Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Vận dụng lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp của p a samuelson vào nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.09 KB, 26 trang )

Lời cảm ơn!
Được sự quan tâm giúp đỡ
tận tình của cơ Nguyễn Thị
Bích Liên em đã hồn thành
xong đề tài “Vận dụng lý
thuyết nền kinh tế hỗn hợp
của Samuelson vào phân tích
nền kinh tế Việt Nam hiện
nay”. Vì thời gian có hạn nên
bài viết cịn nhiều thiếu sót,
rất mong các thầy cơ trong
khoa xem xét và góp ý kiến
để em hoàn thành bài viết tốt
hơn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

KÝ TỰ VIẾT TẮT
DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước.

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa.

LLSX

: Lực lượng sản xuất.



2


MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................2
5. Kết cấu của đề tài .........................................................................................2
B. NỘI DUNG .................................................................................................3
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ “NỀN KINH TẾ HỖN HỢP”
CỦA P.A. SAMUELSON.........................................3
1.1. Vài nét về P.A. Samuelson ........................................................................3
1.2. Đặc điểm và phương pháp luận của P.A. Samuelson ................................3
1.3. Nội dung lý thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” của P.A.Samuelson ...............4
1.3.1. Cơ chế thị trường ...................................................................................4
1.3.2. Vai trị của Chính phủ trong kinh tế thị trường .....................................6
1.3.2.1. Vai trị của Chính phủ ........................................................................6
1.3.2.2. Hạn chế của Chính phủ ......................................................................9
Chương 2
VẬN DỤNG LÝ THUYẾT “NỀN KINH TẾ HỖN HỢP CỦA
P.A.SAMUELSON VÀO PHÂN TÍCH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM .....10
2.1 Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI và cơng cuộc Đổi mới ở Việt Nam hiện
nay. ..................................................................................................................10
2.2. Sự cần thiết phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. .......12
2.3. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện

nay. ..................................................................................................................14
2.4. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. ..................................................................................................................15
2.5. Liên hệ. ....................................................................................................18
C. KẾT LUẬN ..............................................................................................20

3


TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................21

4


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với xuất phát điểm là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Việt
Nam đã có nhiều cải cách quan trọng theo hướng thị trường. Những cải cách
này đã góp phần rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời
gian vừa qua. Tuy nhiên sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn
nhiều, số lượng các mặt hàng thuộc diện kiểm soát giá, diện cấm và hạn chế
kinh doanh và kinh doanh có điều kiện vẫn cịn lớn. Cơ chế kiểm sốt các loại
hàng này hầu như khơng có nhiều thay đổi. Những chính sách can thiệp này
dẫn đến tổn thất kinh tế, lãng phí tài ngun và kìm hãm các lực lượng kinh tế
phát triển. Nhà nước cũng liên tục tăng thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
mình. Mặc dù thế thâm hụt ngân sách vẫn liên tục mở rộng, sự chi tiêu của
Nhà nước kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng và khối DNNN hầu như
không thuyên giảm đã đẩy nền kinh tế vào tăng trưởng nóng, kinh tế vĩ mô
bất ổn định. Bởi vậy cần kết hợp cơ chế thị trường với vai trò kinh tế của
Chính phủ trong điều hành nền kinh tế hiện nay. Đó là nền kinh tế hỗn hợp,

thị trường quyết định giá cả và sản lượng của hầu hết các khu vực tư nhân,
cịn Chính phủ tập trung vào các giải pháp kinh tế tổng thể với các chương
trình về thuế, chi tiêu, điều tiết tiền tệ, cả thị trường và Chính phủ đều cần
thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh.
Nền kinh tế trong đó có bộ phận kinh tế do Nhà nước nắm, có bộ phận
do các đồn thể xã hội, chính trị, các tổ chức tập thể nắm, có bộ phận kinh tế
tư nhân cùng tồn tại trong nền kinh tế quốc dân hay trong một ngành, một đơn
vị kinh tế tác động lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Nhà nước không coi bộ
phận kinh tế Nhà nước và bằng những chính sách, luật pháp, biện pháp hành
chính và kinh tế (thuế, đầu tư, tín dụng, giá cả, lãi suất, xuất nhập khẩu, cung
ứng các dịch vụ xã hội…) để kiểm soát và chỉ huy hướng dẫn các bộ phận
kinh tế khác, nhất là kinh tế tư nhân, cũng như để điều tiết thu nhập và lợi ích

1


của tập thể và lợi ích cá nhân. Nền kinh tế hỗn hợp có thể tồn tại trong các
hình thái kinh tế khác nhau, trong chế độ TBCN cũng như trong chế độ
XHCN. Nền kinh tế hỗn hợp có thể là một nền kinh tế trong một Nhà nước
dân chủ tư sản, trong đó bộ phận kinh tế tư nhân chiếm vai trò chủ đạo và
hướng dẫn xã hội đi lên CNTB, có thể là nền kinh tế của thời kỳ quá độ và
hướng xã hội đi lên CNXH.
Với những ưu điểm nổi bật đó, nền kinh tế hỗn hợp được đề cập cụ thể
trong học thuyết “kinh tế hỗn hợp” của P.A. Samuelson, ông nêu quan điểm
không nên tuyệt đối hố vai trị kinh tế của Nhà nước, cũng như khơng nên
tuyệt đối hố vai trị của thị trường trong vận hành một nền kinh tế. Đây là
một tổng kết thực tiễn rất quan trọng mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu,
vận dụng trong công cuộc đổi mới để vận hành nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có hiệu quả.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu “lý thuyết kinh tế hỗn hợp” của P.A.
Samuelson từ đó thấy được vai trị quan trọng của nền kinh tế hỗn hợp trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Lý thuyết “kinh tế hỗn hợp” của P.A. Samuelson
Phạm vi nghiên cứu: Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài có sử dụng các phương pháp: so
sánh, giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp để làm rõ vấn đề nền kinh tế
hỗn hợp.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo nội dung đề tài gồm 2
chương:
Chương 1: Lý thuyết về “Nền kinh tế hỗn hợp” của P.A. Samuelson
Chương 2: Vận dụng lý thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” của P.A.
Samuelson vào nền kinh tế Việt Nam.

2


B. NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ “NỀN KINH TẾ HỖN HỢP”
CỦA P.A. SAMUELSON
1.1. Vài nét về P.A. Samuelson
P.A. Samuelson là người sáng lập khoa kinh tế học nổi tiếng của trường
Đại học Kỹ thuật Massachusetts dành cho những người đã tốt nghiệp đại học
Chicago và Havard. Khi cịn trẻ, ơng đã trở nên nổi tiếng trên thế giới với tác
phẩm khoa học của mình và ơng là người Mỹ đầu tiên được nhận giải thưởng
Nobel về “Kinh tế học” năm 1970. Giáo sư P.A. Samuelson thường viết bài

trong chuyên mục kinh tế học của tạp chí NewYork. Ơng thường tham dự
quốc hội Mỹ và hoạt động với tư cách là cố vấn lý thuyết cho Ngân hàng dự
trữ Liên bang, ngân khố Hoa Kỳ và nhiều tổ chức tư nhân khác. Ông từng làm
cố vấn cho Tổng thống F.Kenench và là tác giả cuốn “Kinh tế học” xuất bản
lần đầu tiên năm 1948 tại NewYork, đã tái bản 15 lần. Sách được in và xuất
bản tại Việt Nam vào năm 1989 gồm 2 tập. Tập 1 từ chương 1 đến chương 20
trình bày những vấn đề kinh tế học vi mơ. Tập 2 từ chương 21 đến chương 37
trình bày những vấn đề kinh tế học vĩ mô.
1.2. Đặc điểm và phương pháp luận của P.A. Samuelson
Lý thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” là hạt nhân tin tưởng của kinh tế học
trường phái chính hiện đại và nó được trình bày rõ trong cuốn “Kinh tế học”
của P.A. Samuelson. Quan điểm “Nền kinh tế hỗn hợp” có mầm mống tư
tưởng từ cuối những năm cuối thế kỷ XIX. Sau chiến tranh, tư tưởng này
được các nhà kinh tế học Mỹ, trong đó có A.Hafin tiếp tục nghiên cứu và P.A.
Samuelson phát triển trong cuốn “Kinh tế học” của mình.
Nếu các nhà kinh tế học trường phái cổ điển và tân cổ điển say sưa với
“bàn tay vơ hình” và “cần bằng tổng quát” trường phái Keynes mới say sưa

3


với “bàn tay Nhà nước” thì P.A.Samuelson chủ trương phân tích kinh tế dựa
vào cả “hai bàn tay” làm cơ chế thị trường và Nhà nước. Ông cho rằng “điều
hành một nền kinh tế khơng có Chính phủ hoặc thị trường cũng như vỗ tay
bằng một bàn tay”.
Về phương pháp: Kết hợp phương pháp truyền thống với phương
pháp hiện đại, chịu ảnh hưởng của tư tưởng giới hạn. Tuân theo quy luật khan
hiếm tiến tới quy luật năng suất giảm dần và chi phí ngày càng tăng. Kết hợp
phương pháp phân tích vĩ mơ với phân tích vi mơ trong trình bày kinh tế học.
Về nội dung: Kinh tế học trường phái chính hiện đại là kinh tế thị

trường có sự điều tiết của Chính phủ. Tư tưởng chủ đạo là kinh tế thị trường
có sự điều tiết ở mức độ cho phép. Khẩu hiệu của họ là Nhà nước đến mức
cần thiết, thị trường đến mức cho phép.
1.3. Nội dung lý thuyết “Nền kinh tế hỗn hợp” của P.A.Samuelson
Nền kinh tế hỗn hợp theo quan điểm của P.A.Samuelson là nền kinh tế
vận động chịu sự điều tiết của hai yếu tố: Cơ chế thị trường và Nhà nước. Hai
yếu tố này giữ vai trò ngang nhau.
1.3.1. Cơ chế thị trường
Theo P.A.Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh
tế. Trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn
nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là:
Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường
không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. “Một nền kinh tế thị trường là
một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh
nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp
để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác mà máy tính lớn
nhất ngày nay khơng thể giải nổi. Khơng ai thiết kế ra nó. Nó tự nhiên và
cũng như xã hội lồi người nó thay đổi”.

4


Thị trường là một q trình mà trong đó, người mua và người bán một
thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng
hố. Như vậy, nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hàng hố,
người bán và người mua, giá cả hàng hoá. Hàng hoá bao gồm hàng tiêu dùng,
dịch vụ và yếu tố sản xuất như: lao động, đất đai, tư bản. Từ đó hình thành
nên thị trường hàng tiêu dùng và thị trường các yếu tố sản xuất. Trong hệ
thống thị trường mỗi hàng hố, mỗi loại dịch vụ đều có giá cả của nó. Giá cả
mang lại thu nhập cho hàng hố mang đi bán. Và mỗi người lại dùng thu nhập

mua cái mình cần. Nếu một loại hàng hố nào đó có nhiều người mua thì
người bán sẽ tăng giá lên để phân phối nội cung hạn chế. Giá lên cao sẽ thúc
đẩy người sản xuất làm ra nhiều hàng hoá hơn. Khi có nhiều hàng hố, người
bán muốn bán nhanh để giải quyết hàng của mình nên hạ giá xuống. Khi giá
hạ, người mua hàng đó tăng lên. Do đó, người bán lại tăng giá lên. Như vậy,
trong cơ chế thị trường có một hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá cả và sản
xuất. “Giá cả là phương tiện tín hiệu của xã hội”. Nó chỉ cho người ta biết sản
xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và cũng thơng qua đó nó thực hiện phân
phối cho ai.
Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới cung - cầu hàng hố, đó là
khái qt của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự biến
động của giá cả làm cho trạng thái cân bằng cung - cầu thường xuyên biến đổi
và đó cũng chính là nội dung quy luật cung - cầu hàng hoá.
Nền kinh tế thị trường chịu điều khiển của hai ông vua: người tiêu dùng
và kỹ thuật. Người tiêu dùng thống trị thị trường, vì họ là người bỏ tiền ra
mua hàng hoá do các doanh nghiệp sản xuất ra. Hay như ơng nói: “Người tiêu
dùng bỏ phiếu bằng đơla, họ chọn điểm nằm trên ranh giới khả năng sản xuất
song kỹ thuật hạn chế vì nền sản xuất khơng thể vượt giới hạn khả năng sản
xuất, do vậy lá phiếu bằng đô la của người tiêu dùng mua, không thể quyết
định vấn đề sản xuất phải sản xuất hàng gì. Như vậy, nhu cầu phải chạy theo

5


cung ứng của người kinh doanh. Vì người sản xuất phải định giá hàng của
mình theo chi phí sản xuất nên họ sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực nhiều lợi
nhuận hơn. Như vậy, thị trường chịu sự chi phối của cả chi phí kinh doanh,
lẫn các quyết định cung - cầu của người tiêu dùng quy định. Ở đây, thị trường
đóng vai trị mơ giới trung gian hố giải giữa sở thích người tiêu dùng với hạn
chế về kỹ thuật.

Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động
của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến với khu vực sản
xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người
tiêu dùng. Lợi nhuận cần đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật
sản xuất hiệu quả nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ
để quyết định ba vấn đề: cái gì, thế nào và cho ai.
Kinh tế thị trường phải được hoạt động trong môi trường cạnh tranh do
các quy định kinh tế khách quan chi phối. Trong “kinh tế học” P.A.Samuelson
vận dụng ngun lý “bàn tay vơ hình” của A.Smith và nguyên lý “cân bằng
tổng quát” của Leon Walras để phân tích mơi trường hoạt động của kinh tế thị
trường. Để phân tích cạnh tranh thị trường, ơng đã vận dụng lý thuyết chi phí
bất biến của John Maurice Clark, lý thuyết ba nhân tố sản xuất của J.B. Say,
J.S.Mill, lý thuyết hiệu quả của Pareto nhằm đề ra các chiến lược thị trường,
bảo đảm cho các tổ chức độc quyền thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Nghiên cứu sự hoạt động của cơ chế thị trường, P.A.Samuelson cũng
chỉ rõ: Bàn tay vơ hình đơi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Đó
chính là những khuyết tật của hệ thống kinh tế thị trường. Những khuyết tật
này có thể là do tác động bên ngồi gây nên như ô nhiễm môi trường mà
doanh nghiệp không phải trả cho sự huỷ hoại đó; hoặc là những thất bại thị
trường do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự do cạnh tranh; hoặc là các
tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp. Và cuối cùng là sự phân phối thu nhập
bất bình đẳng do hệ thống thị trường mang lại. Để đối phó với những khuyết

6


tật của cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại phối hợp giữa “bàn tay vơ
hình” với “bàn tay hữu hình” như thuế khố, chi tiêu và luật lệ của Chính
phủ.
1.3.2. Vai trị của Chính phủ trong kinh tế thị trường

1.3.2.1. Vai trị của Chính phủ
Chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường.
Chức năng thứ nhất là thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này
thực tế vượt ra ngồi khn khổ của lĩnh vực kinh tế học. Ở đây Chính phủ đề
ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả
bản thân Chính phủ cũng phải tuân thủ. Điều này bao gồm quy định về tài sản
(tài sản tư nhân là như thế nào?, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh
doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và
nhiều luật để xác định môi trường kinh tế.
Chức năng thứ hai là sửa chữa những thất bại của thị trường để thị
trường hoạt động có hiệu quả.
Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động
của nó khơng hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi
dụng ưu thế của mình, các tổ chức độc quyền có thể quy định giá cả để thu lợi
nhuận và do vậy phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hồn hảo. Vì vậy, cần thiết phải
có sự can thịêp của Chính phủ để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả
của cạnh tranh thị trường.
Thứ hai, là những tác động bên ngồi cũng dẫn đến tính khơng hiệu
quả của hoạt động thị trường và đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp.
Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi
phí lợi ích cho doanh nghiệp khác. Hoặc người khác mà các doanh nghiệp
hoặc con người đó khơng phải trả hoặc được nhận đúng những lợi ích mà họ
cần phải trả hay được nhận.
Thứ ba, Chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất hàng hố cơng cộng.

7


Theo các các nhà kinh tế, hàng hoá tư nhân là một loại hàng hoá mà nếu như
một người đã dùng thì người khác khơng thể dùng được nữa. Cịn hàng cơng

cộng là một loại hàng hố mà khi một người đã dùng thì người khác vẫn có
thể dùng được.
Ích lợi giới hạn của hàng hố cơng cộng đối với xã hội và tư nhân là
khác nhau. Nhìn chung, ích lợi giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hố
cơng cộng là rất nhỏ. Vì vậy, tư nhân thường khơng muốn sản xuất hàng hố
cơng cộng. Mặt khác, có nhiều hàng hố cơng cộng có ý nghĩa quan trọng cho
quốc gia như: hàng hố quốc phịng, luật pháp, trật tự trong nước nên không
thể giao cho tư nhân được. Vì vậy, Chính phủ phải đảm nhận sản xuất hàng
hố công cộng.
Thứ tư, là thuế. Trên thực tế, phần chi phí của Chính phủ phải được trả
bằng tiền thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự
thực là tồn bộ cơng dân tự mình lại gánh nặng thuế lên vai mình và mỗi cơng
dân cũng được hưởng phần hàng hố cơng cộng do Chính phủ cung cấp.
Chức năng thứ ba là đảm bảo sự công bằng. Trong điều kiện hoạt
động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường thì vẫn thấy rằng sự
phân hố bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống
thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy, Chính
phủ cần thiết phải thơng qua những chính sách để phân phối thu nhập. Cơng
cụ quan trọng nhất của Chính phủ là thuế luỹ tiến, đánh thuế người giàu tỷ lệ
thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường thuế luỹ tiến áp dụng cho thuế
thu nhập và thuế thừa kế. Bên cạnh thuế phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để
giúp cho người già, người mù, người tàn tật, người phải nuôi con và bảo hiểm
thất nghiệp khơng có cơng ăn việc làm. Hệ thống thanh tốn chuyển nhượng
này tạo ra mạng lưới an tồn bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại
về kinh tế.

8


Cuối cùng, Chính phủ đơi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm

dân cư có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế,
cho thuê nhà rẻ…
Chức năng thứ tư: là ổn định kinh tế vĩ mô. Từ khi ra đời, CNTB đã
từng gặp những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả tăng) và suy thối
(nạn thất nghiệp rất cao) đơi khi thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm
20, thời kỳ đại suy thoái ở Mỹ trong những năm 30 của thế kỷ XX.
Chính phủ thực hiện các chức năng trên đây thông qua ba công cụ là
các loại thuế, các khoản chi tiêu lãi suất, thanh toán chuyển nhượng, khối
lượng tiền tệ và những quy định hay kiểm sốt. Thơng qua thuế, Chính phủ
điều tiết tiêu dùng, đầu tư của tư nhân khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động
kinh doanh của doanh nhân. Các khoản chi tiêu của Chính phủ sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp hay cơng nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ và cả
những việc chuyển tiền nhằm hỗ trợ cấp thu nhập (như bảo hiểm, trợ cấp thất
nghiệp…). Những quy định hay kiểm sốt của Chính phủ cũng là nhằm
hướng nhân dân đi vào hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh.
Khi thực hiện các chức năng kinh tế, Chính phủ đưa ra quyết định về
phương án lựa chọn. Từ đó, hình thành nên lý thuyết lựa chọn cơng cộng. Sự
lựa chọn công cộng là một sự tập hợp các ý thức cá nhân thành một sự lựa
chọn tập thể. Theo quy tắc nhất trí tất cả các quyết định đều phải nhất trí
thơng qua. Cơng cụ để phân tích sự lựa chọn công cộng là đường giới hạn khả
năng - giá trị sử dụng. Ở đây, các nhà kinh tế học sử dụng lý thuyết giới hạn
và hiệu quả Pareto.
1.3.2.2. Hạn chế của Chính phủ
Cũng như “bàn tay vơ hình”, “bàn tay hữu hình” hay sự can thiệp của
Nhà nước cũng có những hạn chế và khuyết tật chẳng hạn như:
- Có nhiều vấn đề Nhà nước lựa chọn khơng đúng

9



- Chính phủ tài trợ cho các chương trình q lớn trong thời gian q dài
điều đó gây ra tính khơng hiệu quả của sự can thiệp của Chính phủ.
- Tổ chức thực thi luật lệ kém.
- Có thể có những Chính phủ bất tài, quan liêu, tham nhũng sẽ ảnh
hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chính vì vậy, phát triển kinh tế quả là phải dựa vào cả “hai bàn tay” kết
hợp kinh tế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước theo lý thuyết “nền kinh
tế hỗn hợp” của P.A.Samuelson.

10


Chương 2
VẬN DỤNG LÝ THUYẾT “NỀN KINH TẾ HỖN HỢP CỦA
P.A.SAMUELSON VÀO PHÂN TÍCH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI và cơng cuộc Đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
Hoàn cảnh nước ta trong 10 năm sau khi giải phóng miền Nam (1975 1985). Sau khi miền Nam được hồn tồn giải phóng thì hậu quả của cuộc
chiến tranh để lại hết sức nặng nề, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn,
kẻ thù lại ra sức bao vây cấm vận kinh tế nước ta, thiên tai lũ lụt xảy ra nhiều,
tình hình kinh tế - xã hội ở thời kỳ hậu chiến rất phức tạp… Đức trước tình
hình đó nhiệm vụ trước mắt là phải nhanh chóng hàn gắn những vết thương
chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN đồng thời củng
cố quốc phòng, bảo vệ thành quả của cách mạng. Trải qua hai kỳ Đại hội toàn
quốc của Đảng là Đại hội lần thứ V (1982), cách mạng nước ta đã đạt được
những thành tựu rất đáng ghi nhận đó là: hồn thành thống nhất đất nghiên
cứu, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, nhanh chóng khơi phục
được nền kinh tế quốc dân, khắc phục được những hậu quả của thiên tai lũ lụt,
tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đó là chiến tranh biên giới phía
Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, làm được nghĩa vụ quốc tế

giúp bạn Lào và Campuchia ổn định đời sống nhân dân trong nước về nhiều
mặt. Bên cạnh những thành tựu nói trên, cách mạng nước ta cũng gặp rất
nhiều khó khăn và yếu kém, nền kinh tế nước ta kém phát triển, tình hình sản
xuất ngày một thụt lùi, nhất là những năm 1979 - 1980, trong khi đó đời sống
của nhân dân ta khơng những khơng được nâng cao mà còn giảm sút, đất
nước ta bước vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của tình
hình đó là Đảng và Nhà nước ta mắc nhiều sai lầm khuyết điểm trong công
tác lãnh đạo và chỉ đạo kinh tế - xã hội. Đại hội lần thứ VI đề ra đường lối đổi

11


mới (1986). Để khắc phục những sai lầm và khuyết điểm của Đảng, đưa đất
nước đi lên vượt qua khủng hoảng thì Đảng ta phải đổi mới chủ trương, chính
sách và biện pháp. Vì vậy mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã được triệu tập
vào tháng 12/1986. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Nội dung chính của Đại hội Đảng lần thứ VI là: Đại hội VI đã tự phê bình
những sai lầm khuyết điểm của Đảng, nhìn thẳng vào sự thật, rút ra những bài
học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là: “Phải lấy dân
làm gốc”. Phải ln xuất phát từ tình hình thực tế khách quan. Phải làm theo
quy luật khách quan, bài học về xây dựng Đảng Cộng sản ngang tầm với tình
hình nhiệm vụ mới.
Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới ở đây
không phải chỉ thay đổi con đường và mục tiêu XHCN mà là làm sao cho
mục tiêu ấy được thực hiện tốt hơn bằng quan điểm đúng đắn về CNXH, bằng
những biện pháp, bằng những bước đi, những hình thức thích hợp. Đổi mới
tồn diện đồng bộ từ kinh tế, chính trị, tư tưởng đến xã hội. Đổi mới về kinh
tế là trọng tâm, đổi mới về chính trị cần phải làm tích cực nhưng phải thận
trọng không gây mất ổn định, không làm thiệt hại đến công cuộc đổi mới. Nội
dung đổi mới về kinh tế Đại hội Đảng VI đề ra trong những năm 1986 - 1990

cần tập trung sức người, sức của để thực hiện ba chương trình: lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế ở nước ta phải
bao gồm công nghiệp, nông nghịêp và phải kết hợp chặt chẽ với nhau. Về
công nghiệp phải đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xây
dựng các ngành công nghiệp phải xây dựng tồn diện, phát triển nơng, lâm,
ngư nghịêp gắn liền với công nghịêp chế biến, nông nghiệp phải đảm bảo
lương thực, thực phẩm, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu để ổn định tình hình. Cải
tạo quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, khơng ngừng hồn thiện các hình thức khốn sản phẩm đến nhóm người
lao động ở nơng thơn, khuyến khích sản xuất. Đại hội ĐảngVI thừa nhận sự

12


tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế (5 thành phần), phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Xố bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, lấy lợi ích vật chất để khuyến khích sản xuất. Mở rộng kinh tế đối ngoại
và hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế. Đổi mới về chính trị: Đại hội Đảng VI
nhấn mạnh về vấn đề dân chủ hoá XHCN, lấy dân làm gốc dựa vào phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, coi đây là nề nếp hàng ngày
của đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong
lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc Việt Nam. Đường lối mới do Đại hội VI đề ra
đã được bổ sung và hoàn thiện dần trong các đại hội toàn quốc của Đảng là
Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1998) và trong các Nghị quyết của Ban chấp
hành Trung ương Đảng các khố nói trên.
2.2. Sự cần thiết phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay.
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường thông qua q trình trao đổi mua bán. Quan hệ

hàng hóa – tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa
trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất.
Ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội những điều kiện
chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn cịn tồn tại. Do đó sự tồn tại kinh tế
hàng hóa ở nước ta là một tất yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh
tế hàng hóa xuất hiện và tồn tại là:
Phân cơng lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa
vẫn tồn tại và ngày càng phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện
nay. Sự phát triển của phân công lao động xã hội thể hiện ở chỗ các ngành
nghề ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chun mơn hóa sâu.

13


Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập
cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường ở nước ta.
Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất thì phải xã hội hóa, chun mơn hóa lao động. Q trình ấy chỉ có thể
diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
Chỉ có sự phát triển kinh tế thị trường mới làm nền kinh tế nước ta phát
triển năng động. Trong có chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị, cung
cầu nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển. Sử
dụng kinh tế thị trường là sử dụng quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc
mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hóa mình làm ra. Chính vì thế
mà nền kinh tế trở nên sống động.
Phát triển kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp

ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh
tế thị trường và tăng tỷ lệ hàng hóa nơng sản đã làm cho hàng hóa bán ra của
nơng dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn
cũng ngày một phát triển, taoj ra cho nông dân nhiều việc làm. Đó cũng là
điều đã diễn ra ở thành phố, đối với những người lao động thành thị.
Phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhiều cán
bộ quả lý và lao động có trình độ cao. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải
vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá
thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng
cao hơn nữa hiệu quả kinh tế.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu
khách quan, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu

14


thành nền kinh tế hiện đại. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng
sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện
nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường khơng đối lập với các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ
hơn.
Thực tiễn những năm mới chỉ ra rằng việc chuyển sang mơ hình kinh tế
thị trường của Đảng ta là hồn tồn đúng đắn. Nhờ mơ hình kinh tế đó, chúng
ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đối với vốn đầu tư từ
nước ngoài, giải phong được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất, góp phần quyết định đảm bảo nhịp độ tăng trưởng GDP bình
quân hàng năm cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh thuật và xã hội được tăng
cường. Đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao tích lũy xã hội tạo tiền đề
cho sự phát triển trong tương lại.

2.3. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay.
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp. Trong khi nền kinh tế ngày
càng được thị trường hóa thì sự can thiệp của Nhà nước và nền kinh tế vẫn
còn ở mức độ cao. Hiện tại Nhà nước vẫn sử dụng các biện pháp quản lý giá
cả kiểu hành chính như u cầu các tập đồn kinh tế và tổng công ty điều
chỉnh mức đầu tư, quyết định giá xăng dầu, kiểm soát giá thép, xi măng, than.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ra quyết định về chiến lược
thực hiện phát triển kinh tế xã hội cho thời kỳ 10 năm và phương hướng thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt
Nam xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm trình
Quốc hội góp ý và thơng qua. Chính phủ Việt Nam tự nhận rằng. Kinh tế Việt
Nam là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và nhiều nước và
khối kinh tế bao gồm cả một số nền kinh tế thị trường tiên tiến cũng công
15


nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay Hoa Kỳ, EU
và Nhật Bản vẫn chưa công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Tổ chức Thương Mại thế giới công nhận Việt Nam là nền kinh tế đang
phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi. Việt Nam hiện nay có nhiều
thành phần kinh tế. Theo cách xác định hiện nay của Chính phủ, Việt Nam có
các thành phần kinh tế sau: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi. Một trong những biện pháp mà Đảng và Nhà nước Việt Nam
thực hiện để khu vực kinh tế nhà nước trở thành chủ đạo của nền kinh tế là
thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước. Tuy nhiên
từ đầu thập niên 1990 cho đến nay, Việt Nam đã liên tục thực hiện cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Đảng và Nhà nước chủ trương ưu
tiên phát triển các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể song tốc độ

tăng trưởng của hai thành phần này lại thấp hơn so với của kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục thuế năm
2007, khu vực kinh tế nhà nước là khu vực lớn nhất, chiếm 36,43% GDP thực
tế của Việt Nam, tiếp theo lần lượt là kinh tế cá thể (29,61%), kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi (17,66%), kinh tế tư nhân (10,11%).
2.4. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
8 nhóm giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
1. Phục hồi kinh tế, chuyển dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng
trưởng.
2. Điều hành chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, thận trọng để bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt nhập siêu, ngăn chặn lạng phát cao trở
lại.

16


3. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, khoa
học công nghệ.
4. Tạo chuyển biến trong cơng tác chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
5. Đảm bảo an ninh xã hội và phúc lợi xã hội.
6. Tăng cường cơng tác bảo vệ mơi trường, phịng chống thiên tai, ứng
phó với biến đổi khí hậu.
7. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tăng cường quốc phòng, an
ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
8. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách
hành chính, phịng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
Biện pháp:

Tại Hội nghị Đảng tồn quốc lần thứ VI năm 1986 đã xác định nhiệm
vụ của Chính phủ trong năm 2010 là tiếp tục tăng cường ổn định kinh tế vĩ
mô, đảm bảo cân đối của nền kinh tế, không để lãng phát tăng cao trở lại.
Với những nội dung cơ bản của 8 nhóm giải pháp và 132 giải pháp cụ
thể trong dự thảo nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ
đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân
sách nhà nước năm 2010, Hội nghị đã thảo luận xoay quanh nhiều vấn đề đặt
ra trong năm 2010.
Mục tiêu được đặt ra trong nghị quyết của Chính phủ là phấn đấu phục
hồi tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009 tăng tính ổn định kinh tế vĩ
mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng, ngăn chặn lãng phát cao trở lên. Chính
phủ tăng khả năng đảm bảo an ninh xã hội, chủ động hội nhập và nâng cao
hiệu quả quả hợp tác kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội, đảm bảo yêu cầu quốc phòng an ninh, phấn đấu đạt mức cao nhất
các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010.

17


Thường trục Chính phủ đã quán triệt đến các Bộ ngành và địa phương thống
nhất thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu năm 2010 trên tất cả các lĩnh vực
đời sống kinh tế – xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, Chính phủ sẽ huy động tối
đa các nguồn vốn, nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn ODA đẩy mạnh xuất khẩu,
tăng cường xúc tiến thương mại nội địa, đa dạng hóa các kênh phân phối, phát
triển các mơ hình kinh doanh hiện đại kết hợp với các mơ hình truyền thống,
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chính phủ đã nhấn mạnh quyết tâm tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ sản
xuất nông, lâm, thủy sản, trước hết là việc tiêu thị sản phẩm một số ngành
hàng hóa lớn và sản xuất tập trung như lúa gạo, thủy sản và một số nơng sản
khác nhằm duy trì, phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

nông dân, tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện dự án trống mới 5 triệu
ha rừng trong năm 2010.
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế đã thừa nhận việc điều
hành vĩ mơ của Chính phủ vẫn còn những hạn chế, tồn tại. Nhất là trong xây
dựng thể chế, triển khai, kiểm tra thực hiện các chính sách trong điều hịa,
phối hợp giữa các ngành, các cấp. Phản ứng chính sách trong quản lý thị
trường ngoại hối. Thị trường vàng, thị trường bất động sản còn lúng túng và
chậm.
Việc xử lý những vấn đề xã hội bức xúc như nạn chặt phá và cháy rừng,
lãng phí tài ngun, ơ nhiễm mơi trường, vệ sinh an tồn thực phẩm, ùn tắc
giao thông... cũng được Đại hội thừa nhận chưa cao.
Từ một loạt các hạn chế trong điều hành, Chính phủ đã báo cáo về tình
trạng nhập siêu lớn nên cán can thành tốn tổng thể cịn khó khăn. Chỉ số giá
tiêu dùng 4 tháng đầu năm 2010 tăng tới 4,27% so với tháng 12/2009.
Theo báo cáo, năm 2009 là năm mà GDP thấp nhất trong 10 năm gần
đây. Công nghiệp và xây dựng tuy đã vượt qua khó khăn, trí trệ nhưng vẫn

18


tăng trưởng ở mức thấp bằng khoản 2/3 mức tăng trưởng bình quân thời kỳ
2000 – 2007. Năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh trang của hàng hóa,
các doanh nghiệp và nền kinh tế còn thấp.
Lãi suất ngân hàng sau khi Nhà nước dừng các khoản hỗ trợ, đang đứng
ở mức cao đã hạn chế khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
“Hệ thống các định chế tài chính như ngân hàng chứng khốn, bảo
hiểm chưa thật lành mạnh, tính cơng khai, minh bạch thấp cịn tiềm ẩn rủi ro”.
Tính chung trong số 25 chỉ tiêu của năm 2009 có 8 chỉ tiêu chưa đạt kế
hoạch đề ra.

Trước thực trạng đó Chính phủ đã đề ra nhiệm vụ hàng đầu là thực hiện
đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mơ, kiềm chế lãng phát, góp
phần phục hồi tăng trưởng kinh tế vững chắc. Theo đó, Chính phủ còn áp
dụng một loạt các biện pháp kinh tế trước hết là sử dụng cơng cụ chính sách
tiền tệ như lại suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, thị trưởng mở... để giảm
mặt bằng lãi suất.
Năm nay, Chính phủ cũng quyết tâm đẩy mạnh sản xuất kinh doanh,
đầu tư, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5%.
Mục tiêu đón 4,2 triệu khách quốc tế trong năm 2010 cũng được Chính
phủ đề ra trong kỳ họp quốc hội này, nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP.
2.5. Liên hệ.
Một trật tự quốc tế mới đang được xác lập trên quy mơ tồn cầu với
những đặc trưng chủ yếu là đối thoại và hợp tác xây dựng các khu vực hịa
bình ổn định thực hiện các ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ của nhau... Cuộc khủng hoảng hệ thống XHCN trên thế
giới đặc biệt là sự sụp đổ của các nước Đông Âu, của Liên bang Xô viết năm
1991 năm qua. Thế giới chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ chạy đua phát

19


triển kinh tế. Việc xây dựng thể chế kinh tế tồn cầu hay nói cách khác việc
cải tổ và đổi mới nền kinh tế thế giới là một nhu cầu cấp bách hiện nay nhằm
thỏa mãn được những yêu cầu mới của sự phát triển sản xuất phù hợp với
diễn biến về mặt kinh tế chính trị và thể chế xã hội.
Công cuộc cải tổ và đổi mới đang diễn ra sâu rộng ở tất cả các nước
còn lại trong hệ thống XHCN với những tên gọi khác nhau (cải cách ở Trung
Quốc, đổi mới ở Việt Nam...) và với các mức độ khác nhau. Đây thực sự là
cuộc cách mạng thay cũ, đổi mới mà khi phát động các nước nêu rõ mục tiêu
là đưa nền kinh tế và toàn bộ đời sống xã hội sang một trạng thái mới về chất.

Các nước XHCN không thể phát triển ẩu, sự tan rã và suy sụp nhanh
chóng của nền kinh tế Liên Xơ cũ đã cho thấy rằng mơ hình kinh tế tập trung
quan liêu, đóng cửa khơng phù hợp với xu hướng tồn cầu hóa nền kinh tế
hiện nay. Nó khẳng định con đường phát triển của nền kinh tế thị trường ở các
nước đang phát triển cũng như đang tiến hành cải cách nền kinh tế theo hướng
thị trường là đúng đắn. Ví dụ như Angiêri từn gày 11/01/1992 nhà nước đã bỏ
chính sách bao cấp giá, giá đang tích cực tiến hành nền kinh tế cho phù hợp
với xu hướng mới này là thế giới. Xu hướng liên kết toàn thế giới thành một
thị trường thống nhất đang được đẩy mạnh hơn. Nó phản ánh q trình tồn
cầu hóa nền kinh tế hiện nay.

20


C. KẾT LUẬN
Vì mỗi lý thuyết được xây dựng trên một tập hợp các giả thuyết mà
trong thực tế nền kinh tế thường không đáp ứng đầy đủ các giả thuyết này;
hoặc trong thực tế có nhiều vấn đề kinh tế đặc thù. Tuy vậy các lý thuyết tăng
trưởng kinh tế có thể cho ta biết các quan điểm và cách thức mà các nền kinh
tế đạt được một mức tăng trưởng nào đó. Các học thuyết kinh tế (mà từ đó
người ta xây dựng nên các mơ hình kinh tế) không bất di bất dịch mà luôn
luôn cần được bổ sung, hoàn thiện. Nếu các dự báo kinh tế khơng phù hợp với
các số liệu thực tế cần tìm hiểu tại sao? Bản thân học thuyết đó có thiếu sót gì
khơng được các điều kiện kinh tế – xã hội có phù hợp cho việc áp dụng các lý
thuyết đó khơng... Bằng cách đó chúng ta ngày càng hiểu rõ hơn các lý thuyết
kinh tế đó, điểm mạnh, điểm yếu và đặc biệt trong từng thời điểm lịch sử của
nó. Điểm quan trọng hơn thơng qua q trình trên chúng ta ngày càng có hiểu
biết sâu sắc hơn về cách thức vận hành nền kinh tế. Đó là cơ sở quan trọng
nhất để đưa ra các chính sách kinh tế tốt. Hiểu biết cách thức vận hành nền
kinh tế, vận dụng học thuyết vào thực tế kinh tế xã hội Việt Nam, để phát triển

kinh tế bền vững trong thời hạn là nhiệm vũ rất quan trọng của các nhà nghiên
cứu và hoạch định chính sách kinh tế vĩ mơ. Ngồi ta, việc nằm vững và lựa
chọn lý thuyết phù hợp để đưa ra các chính sách kinh tế cịn giúp cho việc xây
dựng mơ hình kinh tế tăng trưởng kinh tế thích hợp.

21


×