - thị trường tự điều chỉnh - tự cân bằng giữa các yếu tố cung
và cầu là một hệ phương trình mang tính nhân quả và cần phải tơn trọng nó trong
thực tế. Tất nhiên trong xã hội hiện đại, hệ phương trình đó khơng nằm ra ngồi,
khơng ở trên và độc lập hồn tồn với các q trình điều tiết của xã hội mà Chính
phủ là người đại diện. Nói cách khác, hệ phương trình đó có mối quan hệ hữu cơ
với q trình điều chỉnh kinh tế xã hội của Chính phủ. Khơng ít các nhà kinh tế coi
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


6
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

phương trình nhân quả đó là một q trình mang tính tất nhiên, nó như là một loại
quy luật kinh tế thị trường. Các yếu tố của mặt cung và mặt cầu luôn luôn biến
động tạo ra những thế năng cho quá trình phát triển, quan hệ giữa cung và cầu diễn
ra trong một chu trình khép kín, nhiều lúc, hay khơng phải lúc nào ai cũng có thể
nhận thấy. Sự tác động của nhà nước vào một thời điểm nào đó ở một nhân tố nào
đó của cung hay cầu chỉ mang tính nhất thời và khó thu được kết quả như dự kiến.
Đương nhiên, cũng theo lập luận của giới kinh tế học trọng cung, trong những
điều kiện mới của quá trình tái sản xuất, sự tác động vào một số mắt xích nào đó
của q trình này, nhất là các yếu tố thuộc về mặt cung (các nhân tố trực tiếp tạo ra
hàng hoá và dịch vụ cho xã hội) sẽ tạo ra những thế năng cho những mục tiêu ổn
định lâu dài. Quan điểm này trái ngược hồn tồn với Keynes, bởi vì theo Keynes,
nhà nước cần tác động vào tổng cầu và nhằm những mục tiêu ổn định ngắn hạn.
Quan điểm của Keynes phát huy tác dụng trong gần 4 thập kỷ khi mà các nhân tố
thuận lợi của q trình sản xuất cịn ngự trị. Bởi vậy người ta cho rằng, việc hoạch

định chính sách của nhà nước chỉ có thể mang lại hiệu quả cao một khi nó nhằm
các mục tiêu ổn định dài hạn. Sự đổi mới trong chính sách kinh tế của Chính phủ
Mỹ sẽ đáp ứng được mong muốn của dân chúng một khi nó nhằm tới những mục
tiêu như vậy.
Tại đây người ta đề cập đến ba loại nhân tố chính tạo ra nguồn tăng trưởng dài
hạn được liệt vào nhóm các nhân tố thuộc vào mặt cung đó là lao động, nguồn vốn
và tiến bộ kỹ thuật. Thực ra ba loại nhân tố này đã được Adam Smith, D.Ricardo và
nhiều học giả nổi tiếng khác bàn đến. Song đến giai đoạn phát triển hiện nay,
trường phái trọng cung đã đề cao nó hay như theo cách họ lập luận thì đó là ba loại
nhân tố mà trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng phải đặt nó ở vị trí số một và
cần phải có sự quan tâm đặc biệt của giới chủ và Nhà nước. Mọi sự quan tâm đều
nhằm vào khai thác chúng tới mức tối ưu.
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


7
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

Nguồn lao động được xem xét bao gồm số lượng và chất lượng của đội ngũ lao
động làm thuê, cả hai khía cạnh này đều giữ vị trí quan trọng trong việc tạo ra giá
trị sản phẩm và dịch vụ đối với giới chủ cũng như sự phồn vinh của quốc gia. Thực
ra nhà nước liên bang đã có nhiều chính sách để thực thi trong nhiều thập kỷ để đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động. Nói cách khác, người lao động có kỹ năng
chun mơn cao để nhằm hồn thành có hiệu quả nhất một cơng việc nào đó trong
q trình sản xuất và vừa có các kỹ năng khác, để có thể làm các cơng việc khác
với chun mơn của họ để thích ứng với các đổi thay trong sản xuất, trong công
nghệ, trong dịch vụ.
Khai thác triệt để các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất đã trở

thành nhu cầu cấp bách của bất cứ nhà kinh doanh nào. Giới kinh doanh Mỹ và
Chính phủ Mỹ, trải qua một q trình phát triển hơn hai trăm năm, đã xây dựng
được một hệ thống các cơ chế vay, mượn khá hoàn chỉnh và hết sức tinh vi. Chính
điều đó đã tạo lập cho nước Mỹ nhiều khả năng để đẩy nhanh quá trình cơng
nghiệp hố sau nội chiến và tạo đà cho q trình phát triển mạnh mẽ sau chiến
tranh. Song, theo trường phái trọng cung, chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực
này đã can thiệp quá sâu, không cần thiết, trong khi đó vai trị của giới doanh
nghiệp phần nào bị che lấp, đó là điều phi lý trong nền kinh tế mà kinh doanh tư
nhân được xem là trụ cột. Bởi vậy, cần phải trả lại cho giới doanh nghiệp vị trí thực
của họ trong việc khai thác tối ưu các nguồn vốn.
Các nhân tố gắn với tiến bộ kỹ thuật đóng vai trị chính trong việc nâng cao
năng suất lao động. Tại đây các nhà kinh tế trọng cung rất chú trọng tới cấu tạo hữu
cơ của tư bản, họ nói đó là chỉ số biểu hiện khuynh hướng phát triển của tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất. Chỉ số này tăng lên liên tục trong nhiều thập kỷ qua, song xu
hướng chậm lại của nó đã đến mức báo động. Nếu giới kinh doanh và Chính phủ
khơng có các giải pháp hữu hiệu thì điều đó sẽ trở thành thảm hoạ. Đã từ lâu, Chính
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


8
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

phủ chỉ can thiệp trực tiếp vào một số vấn đề chính mà ở đó, khả năng của tư nhân
bị hạn chế như trong ngành vũ trụ, mơi sinh, cịn lại hầu như giới kinh doanh đóng
vai trị chủ đạo. Vấn đề đặt ra hiện nay là không phải tăng cường sự can thiệp trực
tiếp của Nhà nước mà Nhà nước cần có những giải pháp gì để khuyến khích tư
nhân đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng các cơng nghệ mới vào sản
xuất. Phải chăng đó là Nhà nước cần có chính sách thuế hợp lý tác động vào giới

doanh nghiệp.
Như vậy để cho nền kinh tế ổn định nhịp độ tăng trưởng cần phải kích thích tăng
cung. Dựa trên cơ sở lý thuyết của J.B.Say, năm 1803 Say cho rằng tự cung đã đẻ
ra cầu, cung mới sẽ tạo cầu mới, nền kinh tế sẽ khơng có khủng hoảng. Từ đó
A.Laffer cho rằng, để kích thích tăng cung Nhà nước cần có chính sách kinh tế, tạo
điều kiện cho các doanh nhân tăng đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật, tăng năng
xuất lao động tạo ra sản phẩm mới, kích thích sức cầu tăng lên. Muốn mở rộng đầu
tư đòi hỏi phải tiết kiệm, tiết kiệm trong hiện tại thì tương lai có nhiều thu nhập. Để
kích thích tăng cung, ơng đề nghị cắt giảm thuế. Ông đưa ra mối quan hệ giữa tổng
thu nhâp về thuế và thuế suất.
1.1.2/ Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung của nền kinh tế
- Số lượng và chất lượng của người lao động
- Khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Muốn vậy phải nuôi dưỡng nguồn tiết kiệm nhằm đảm bảo cho đầu tư, bù đắp thâm
hụt ngân sách và tăng năng xuất lao động xã hội.
- Cải tiến kỹ thuật và áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
Để kích thích cải tiến kỹ thuật, phái trọng cung đề nghị nhà nước nên cắt giảm thuế.
Giảm thuế sẽ tăng được tiết kiệm, đầu tư, kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh
và cải tiến kỹ thuật.

SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


9
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

Theo phái trọng cung, giảm thuế sẽ kích thích tính tích cực hoạt động của con
người, tăng sản phẩm, tăng lợi nhuận. Khi giảm thuế thì việc làm, thu nhập và tiết

kiệm sẽ tăng lên sẽ dẫn đến những thành tựu kinh tế lớn.
1.1.3/ Lý thuyết đường cong Laffer
Lý thuyết của đường cong Laffer là cơ sở cho việc điều tiết thuế do giáo sư
A.Laffer đưa ra. Theo ơng thì khi mức thu thuế giảm hoặc tăng ở mức tối thiểu và
tối đa thì tiền thu thuế cho ngân sách Nhà nước bằng khơng, tại đó mức sản xuất
được khuyếch trương tới mức tối đa, và cũng có nghĩa là số thu nhập của ngân sách
cũng đạt tới mức tối đa, bởi vậy Chính phủ Reagan nên lựa chọn phương thức giảm
thuế là có lợi nhất trên các phương diện kinh tế cũng như chính trị. Đó chính là
điều căn bản nhất khác với việc sử dụng ngân sách theo mơ hình của Keynes để
kích thích cầu. Điều cần cân nhắc ở đây, theo A.Laffer, không chỉ đơn thuần là
giảm thuế mang tính chất sách lược, thiếu đồng bộ mà cần có quan điểm tồn diện
đối với chính sách thuế. Giảm thuế cần phải được xem như một công cụ sắc bén và
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược. Nếu xét về phương diện là một
công cụ tài chính của kinh tế học trọng cung, thì việc giảm thuế đồng bộ trong nền
kinh tế sẽ tạo cơ hội cho công cuộc đầu tư và phát triển nền kinh tế, nó kích thích
người nộp thuế mà xét về bản chất của họ thì bất cứ một khoản thu nhập nào do họ
kiếm được chỉ phải trả một tỷ lệ thuế thấp hơn trước sẽ kích thích họ hăng say hơn
trong công việc. Trong một giác độ nào đó mà nói, thì sự phong phú của ngân sách
là kết quả trực tiếp của một chính sách tài chính nói chung hay của chính sách thuế
nói riêng mang lại. Còn nếu xem xét vấn đề về mặt chiến lược, thì giảm thuế đồng
bộ gắn liền với việc thực thi một chính sách tiền tệ hợp lý sẽ cho phép giải quyết
nhiều vấn đề mang tính chất dài hạn mà thập kỷ trước đó khơng thể giải quyết được
như lạm phát, cũng cố sức mạnh của Mỹ… bởi vậy theo trường phái trọng cung,
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


10
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế


công cuộc giảm thuế lần này chỉ mang lại kết quả khi chính phủ thực sự coi trọng
lý thuyết đường cong Laffer.
Theo A.Laffer để kích thích tăng cung cần cắt giảm thuế. Ông đưa ra mối quan
hệ giữa thu nhập từ thuế của nhà nước với thuế suất. Nếu ký hiệu t là thuế suất tính
theo %, Y là thu nhập gồm tiền lương, lợi nhuận, địa tô… và T là tổng thu nhập từ
thuế (mức thuế) tính theo số tiền, thì T = t . Y

T
M

Tmax
M1

M2
T*

O

t1

50

t2

100

t (%)

Hình 1.1: Đồ thị đường cong Laffer biểu diễn mối quan hệ

giữa thuế suất và tổng thu nhập từ thuế
- Nếu thuế suất t = 0% thì T = 0 ; nếu thuế suất t = 100% thì T = 0, bởi vì khi đó
các chủ doanh nghiệp khơng có lợi nên họ đóng cửa kinh doanh, người lao động
cũng khơng đi làm nên khơng có thu nhập.
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


11
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

- Nếu t > 0 thì T > 0, nếu tăng t thì T sẽ tăng lên và đạt cực đại (T max) ở điểm t
= 50%. Khi này quy mô sản xuất đạt được lớn nhất, nguồn thu của ngân sách nhà
nước là lớn nhất.
- Nếu t > 50%, thì chủ doanh nghiệp khơng muốn sản xuất, người dân không
muốn đi làm hoặc hoạt động kinh tế ngầm, nguồn thu ngân sách nhà nước sẽ bị
giảm.
So sánh hai điểm M1 và M2 thì M1 tốt hơn M2 vì thuế suất t1 nhỏ hơn t2 mà vẫn
thu được mức thuế như nhau (T*)
Vì vậy ơng cho rằng, cần phải cải cách thuế để tăng sản lượng quốc gia và thu
nhập về thuế. Đề nghị của ơng đã được chính quyền Regan áp dụng nhiệm kỳ
1979-1981. Regan đã đề nghị quốc hội giảm thuế thu nhập cá nhân là 25%. Tuy
vậy có nhiều ý kiến nghi ngờ lý thuyết trọng cung, vì họ cho rằng giảm thuế sẽ
giảm thu nhập về thuế, dẫn đến tăng thâm hụt của ngân sách.
Theo phái trọng cung, giảm thuế sẽ kích thích tích cực hoạt động của con người,
tăng sản phẩm, tăng lợi nhuận. Do đó khơng phải là giảm thu ngân sách mà cịn
làm cho thu nhập ngân sách tăng lên. Khi giảm thuế thì việc làm, thu nhập và tiết
kiệm sẽ tăng lên dẫn đến những thành tựu kinh tế lớn.
1.2/ Lý luận chung về tăng trưởng kinh tế

1.2.1/ Khái niệm về tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế bền vững
Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn
đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau nhất
định trong quan niệm, nhưng nói chung, sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của
một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự tăng trưởng về kinh tế và sự biến
đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta thường dùng hai thuật ngữ tăng trưởng
kinh tế và tăng trưởng kinh tế bền vững để phản ánh sự tiến bộ đó.

SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


12
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

- Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về
quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất
cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự
tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế
(tính tồn bộ hay tính bình qn theo đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ
trước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được xem xét trên hai mặt biểu hiện: đó là mức
tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong một
giai đoạn. Sự tăng trưởng kinh tế được so sánh theo các thời điểm liên tục trong
một giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm
sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
- Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và
ổn định trong thời gian tương đối dài (thường là một thế hệ từ 20-30 năm). Hiện
nay các quốc gia luôn quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong một thời
kỳ tương đối dài.

1.2.2/ Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế, song tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản như sau:
Một là, vốn: đây là yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nói đến yếu
tố vốn ở đây bao gồm cả tăng lượng vốn và đặc biệt là tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Hai là, con người: là yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó phải là
con người có sức khoẻ có trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao
động được tổ chức chặt chẽ.
Ba là, kỹ thuật và công nghệ: kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại là nhân tố
quyết định chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế, vì nó tạo ra năng suất lao động
cao, do đó tích luỹ đầu tư lớn.
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


13
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

Bốn là, cơ cấu kinh tế: Xây dựng được cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì tăng
trưởng kinh tế càng nhanh và bền vững.
Năm là, thể chế chính trị và quản lý nhà nước: Thể chế chính trị càng ổn định,
tiến bộ thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh. Nhà nước càng đề ra các đường lối,
chính sách phát triển kinh tế đúng đắn thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh.

CHƯƠNG II : VẬN DỤNG HỌC THUYẾT KINH TẾ TRƯỜNG PHÁI
TRỌNG CUNG VÀO VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1/ Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng kinh tế có ý

nghĩa về nhiều mặt, khơng những xác định vị trí của từng yếu tố để có kế hoạch
khai thác, mà cịn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm ẩn gia tăng lạm phát. Qua
nghiên cứu cho thấy nền kinh tế Việt Nam chịu tác động bởi các yếu tố sau:

SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


14
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu
tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã
vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%,
ước năm 2007 đạt 40,4%, năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào
yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do
nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi
năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nơng thơn
cịn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp
của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng
trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát
triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu. [6]
Mặc dù không đạt được như mong muốn nhưng Việt Nam là một trong số ít
quốc gia đạt được kết quả tăng trưởng dương trong những tháng đầu năm 2009
(GDP quý I đạt 3,1%, quý II đạt 4,5%; tính chung 6 tháng đầu năm đạt 3,9%). Tăng

trưởng kinh tế của năm đạt khoảng từ 4-5%/năm. Con số này không phải là xa vời
đối với Việt Nam. Kinh tế thế giới vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất định, trong khi kinh tế
Việt Nam lại phụ thuộc nhiều vào kinh tế thế giới nên rất khó đưa ra nhận định về
một kết quả hồn tồn tốt đẹp nếu vẫn cịn những bất ổn từ trong và ngoài nước.
Thực tế, kim ngạch xuất khẩu, FDI, các luồng vốn đầu tư... vào Việt Nam từ đầu
năm đến nay đều giảm sút mạnh so với những năm trước. Bên cạnh đó các rủi ro,
bẩt ổn về kinh tế vĩ mơ vẫn cịn khá cao như lạm phát, sự lành mạnh của hệ thống
tài chính ngân hàng, áp lực trên thị trường ngoại hối... trong khi đó chúng ta cịn
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


15
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

phải lo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp đồng thời làm sao
không phá vỡ các cam kết hội nhập. Vì vậy, có thể nói, từ đầu năm 2009 đến nay là
quãng thời gian khó khăn cho việc xây dựng và quyết định đưa ra các chính sách.
Tuy nhiên, triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá là khá khả quan, sẽ vẫn
là một trong số ít nền kinh tế trên thế giới đạt mức tăng trưởng dương. [5]
2.2/ Vận dụng học thuyết kinh tế trọng cung phân tích vấn đề thuế
và chi tiêu của Chính phủ ở Việt Nam hiện nay
2.2.1/ Vận dụng các chính sách thuế vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam
2.2.1.1

/ Cắt giảm thuế theo các mặt hàng

Ngay trong năm 2007, khi Việt Nam vừa gia nhập tổ chức Thương Mại thế giới
(WTO), có 26 mặt hàng được cắt giảm thuế, trong đó có một số mặt hàng thực

phẩm như: hoa quả, cây cảnh giảm 25%; một số rau (cà tím, nấm, ớt) giảm 40%;
chè giảm 20%; ngô (loại đã rang nở) giảm 40%; dầu thực vật giảm từ 20-40%; thịt
chế biến giảm 20%; bánh kẹo 20-30%; bia 20%; mỹ phẩm các loại xà phòng từ 2040%; giấy in báo 20%... [11]
Cũng ngay từ đầu năm đã có một số mặt hàng có mức cắt giảm thuế tương đối
lớn, như hàng dệt may tới 63%. Nhưng theo đánh giá của một số nhà chun mơn
trong ngành thì hàng dệt may trong nước có thể đương đầu được vì thị trường trong
nước vốn rất lớn, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải giữ được thị trường và mở
rộng ra thị trường bên ngoài để giữ mức tăng trưởng như những năm trước. Khi hạn
ngạch dệt may được xóa bỏ, chúng ta có lợi hơn so với Trung Quốc là ở chỗ năm
2008 Trung Quốc mới hết hạn dỡ bỏ hạn ngạch, cịn Việt Nam là từ năm 2007. Do
đó, ngành dệt may Việt Nam phải chấp hành đúng luật lệ quốc tế để không bị kiện
bán phá giá hay gian lận thương mại và cố gắng để chiếm lĩnh thị trường. Năm
2007 về mặt hàng Ơtơ, bước đầu cũng giảm đáng kể, ôtô từ 2.500cc trở lên là từ
90% xuống 52 %; từ 2.500cc trở lên với xe 2 cầu là từ 90% xuống 47% ; xe dưới
SV: NguyÔn Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


16
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

2.500cc và loại khác từ 90% xuống 70%. Theo đánh giá của nhiều người thì bước
cắt giảm này khơng ảnh hưởng gì nhiều đến giá ơtơ trong nước. Đây là mức cam
kết an tồn nhất, sau đó sẽ tính tới các tác động của trong nước, Chính phủ cũng sẽ
phải tính trong bối cảnh đó thì phải nên để mức thuế suất ôtô như thế nào, chứ
không thể giữ mãi bảo hộ cao. Khi tham gia hội nhập, ngay năm đầu tiên có thể
chưa có bước cắt giảm lớn, chưa thể có những bước chuyển biến rõ nét vì chúng ta
cắt giảm theo lộ trình, chứ khơng phải ngay lập tức cắt giảm theo các mức cam kết,
điều này nhằm tạo sự an toàn cho thị trường trong nước và tạo một thời gian để các

doanh nghiệp trong nước có thể thích ứng và tạo ra được những sản phẩm hàng
Việt Nam chất lượng cao, tạo tiền đề tốt cho người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.
Trong khi, nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy thời gian chưa nhiều, đủ để
phát hiện và khảo sát tính chu kỳ của nền kinh tế, song những biểu hiện của nó đã
xuất hiện tương đối rõ. Kể từ năm 1986 đến nay, tăng trưởng kinh tế đã trải qua 5
giai đoạn thăng trầm: giai đoạn 1986 – 1991 chỉ tăng trưởng 4,7%/năm, giai đoạn
1992 – 1997 tăng trưởng tới 8,7%/năm mà đỉnh cao là năm 1995 với GDP tăng
9,5%, giai đoạn 1998 – 2001 lại hạ xuống còn khoảng 6%/năm và giai đoạn 2002 –
2005 phục hồi với trên 7,6%/năm, giai đoạn 2005 – 2009 đạt tốc độ tăng trưởng
GDP: 8,5-9%. [5]
Tốc độ tăng trưởng là biểu hiện một chất lượng phát triển mới đưa Việt Nam
tiến nhanh thành nước công nghiệp hiện đại có vị thế trong khu vực và thế giới. Chỉ
có như vậy Việt Nam mới tránh khỏi nguy cơ tụt hậu để đuổi kịp các nước trong
khu vực. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, có nhiều nước dựa vào mơ hình tăng nhanh
đầu tư, dù phải chấp nhận gánh nặng nợ nước ngoài ngày càng gia tăng, nghĩa là
tăng trưởng cao bằng mọi giá. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 2 con số,
đồng thời lạm phát cũng gia tăng, nền kinh tế phát triển q “nóng”, các nhân tố
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


17
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

khủng hoảng kinh tế - tài chính xuất hiện và ngày càng chín muồi dẫn tới khủng
hoảng khơng thể tránh khỏi. Tuy vậy, một số nhà kinh tế vẫn ủng hộ quan điểm
chấp nhận khủng hoảng và coi đó như một nhân tố thúc đẩy cải tổ cơ cấu nhanh
hơn, có hiệu quả hơn và do đó tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn. Tóm lại, đây

là mơ hình tăng trưởng nhanh nhưng xu hướng chung vẫn đưa nền kinh tế đạt trình
độ cao hơn.
Quan điểm đang được nhiều nước ủng hộ là tăng trưởng ổn định. Từ góc độ
kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ sẽ tạo cơ sở vững chắc cho những bước phát triển
trong tương lai, hay còn gọi là tăng trưởng kinh tế “theo đường thẳng”, nghĩa là
khơng có hay giảm thiểu khủng hoảng. Bản chất của nền kinh tế thị trường thường
xuyên phát sinh ra những nhân tố gây khủng hoảng, đặc biệt là trong điều kiện nền
kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, nên các chính sách kinh tế vĩ mô phải nhạy
cảm và thường xuyên được điều chỉnh phù hợp với tình hình. Đây khơng phải là
một việc dễ dàng. Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng chỉ có thể duy trì được dài hạn
nếu ở mức vừa phải, kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng mức độ đó khơng q 6 –
8%/năm. Muốn quy mơ GDP năm 2010 gấp đơi so với năm 2000 thì tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân hàng năm phải đạt 7,2%, tức là nằm trong khung 6 7%/năm. Bài tốn khó giải nhất hiện nay là kiềm chế tăng giá trong khi vẫn phải
đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Theo quy luật kinh tế chung, tăng trưởng
kinh tế cao và lạm phát tăng thường song hành với nhau. Kinh nghiệm cho thấy
lạm phát chỉ cản trở tăng trưởng khi lên đến mức 2 con số, do đó, trong giai đoạn
năm 2006 – 2010 nói chung, năm 2008 nói riêng cần cân nhắc phương án đánh đổi
giữa mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu lạm phát, trong đó, nên ưu tiên mục tiêu tăng
trưởng. Một số quan điểm cho rằng Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế với tốc độ cao 8 – 9%/năm, đồng thời kiềm chế tốc độ lạm phát dưới 2 con
số nhằm ổn định kinh tế vĩ mơ.[9]
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


18
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

Sau 3 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã cắt giảm hơn 1.800 dịng thuế. Đến năm

2009 có nhiều nhóm mặt hàng khác tiếp tục được giảm thuế với mức phổ biến
khoảng 2%. Bộ Tài chính cho biết, các mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá, cà phê,
dầu thực vật, thịt chế biến, rau quả tươi, kim loại, hóa chất... tiếp tục nằm trong
danh sách giảm thuế cho năm 2010. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, việc mở cửa
thị trường nội địa, giảm thuế và các rào cản phi thuế quan đối với các sản phẩm
như máy móc, thiết bị nguyên liệu, vật liệu đã tạo điều kiện cho nhiều mặt hàng
chất lượng cao với mức giá hợp lý đến với người tiêu dùng và doanh nghiệp, nhưng
đồng thời cũng tạo sức ép cạnh tranh. Dù vậy, Việt Nam cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức như các dòng vốn được luân chuyển một cách tự do, các loại dịch
vụ tài chính ngày càng phong phú và đa dạng. Đó là chưa kể, mức độ cạnh tranh
trên thị trường tài chính, thị trường chứng khốn sẽ ngày càng khốc liệt.
Bên cạnh việc cắt giảm các dòng thuế theo cam kết, biểu khung thuế xuất nhập
khẩu cũng đã được điều chỉnh, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục thực hiện các
mức cam kết với WTO cho cả giai đoạn 5-7 năm tới. Đến năm 2013, Việt Nam sẽ
hoàn thành việc cắt giảm thuế cho hầu hết mặt hàng, với mức giảm khoảng 4%.
2.2.1.2/ Cắt giảm mức thuế nhập khẩu
Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu hiện chỉ chiếm 19 - 22%% tổng thu ngân sách,
trong đó, thuế nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 40% tổng số thu của ngành hải quan
(bao gồm cả thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt). Trong 3 năm tới, thuế
nhập khẩu giảm bình quân 30% so với mức thuế bình quân hiện hành. Như vậy, xét
về tổng thể thì thu của hải quan không ảnh hưởng nhiều do gia nhập WTO. Ở khía
cạnh khác, khi giảm thuế nhập khẩu, giá trị nhập khẩu gia tăng, khiến sản xuất
trong nước gặp khó khăn. Hệ quả là thu quốc nội gặp trở ngại đáng kể.
Kể từ ngày 11/1/2007, Việt Nam phải cắt giảm thuế suất tới trên 35% tổng số
dòng thuế, việc giảm thuế lại chủ yếu áp dụng đối với mặt hàng đang phải chịu
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n



19
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

thuế, đặc biệt là những mặt hàng có thuế suất trên 20% sẽ khiến thương mại chính
thức tăng lên, giảm bớt được gian lận thương mại, số thu cũng sẽ tăng lên. Thực tế
cho thấy, sự tác động có xảy ra, như hàng hoá, đặc biệt là hàng điện tử, điện máy…
trên thị trường nội địa phong phú hơn, rẻ hơn, nhưng sản xuất trong nước vẫn ổn
định và bảo đảm tăng trưởng nên số thu nội địa vẫn tăng trưởng.
Việt Nam cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với 7.640 dòng thuế trong tổng số
9.222 dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu hiện hành trong năm 2010. Trong số
7.640 dịng thuế, khoảng 2200 dịng thuế có mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc
biệt thấp hơn so với mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành, tập trung vào
các nhóm mặt hàng như: nhựa, giấy và cáctông, bông, sợi, vải, quần áo, hàng may
mặc phụ trợ, các mặt hàng dệt, sản phẩm bằng đá, thạch cao, các sản phẩm bằng sắt
hoặc thép, máy và thiết bị cơ khí, máy điện và thiết bị điện, phương tiện vận tải, đồ
chơi.
Xe hơi nhập khẩu sẽ được giảm thuế:
Cụ thể, đối với ôtô dưới 9 chỗ ngồi trong năm 2009 là 83% thì sang năm 2010,
mức thuế đối với xe chạy xăng trên 2.500 cc và xe 4 bánh 2 cầu chủ động trên
2.500 cc là 80%; xe ôtô 4 bánh 2 cầu chủ động là 77%, các loại xe chạy xăng dưới
2.500 cc và chạy diezel giữ nguyên mức hiện hành của năm 2009 là 83%. Các mức
thuế suất được cắt giảm hơn so với mức thuế hiện hành, cụ thể là giảm từ 1% đến
6%, trong đó mức giảm chủ yếu là 2 - 3%. Cùng với việc tập hợp lại các mức thuế
suất đã được sửa đổi rải rác trong năm 2008, gộp thuế suất để đơn giản hóa, mức
thuế trung bình là 10,54% (mức thuế trung bình hiện hành là 11,14%). Trong đó,
các mức thuế suất phổ biến là từ 0% đến 30%, chiếm khoảng 91% tổng số dịng
thuế. Theo biểu thuế mới, có tổng cộng 1.654 dòng thuế phải thực hiện cắt giảm
theo cam kết WTO. Trong số các nhóm hàng giảm theo cam kết và gộp thuế, đối
với các nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất là xăng dầu, ôtô xe máy, linh
SV: Ngun Thanh Thủ


Líp: K48B4 – KÕ to¸n


20
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

kiện và máy móc thiết bị, sắt thép thì các mức thuế dự kiến cho các nhóm này đều
là mức trần WTO. [12]
2.2.1.3/ Giảm thuế để kích cầu đầu tư và tiêu dùng
Trong năm 2009, sức mua của người tiêu dùng khó tăng, doanh nghiệp vẫn cịn
gặp nhiều khó khăn, kim ngạch xuất nhập khẩu cũng sẽ không thể tăng mạnh. Tuy
nhiên, đây cũng là cơ hội để Nhà nước định hình lại mơ hình kinh tế, tái cơ cấu lại
lao động, cơ cấu lại thu chi ngân sách Nhà nước, xuất nhập khẩu, điều chỉnh chính
sách lãi suất và chính sách tỷ giá hối đối của Việt Nam hướng vào phát triển thị
trường trong nước, giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường thế giới, đồng thời phát
huy được các lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, đặc biệt là những lợi thế về nguồn
nhân lực Việt Nam.
Một trong những giải pháp để ngăn chặn nguy cơ suy giảm tăng trưởng kinh tế
năm 2009 là chú trọng nới lỏng gánh nặng cho doanh nghiệp bằng cánh giảm thuế,
kể cả thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và giá trị gia tăng. Giảm thuế là giải
pháp trọng tâm để kích cầu đầu tư cũng như kích cầu tiêu dùng thơng qua giảm chi
phí sản xuất kinh doanh, giảm giá tương xứng đảm bảo tăng tiêu dùng thực tế của
người dân. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% và lạm phát dưới 15% mà Quốc hội
và Chính phủ đặt ra được các chun gia kinh tế nhìn nhận là khơng dễ nhưng vẫn
có thể thực hiện được, thậm chí lạm phát có nhiều khả năng lùi về 1 con số do cầu
trong nước có khả năng thanh tốn bị hạn chế và suy thối kinh tế tồn cầu cịn có
thể kéo dài. Trước sự bất ổn và khó dự báo của thị trường quốc tế, nguy cơ suy
giảm tăng trưởng cần tập trung vào nhóm giải pháp nữa là linh hoạt chính sách tiền
tệ - tín dụng. Nhà nước nên tiếp tục duy trì giải pháp tiền tệ linh hoạt thơng qua

giảm lãi suất cơ bản phù hợp với diễn biến của giá cả và lạm phát cũng như tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân
hàng trong bối cảnh giá cả có xu hướng giảm.
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


21
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

2.2.2/ Vận dụng các chính sách chi tiêu của chính phủ
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu cắt giảm 10% chi tiêu công chủ yếu là để các địa
phương giảm bớt việc tổ chức hội họp, đi lại gây lãng phí tiền của, hạn chế tối đa
việc đi nước ngoài bằng ngân sách nhà nước... Để đảm bảo cung cầu hàng hóa cho
thị trường, Thủ tướng cũng đề nghị các bộ, UBND các địa phương và ngành quản
lý thị trường tăng cường việc giám sát, quản lý giá, chống đầu cơ hàng để tăng giá.
Lạm phát đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hộ có thu nhập thấp do vậy các địa
phương phải tăng cường thực hiện các vấn đề an sinh xã hội. Mặc dù cịn gặp nhiều
khó khăn do bị tác động từ thế giới nhưng chúng ta vẫn có nhiều điều kiện để phát
triển kinh tế. Trong bối cảnh giá cả hàng hóa đã tăng khá cao, để duy trì được các
khoản chi ngân sách theo kế hoạch là điều khó khăn đối với các địa phương, việc
Chính phủ yêu cầu cắt giảm 10% chi tiêu sẽ khiến cho càng khó khăn hơn.
Quý 1/2008, mặc dù tăng trưởng GDP vẫn ở mức cao, đạt 7,4% so với cùng kỳ
2007, nhưng nền kinh tế đã bộc lộ những diễn biến khó lường, vì nhiều ngun
nhân. Lạm phát tăng cao đã và đang đe dọa đến ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển
sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân. Năm 2008 đảm bảo tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 7%. Thủ tướng yêu cầu 32 tỉnh thành phía Nam khơng được điều
chỉnh lùi tốc độ tăng trưởng GDP ở từng địa phương. Theo Thủ tướng, Chính phủ
có thể điều chỉnh lùi mức tăng GDP so với dự kiến ban đầu nhưng với 32 tỉnh thành

thì phải tìm mọi biện pháp để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất và tăng cường
xuất khẩu, thu hút đầu tư. Các tỉnh phía Nam hiện chiếm đến 60% GDP của cả
nước, trong đó kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 70%, lương thực chiếm hơn 70% và
hiện có rất nhiều cơng trình năng lượng lớn đang được thực hiện. Các tỉnh phía
Nam đang đóng vai trị quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước. Vì thế, nếu GDP của các tỉnh giảm, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chỉ tiêu tăng
trưởng chung của cả nước. Chính Phủ sẽ thực hiện thêm một số biện pháp kích
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


22
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

thích tài chính (ngồi các biện pháp đã được thơng qua trong 2 tháng đầu năm
2009) trong tổng số 1 tỉ USD năm 2009; Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì chính sách
tiền tệ tương đối nới lỏng, chừng nào lạm phát vẫn được giữ ở mức thấp và sản
lượng đầu tư dự kiến sẽ tăng lên 15,5 triệu trong năm 2009 và duy trì ở mức này
trong năm 2010. Chính sách tiền tệ nới lỏng và các biện pháp kích thích tài chính sẽ
hỗ trợ tiêu dùng cơng và đầu tư từ các nguồn vốn trong nước, xuất khẩu ròng dự
kiến sẽ gia tăng. [8]
Tuy nhiên, tiêu dùng cá nhân tiếp tục giảm do hoạt động kinh tế suy yếu, tỉ lệ
thất nghiệp gia tăng, giá chứng khoán và giá đất đai khơng ổn định. Sự suy giảm
của dịng vốn FDI được dự đoán sẽ dẫn tới sự suy giảm đầu tư từ các nguồn vốn
nước ngoài. Với những tiền đề cho sự hồi phục, tăng trưởng dự kiến của Việt Nam
có thể phục hồi ở mức 6,5% trong năm 2010. Lạm phát bình quân giảm xuống mức
4% trong năm 2009, nhưng đến năm 2010, con số này sẽ lên mức 5%. Thâm hụt tài
khóa dự đốn sẽ tăng lên 9,8% GDP và giảm xuống còn 5,3% GDP vào năm 2010.
Trong trung hạn, tăng trưởng GDP khả năng sẽ hồi phục ở mức 7 - 7,5% do

dòng vốn FDI chảy vào mạnh. Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn cho các nhà
đầu tư nước ngoài, dù đã trải qua những bất ổn kinh tế vĩ mô trong năm 2008 và
phải đối mặt với những khó khăn kinh tế nghiêm trọng trong ngắn hạn. [7]
2.3/ Vận dụng học thuyết kinh tế trường phái trọng cung để đưa ra một số giải
pháp nhằm tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
2.3.1/ Khuyến khích đầu tư tư nhân
Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư phát triển không những đưa được nguồn
vốn nhàn rỗi còn lớn trong dân vào sản xuất, kinh doanh thay cho cất giữ hoặc dồn
vào kinh doanh đất đai mà còn tạo được nhiều việc làm, nâng cao được hiệu quả
đầu tư trong xã hội. Các ngành, các cấp cần nắm bắt và thực hiện tốt Nghị quyết
hội nghị lần thứ 5 của Trung ương khóa IX về phát triển kinh tế tư nhân, khuyến
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


23
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về qui mô và
địa bàn hoạt động trong những ngành, lĩnh vực mà luật pháp khơng cấm, xúc tiến
cuộc vận động “Tồn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho
cộng đồng cơ sở và cho đất nước”. Khắc phục các biểu hiện khơng bình đẳng đối
với kinh tế tư nhân cả trong cơ quan nhà nước và trong tâm lý xã hội, đồng thời bảo
đảm sự quản lý của Nhà nước theo pháp luật đối với mọi hoạt động kinh tế. Chính
phủ tổng kết bốn năm (2005-2009) thi hành Luật doanh nghiệp nhằm tiếp tục thực
hiện tốt hơn luật này, thật sự khuyến khích và thúc đẩy kinh tế tư nhân đầu tư kinh
doanh có hiệu quả; chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện nay các cơng
trình kết cấu hạ tầng của Việt Nam chủ yếu sử dụng vốn từ ngân sách tập trung của
nhà nước, các nguồn vốn ODA, trái phiếu chính phủ, và trái phiếu cơng trình có

bảo lãnh của nhà nước. Trong khi đó nhu cầu về nguồn vốn cho các cơng trình là
rất lớn. Nếu như khơng có sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân thì sẽ rất khó
khăn. Để hấp dẫn các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước, cần xây dựng
được khung pháp lý minh bạch, cởi mở. Cần xây dựng hồ sơ rõ ràng về các dự án,
tạo điều kiện để các nhà đầu tư thấy rõ hiệu quả của dự án để đầu tư vốn.
2.3.2/ Xoá bỏ các trở ngại đối với đầu tư tư nhân
Vẫn cịn nhiều trở ngại để Việt Nam có thể nâng cao chất lượng tăng trưởng ví
dụ như hệ thống ngân hàng còn yếu kém, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, việc sử dụng
các nguồn lực chưa hiệu quả, minh bạch, tình trạng quan liêu nặng nề và nhân cơng
có tay nghề cịn thiếu. Kinh tế tư nhân của chúng ta đã phát triển, tạo được công ăn
việc làm và trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cũng phải
thừa nhận kinh tế tư nhân phát triển vẫn còn chậm và thiếu những doanh nghiệp có
thương hiệu, có năng lực cạnh tranh quốc tế. Xét trên những doanh nghiệp tư nhân
được đăng ký thì nhóm này mới tạo ra được khoảng 7% số việc làm, khoảng 11%
GDP và khoảng 25% sản lượng công nghiệp. Đến nay, kinh tế tư nhân tạo ra
SV: NguyÔn Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


24
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

khoảng 38 – 39% GDP, trong đó khoảng 28% là thuộc kinh tế hộ gia đình. Khoảng
3 triệu hộ phi nông nghiệp, 12 triệu hộ nông nghiệp. Kinh tế hộ gia đình của chúng
ta có điểm yếu là khơng đủ trình độ cơng nghệ, khơng gắn với hội nhập kinh tế. Kết
quả điều tra kinh tế hộ gia đình ở Hà Nội cho thấy, khu vực này chỉ có khoảng 5 –
6% kết nối được với doanh nghiệp lớn. [6]
Qua đó, chúng ta thấy được khối kinh tế hộ gia đình đã giúp thốt đói, nhưng
vẫn chưa đủ sức để thốt nghèo và làm giàu. Với quy mơ hiện nay thì khu vực kinh

tế tư nhân vẫn chưa xứng tầm, chưa có năng lực cạnh tranh với nước ngồi. Những
doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam hiện nay trình độ khoa học cơng nghệ, trình
độ quản lý đang vẫn cịn non kém. Nhìn lại thấy trong thời gian qua chúng ta mới
đổi mới chính sách. Đến nay, muốn kinh tế tư nhân phát triển thì phải đổi mới về
thể chế mà cụ thể là thể chế về kinh tế thị trường và có nguồn tài chính vững mạnh.
Thực tế có khoảng 64% doanh nghiệp khơng vay được vốn ngân hàng. Như vậy,
kinh tế tư nhân không thể lớn lên được và cũng khơng khuyến khích được hộ gia
đình đăng ký lập doanh nghiệp. Cho nên Việt Nam muốn phát triển phải đẩy mạnh
phát triển khu vực ngân hàng, phải huy động được nguồn vốn tiết kiệm trong nước,
đưa được nguồn vốn này đến người dân. Muốn kinh tế tư nhân phát triển, ra được
biển lớn thì những rào cản, hạn chế phải được loại bỏ. Đồng thời, Nhà nước cần có
chính sách để nâng đỡ. Đáng lo ngại hiện nay là sau khi phân cấp, thấy rõ là doanh
nghiệp nước ngoài lấn át trong nước. Như lĩnh vực siêu thị chẳng hạn. Tại sao ở Hà
Nội và TPHCM, rất nhiều khu đất vàng được giao cho nhà đầu tư nước ngồi mở
siêu thị, cịn doanh nghiệp trong nước bị chèn ép. Chính vì vậy cần xố bỏ các trở
ngại đối với đầu tư tư nhân để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
2.3.3/ Chuyển vốn đầu tư từ khu vực nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân
Điểm yếu cơ bản của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cho đến thời điểm này
vẫn là quy mô quá nhỏ…Mặc dù quy mô vốn chủ sở hữu trung bình của một doanh
SV: Ngun Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


25
Bài tập lớn: Môn lịch sử các học thuyết kinh tế

nghiệp tư nhân đã tăng gấp 3 lần trong giai đoạn 2005 - 2008, lên khoảng 3,6 tỷ
đồng/doanh nghiệp, nhưng con số này là quá khiêm tốn so với mức trung bình là
242 tỷ đồng/doanh nghiệp nhà nước hay 76 tỷ đồng/doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngồi.
Tương tự, khoảng cách khá lớn giữa khu vực kinh tế tư nhân trong nước và các
khu vực kinh tế khác khi xem xét các chỉ số như lợi nhuận trung bình/doanh
nghiệp, tài sản trung bình/doanh nghiệp, hoặc doanh thu thuần trung bình trên một
doanh nghiệp…
Trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam do Công ty Nghiên cứu đánh giá
Việt Nam xếp hạng, có 150 doanh nghiệp thuộc về khu vực kinh tế tư nhân, nhưng
chủ yếu các doanh nghiệp này lại có nguồn gốc từ doanh nghiệp nhà nước sau cổ
phần hố…
Trong đánh giá sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế
tư nhân, vừa được nhận định, đa số doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào thương mại,
dịch vụ, với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trước mắt; trình độ cơng nghệ và tay nghề
chưa cao; năng suất lao động, hiệu quả sản xuất thấp; chưa đủ điều kiện tham gia
đấu thầu quốc tế… Về nguyên tắc, trong một nền kinh tế thường gồm những doanh
nghiệp có quy mô khác nhau. Ở khá nhiều nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp
quy mô nhỏ và vừa vẫn chiếm tỉ lệ khơng nhỏ. Thậm chí, trong bối cảnh bất ổn của
kinh tế tồn cầu hiện nay, thì chính quy mô nhỏ và vừa với sự linh hoạt cao lại là
thế mạnh. Đặc biệt, đây là khu vực thu hút mạnh nhất lực lượng lao động của các
nước.
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ là khó có thể có được sự so sánh tương đương giữa
khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tiêu chuẩn quốc tế với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa của Việt Nam. Nếu so với tiêu chuẩn của Hoa Kỳ (doanh nghiệp nhỏ là
SV: NguyÔn Thanh Thủ

Líp: K48B4 – KÕ to¸n


×