Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vận dụng lý thuyết về nền kinh tế xã hội ở cộng hoà liên bang đức nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và chống độc quyền ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.54 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Trong
giai đoạn hiện nay khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải chấp nhận những quy luật
của nền kinh tế thị trường, trong đó có quy luật cạnh tranh.
Trong nững năm qua nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá
trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó, nền kinh tế đang
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn. Một trong những khó khăn
thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nước ta cịn yếu kém về nhiều mặt.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là khi
nước ta gia nhập WTO, địi hỏi nước ta cần có một nền kinh tế với sức cạnh
tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt được mục tiêu trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn như vậy, chúng ta cần phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phát huy lợi thế
cạnh tranh.
Với những lý do đó, tơi chọn đề tài “Vận dụng lý thuyết về nền kinh tế
xã hội ở cộng hoà Liên bang Đức nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và
chống độc quyền ở Việt Nam”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Lý thuyết về “Kinh tế thị trường xã hội” ở Cộng hồ Liên bang Đức có ý
nghĩa thiết thực đối với thực tiễn của nước ta. Vận dụng học thuyết này với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong phát triển nền kinh
tế thị trường đang là yêu cầu đặt ra truớc mắt đối với nước ta hiện nay.
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu đề tài này chúng ta sẽ thấy được vai trò của
cạnh tranh, tầm quan trọng của các yếu tố xã hội cũng như vai trị của chính phủ
trong nền kinh tế thị trường và vận dụng nó vào thực tiễn Việt Nam. Từ đó nhận
thấy được thực trạng cạnh tranh và chống độc quyền ở nước ta hiện nay như thế
1



nào. Đồng thời tìm ra những giải pháp để khắc phục những tồn tại còn yếu kém
nhằm phát triển kinh tế đất nước, phấn đấu trở thành nước công nghiệp vào năm
2020.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Yêu cầu phát triển xây dựng đất nước buộc chúng ta phải chuyển nền kinh
tế cũ- bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nghiên
cứu học thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hoà Liêng bang Đức,
nhằm thấy rõ tính tất yếu và tầm quan trọng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường trước ngưỡng cửa hội nhập của nước ta. Đồng thời tìm hiểu những tồn tại
cơ bản của quy luật cạnh tranh và chống độc quyền ở nước ta và những giải
pháp của Đảng và nhà nước trong vấn đề này.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Dựa trên lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở Cộng
hoà Liên bang Đức của trường phái chủ nghĩa tự do mới và một số tài liệu liên
quan
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu của đề tài này sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu; lý luận kết hợp thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu và ý nghĩa đề tài
4.1 Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở học thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Cộng
hoà liên bang Đức với thực trạng kinh tế của nước ta hiện nay, đề tài này đi sâu
vào nghiên cứu hai nội dung:
- Học thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Cộng hoà liên
bang Đức.
- Vận dụng lý thuyết về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xã hội với
việc nâng cao năng lực cạnh tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam.
4.2. Ý nghĩa của đề tài
Như đã nói, một trong những khó khăn thách thức đối với nền kinh tế của
nước ta hiện nay là năng lực cạnh tranh còn yếu kém. Ngày nay, việc nhận thức

2


về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta đã có những thay đổi tích cực.
Tuy nhiên thực trạng tồn tại của nó vẫn cịn nhiều bất cập cần khắc phục.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Với thực trạng
như hiện nay đòi hỏi nhà nước phải có sự quan tâm đúng đắn và tìm ra những
giải pháp thích hợp đối với vấn đề này.
Vì vậy, đề tài “Vận dụng lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở Cộng hoà liên bang Đức với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và
chống độc quyền ở Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng và thiết thực đối với thực
tiễn nước ta.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm
có hai chương:
Chương 1: Học thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Cộng
hoà liên bang Đức
Chương 2: Vận dụng lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở Cộng
hoà liên bang Đức với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và chống độc quyền ở
Việt Nam

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HỌC THUYẾT VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
Ở CỘNG HỊA LIÊN BANG ĐỨC
1.1 Hồn cảnh ra đời
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Đức quốc xã thua trận, nền kinh tế bị chiến

tranh tàn phá, đất nước bị chia cắt. Trước hồn cảnh đó các nhà kinh tế thuộc
Cộng hòa Liên bang Đức cho rằng: sự điều tiết độc tài của nhà nước đối với nền
kinh tế là khơng có hiệu quả. Họ phê phán “Mơ hình kinh tế chỉ huy” và ủng hộ
quan điểm tự do kinh tế.
Học phái Phran Phuốc là học phái lý luận đặc trưng cho chủ nghĩa tự do
kinh tế mới. Từ 1948, tư tưởng nền kinh tế của trường phái này trở thành lý luận
kinh tế chính thống, là cơ sở hoạch định chính sách kinh tế của Chính phủ Bon.
Các đại biểu xuất sắc của trường phái này là: Weukens, W.Ropke, Erhard,
Muller, Armack…đã đưa ra nhiều tư tưởng kinh tế nhằm khôi phục lại chủ nghĩa
tự do.
1.2. Những lý thuyết cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội
1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường xã hội ở Cộng
hòa Liên bang Đức
Kinh tế thị trường xã hội không phải là sự kết hợp giữa kinh tế thị trường
hoạt động theo phương thức cũ trước đây và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có kế
hoạch thành một chỉnh thể thống nhất. Nó là một nền kinh tế thị trường thể hiện
một chế độ có mục tiêu “kết hợp các nguyên tắc tự do với nguyên tắc công bằng
xã hội trên thị trường”. Cụ thể là:
Nền kinh tế thị trường xã hội không đồng nhất với cái gọi là “nền kinh tế
thị trường tự do” như một số nhà kinh tế học Mỹ đã đưa ra. Có nghĩa là cần đưa
ra những nguyên tắc pháp lý của nhà nước mang tính cổ điển, khơng cần phải
theo đuổi một chính sách cụ thể nào cả. Họ đề nghị nhà nước chỉ can thiệp một
cách tối thiểu, còn chủ yếu để cho nền kinh tế tự thân vận động.
4


Nền kinh tế thị trường xã hội không đồng nhất với những tư tưởng của
Milton Friedman. Trường phái này muốn nhà nước can thiệp tối thiểu vào nền
kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ cần có chính sách chống lạm phát bằng cách
dùng chính sách điều tiết lưu thơng tiền tệ.

Theo quan điểm của kinh tế thị trường xã hội thì ngun tắc tự do và
ngun tắc cơng bằng được kết hợp chặt chẽ trong khuôn khổ mục tiêu của nền
kinh tế thị trường xã hội. Một mặt tăng cường động viên khuyến khích những
sáng kiến tài năng của cá nhân làm tăng thêm của cải cho xã hội. Mặt khác khi
có đủ điều kiện cần cố gắng loại trừ những tiêu cực như nghèo đói, thất nghiệp,
lạm phát.
Nguyên tắc tự do đòi hỏi mọi quyết định về kinh tế, chính trị phải phục vụ
lợi ích cá nhân và gia đình họ, vì vậy các quyết định phải dựa trên cơ sở ý
nguyện của người tiêu dùng và người dân.
1.2.2. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xã hội
Cạnh tranh có hiệu quả được coi là yếu tố trung tâm của nền kinh tế thị
trường xã hội. Cạnh tranh có hiệu quả địi hỏi phải có sự bảo vệ và hỗ trợ của
chính phủ. Để cạnh tranh có hiệu quả cần phải tôn trọng quyền tự do của doanh
nghiệp. Cạnh tranh nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh tế.
Chức năng của cạnh tranh
Thứ nhất, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu. Cạnh tranh làm
cho tài nguyên đến nơi người sử dụng nhanh nhất, hiệu quả nhất. Người sử dụng
tài nguyên hoạt động vì lợi nhuận tối đa. Khơng có cơ quan hay chính phủ nào
có thể thay thế được.
Thứ hai, khuyến khích tiến bộ kỹ thuật. Người kinh doanh hoạt động vì
lợi nhuận. Để có lợi nhuận phải chấp nhận cạnh tranh. Để cạnh tranh hiệu quả
cần phải có nhiều biện pháp nhưng trong đó ứng dụng tiến bộ kỹ thuật là quan
trọng nhất. Vì vậy, cạnh tranh thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển không
ngừng.

5


Thứ ba, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Người tiêu dùng ln
đứng ở vị trí trung tâm để thẩm định sản phẩm của doanh nghiệp. Người sản

xuất sẽ bị loại ra ngồi cuộc chơi nếu như khơng thích ứng được với nhu cầu thị
trường. Nhu cầu thị trường chỉ có thể đáp ứng trong mơi trường cạnh tranh có
hiệu quả.
Thứ tư, tính linh hoạt và sự mềm dẻo của nền kinh tế. Cạnh tranh có hiệu
quả là cơng cụ tốt nhất để sử dụng tài nguyên. Nếu tài nguyên không được sử
dụng tốt sẽ dẫn đến sự mất cân bằng. Vì vậy, bên cạnh cơ chế thị trường chính
phủ cần có chính sách điều tiết.
Thứ năm, sự kiểm soát sức mạnh kinh tế. Nếu một nền kinh tế khơng có
cạnh tranh sẽ dẫn đến độc quyền. Nếu cạnh tranh hợp lý sẽ ngăn chặn tình trạng
độc quyền. Những vị trí độc quyền chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn sau đó sẽ
bị xố bỏ. Như vậy sức mạnh cạnh tranh giúp chính phủ hạn chế độc quyền,
kiểm soát độc quyền.
Thứ sáu, quyền tự do lựa chọn và hành động cá nhân. Cạnh tranh hiệu quả
tạo nên quyền lựa chọn trong kinh doanh cũng như trong tiêu dùng. Hành động
cá nhân được tôn trọng.
Những nguy cơ đe dọa cạnh tranh có hiệu quả
Một là, những nguy cơ từ phía chính phủ. Khi Nhà nước hoạt động với tư
cách là người quản lý xã hội bằng các chính sách của mình có thể làm suy yếu
các q trình cạnh tranh, đặc biệt là khi cách chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ của Nhà nước phục vụ cho mục tiêu chính trị. Ngồi ra, khi nhà nước tồn
tại như một chủ thể kinh tế có sức mạnh thì nó dễ dàng bóp méo các hoạt động
cạnh tranh nhất là trong lĩnh vực thương mại.
Hai là, những nguy cơ do tư nhân gây ra đã tạo ra những hạn chế cạnh
tranh theo chiều dọc và chiều ngang. Sự hạn chế cạnh tranh chính là việc hình
thành những cácten độc quyền để thỏa thuận với nhau về một số vấn đề kinh
doanh nào đó. Cịn hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc là sự thỏa thuận giữa
người sản xuất và người tiêu thụ hàng hóa. Hai loại thỏa thuận này hạn chế sức
6



mạnh cạnh tranh rất lớn. Ngoài ra, hành động tẩy chay, cấm vận và phân biệt đối
xử cũng có ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình cạnh tranh và có hiệu quả. Cuối
cùng sự hợp nhất và thâu tóm lẫn nhau giữa các đối thủ sẽ dẫn đến loại trừ sự
cạnh tranh giữa họ.
Bảo vệ cạnh tranh
Sử dụng các công cụ để kiểm soát độc quyền, xử lý những vi phạm bằng
các biện pháp hình sự và hành chính. Hình thức xử phạt được áp dụng đối với
các nguyên tắc ứng xử quốc gia và quốc tế như xử phạt tiền. Xử lý hành chính
được áp dụng đối với các trường hợp trái pháp luật, sẽ cấm hoạt động một thời
gian hoặc thu giấy phép vĩnh viễn.
1.3. Vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường xã hội
Sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh phải tuân theo hai nguyên tắc:
Nguyên tắc hỗ trợ và nguyên tắc tương hợp giữa các chức năng của Nhà nước và
chức năng thị trường.
1.3.1. Nguyên tắc hỗ trợ
Nói chung, ở Đức trong nền kinh tế thị trường, chính phủ được coi là
người hỗ trợ tăng cường tự do cá nhân. Hỗ trợ nhằm tăng cường sức mạnh của
thị trường. Để cạnh tranh có hiệu quả cần có một số lượng các chủ thể kinh tế tư
nhân độc lập. Họ được toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của mình.
Thị trường mở, khơng có một sự cản trở nào về mặt pháp lý, nhằm ngăn cản các
chủ thể tham gia thị trường. Nếu thị trường được tự do thì mọi nguồn lực sẽ
được sử dụng có hiệu quả, lao động, tài nguyên, đất đai, khoáng sản, nguồn vốn
sẽ được sử dụng hết. Hoạt động kinh tế sôi động, thoả mãn nhu cầu của người
tiêu dùng.
Cạnh tranh thị trường luôn bị các thế lực đe doạ, bởi tư nhân và nhà nước.
Vì vậy cần phải có cơ chế để bảo vệ cạnh tranh.
Một là, chính sách của nhà nước
Hai là, duy trì tỷ giá hối đối đối với đồng tiền nước ngồi.
Ba là, tôn trọng sở hữu tư nhân
7



Bốn là, đảm bảo an sinh và công bằng xã hội
1.3.2. Nguyên tắc tương hợp với thị trường thông qua hệ thống chính
sách
Lao động, việc làm là chính sách lớn của quốc gia. Trong đó vấn đề sử
dụng nhân cơng hết sức quan trọng. Nhà nước hỗ trợ thành lập doanh nghiệp,
tạo ra việc làm cho người lao động.
Chính sách tăng trưởng hợp lý. Tăng trưởng hợp lý là nhằm khai thác hiệu
quả sức lao động, tài nguyên, tiền vốn, tăng trưởng không làm tăng khủng hoảng
thừa và lạm phát tiền tệ. Tăng trưởng hợp lý có quan hệ với cơ cấu vùng, ngành.
Chính sách chống chu kỳ: Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chu kỳ
kinh tế cứ lặp đi lặp lại sau một thời gian 5 năm hoặc 10 năm. Vào thời điểm đó
kinh tế thường gặp khủng hoảng, lạm phát hoặc thất nghiệp, làm cho nền kinh tế
sa sút. Để khắc phục khó khăn, chính phủ cần có chính sách phịng chống chu kì
hiệu quả như là chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng, dự
phịng...
Chính sách thương mại: nhằm thúc đẩy, định hướng hoạt động thương
mại sao cho phát huy lợi thế của nền kinh tế, góp phần tăng trưởng, đẩy lùi các
hiện tượng khủng hoảng.
1.4. Các yếu tố xã hội trong nền kinh tế thị trường xã hội
Trong nền kinh tế thị trường xã hội, yếu tố xã hội được thực thi bởi chính
phủ. Chính phủ bảo đảm mức sống cho mọi tầng lớp dân cư, nhất là những
người có thu nhập thấp, bảo vệ các thành viên trong xã hội khi có những rủi ro
mang tính cộng đồng như là lũ lụt, hạn hán, chiến tranh.
Các công cụ sau đây được sử dụng để đạt được mục tiêu trên:
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập cao hơn, thất nghiệp giảm đi. Vì
vậy tăng trưởng kinh tế góp phần tạo nên các yếu tố xã hội. Giảm áp lực về thất
nghiệp, nâng đời sống dân cư nghèo lên một bước.


8


Phân phối thu nhập công bằng
Phân phối thu nhập công bằng, điều này có liên quan đến mối quan hệ
giữa tiền lương và lợi nhuận, giữa giá cả và tiền lương, giữa tiền lương thực tế
và tiền lương danh nghĩa. Thơng thường nếu nền kinh tế trong tình trạng lạm
phát, phân phối sẽ mất công bằng.
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ở Đức đã có từ những năm 80 của thế kỷ XIX. Bảo hiểm
xã hội là hình thức dùng lực lượng số đông để chia sẻ rủi ro cho số ít. Ví dụ như
thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già, tai nạn.
Phúc lợi xã hội
Phúc lợi xã hội là khoản do nhà nước trợ cấp, nhằm trợ giúp những người
khơng có nơi nương tựa. Khoản này trích từ ngân sách của nhà nước hoặc của xí
nghiệp như trợ cấp bằng tiền hoặc trợ cấp nhà ở.
Các khoản trợ cấp khác của chính phủ. Khoản này quan trọng nhất là trợ
cấp ni con. Ở Đức con nhỏ ln được chính phủ quan tâm về vật chất và tinh
thần. Mức trợ cấp vật chất tăng lên theo số con nuôi dưỡng. Bởi vì ở Đức phần
lớn phụ nữ khơng muốn sinh con.

9


CHƯƠNG II. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VỀ NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG XÃ HỘI Ở CHLB ĐỨC NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM
2.1. Sự chuyển biến về nhận thức đối với cạnh tranh
Sau đổi mới Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang

nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế thị trường với
quy luật cạnh tranh đã khơng cịn chỗ cho sự ỉ lại, trơng chờ vào trợ cấp, nó
buộc các chủ thể kinh tế phải ln ln hoạt động để tìm vị trí tồn tại trong nền
kinh tế. Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật đã dần dần được
chấp nhận ở nước ta như một động lực đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp lý điều chỉnh hành
vi có liên quan đến cạnh tranh thị trường như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam 1987 và sửa đổi vào các năm 1990 và 2000.
- Ban hành Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, Pháp lệnh về chất
lượng hàng hóa năm 1990.
- Năm 1992, ra đời Hiến pháp mới cho phép cá nhân được thực hiện
quyền sở hữu tài sản do thu nhập tạo ra.
- Ban hành Luật thương mại năm 1997…
Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, Nhà nước
đã từng bước nới lỏng cạnh tranh.
Nhà nước tôn trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường
trong đó có quy định cạnh tranh và hạn chế bớt tiêu cực của thị trường. Trong
kinh tế thị trường cạnh tranh tự do bao gồm: tự do hành nghề theo pháp luật, tự
do quyết định người kinh doanh và tự do lựa chọn người tiêu dùng. Cạnh tranh
trên thị trường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: cạnh tranh về thị trường
phân phối, cạnh tranh về khách hàng, cạnh tranh về nhân công....

10


Cạnh tranh xảy ra giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa
các ngành với nhau. Mỗi cấp độ khác nhau thì có hình thức cạnh tranh khác
nhau. Các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh cần phải có nhận thức đúng về
cạnh tranh và các cấp độ của cạnh tranh để từ đó đề ra các chính sách cho sự
phát triển của mình.

2.2. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta
chưa nhất quán, chưa nhận thấy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế và vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khốt về ủng hộ cạnh
tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà nước chưa có
những quy định cụ thể và các cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Bên cạnh đó thị trường chưa coi trọng
khu vực kinh tế tư nhân và việc thành lập hàng loạt các tổng công ty 90, 91 cũng
ảnh hưởng không tốt đến môi trường cạnh tranh. Do những tồn tại trên mà thực
trạng cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở Việt Nam cịn nhiều bất cập, nó thể
hiện cụ thể như sau:
2.2.1. Tình trạng cạnh tranh
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; giữa các doanh nghiệp
nhà nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà
nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư,
thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ... Ngồi ra các doanh nghiệp này cịn tập
trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan trọng như: điện, nước, than,
lửa dầu, bưu chính viễn thơng, giao thông vận tải... Các doanh nghiệp tư nhân
không được coi trọng, các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo một quy chế
riêng, không được ưu đãi nhiều từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh
tế, bởi vì một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn khơng hiệu quả, ỉ lại, trong chờ
vào nhà nước, gây lãng phí nguồn nhân lực xã hội. Trong khi các cơng ty tư
nhân lại hoạt động năng nổ và hiệu quả hơn.
11


Theo TS Phạm Thị Thu Hằng - Viện trưởng Viện phát triển doanh nghiệp
– Phịng Thương mại cơng nghiệp Việt Nam (VCCI): tỷ lệ % vốn của doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) trên tổng vốn của doanh nghiệp Việt Nam luôn ở mức

cao. Năm 2005 DNNN chiếm 54,88%; năm 2006 là 51,92% và 2007 là 47,06.
Trong khi đó doanh nghiệp ngồi nhà nước chỉ chiếm lần lượt là: 24,98%;
28,16% và 34,69%. Không chỉ lợi thế trong việc tiếp cận nguồn vốn, các DNNN
còn nhận được khá nhiều ưu đãi trong việc tiếp cận đất đai và mặt bằng kinh
doanh: có 89% DNNN có địa điểm kinh doanh cố định. Quy mơ và ưu đãi như
vậy, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia thì hoạt động của các DNNN vẫn
chưa thực sự hiệu quả. Số liệu từ nguồn Tổng cục thống kê cho thấy, lần lượt
trong 3 năm 2005; 2006; 2007; mặc dù chiếm số vốn lần lượt là 54,88%;
51,92% và 47,06% nhưng cơ cấu trên tổng doanh thu của DNNN chỉ chiếm lần
lượt là 38,85%; 35,82% và 31,48%. [Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2008]
2.2.2. Hành vi cạnh tranh
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ln muốn tối đa hóa lợi nhuận
của mình mà khơng vấp phải khó khăn trở ngại nào. Do đó, gây nên những hành
vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp. Cụ thể:
Một số doanh nghiệp bắt tay với nhau nhằm tăng cường sức mạnh cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hiệp hội, để từ đó loại bỏ các doanh nghiệp
khác bằng cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt động
kinh doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản phẩm
hoặc dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải tham gia vào hiệp hội hoặc cho phá
sản.
Các doanh nghiệp thỏa thuận với nhau để phân chia thành địa bàn hoạt
động, thị trường tiêu thụ hàng hóa làm cho sự lưu thơng hàng hóa trên thị trường
bị gián đoạn, sự cấu kết giữa các doanh nghiệp dẫn đến việc độc quyền chi phối
một số mặt hàng trong một thời gian nhất định làm cho giá cả một số mặt hàng
tăng cao. Ví dụ như: thuốc tân dược vừa qua ở nước ta giá đắt gấp ba lần so với

12


mặt hàng cùng loại ở nước ngoài, làm thiệt hại cho người tiêu dùng, triệt tiêu

động lực cạnh tranh.
Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường, hành vi
này xuất phát từ một số tổng cơng ty độc quyền hoặc các cơng ty lớn có khả
năng chi phối thị trường. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử
dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh,
theo từng thị trường. Với sức mạnh độc quyền các công ty áp đặt giá cả độc
quyền, độc quyền mua thì mua với giá thấp, độc quyền bán thì bán với giá cao
để thu lợi nhuận siêu ngạch, hoặc để loại đối thủ cạnh tranh, họ có thể hạ giá bán
xuống thấp hơn so với chi phí sản xuất.
Sự lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp dẫn đến việc áp dụng các điều kiện
trong sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp yếu hơn, chi phối các doanh
nghiệp. Hơn nữa việc lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp còn hạn chế khả năng
lựa chọn của người tiêu dùng, khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp bằng
việc tham gia trong lĩnh vực khác. Nó có thể dẫn đến việc áp đặt giá cả sản
phẩm, loại sản phẩm.
Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các công
ty thành viên với nhau, việc này diễn ra theo quy định của Nhà nước. Các công
ty sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mực độ tích tụ hay tập trung của
thị trường. Các công ty liên doanh sáp nhập với nhau làm cho thị trường tập
trung hơn, giảm bớt đối thủ cạnh tranh, tăng khả năng chi phối độc quyền của
các tổng công ty hay các liên doanh làm triệt tiêu cạnh tranh trong kinh doanh.
Các hành vị cạnh tranh không lành mạnh
Hiện nay, nước ta chưa có khung pháp lý hồn chỉnh nên việc xác định xử
phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất khó khăn. Điều này tạo điều
kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng tăng.
Một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh như:

13



- Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường.
Việc hàng giả hàng nhái được bán trên thị trường sẽ gây thiệt hại cho người tiêu
dùng, làm giảm uy tín của các cơng ty làm ăn chân chính.
- Các hình thức quảng cáo gian dối thổi phồng ưu điểm của hàng hóa
mình làm giảm ưu điểm của các hàng hóa khác cùng loại rồi đưa ra mức giá cao
hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm. Điều này cũng gây thiệt hại cho người
tiêu dùng và những doanh nghiệp sản xuất chân chính.
- Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nước để cản trở hoạt
động của các đối thủ trong các ký kết hợp đồng, hối lộ, các giao dịch kinh tế, lôi
kéo lao động lành nghề, những chuyên gia giỏi của các doanh nghiệp nhà nước
một cách không chính đáng cịn phổ biến trong nền kinh tế nước ta.
2.2.3. Độc quyền của một số công ty
Việc thành lập các tổng công ty 90, 91 được coi là ý nghĩa quan trọng đối
với nền kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc bộ, ngành, địa phương. Các tổng
công ty là tập hợp các doanh nghiệp nhà nước sản xuất cùng loại sản phẩm với
nhau. Việc làm này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
trên trường quốc tế.
Thực tế cho thấy rằng việc các tổng công ty 90, 91 ra đời đã gây cản trở
cho mơi trường cạnh tranh mà các cơng ty đó hoạt động tạo ra sự cạnh tranh bất
bình đẳng giữa các tổng công ty và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác
trong cùng một lĩnh vực. Thể hiện cụ thể qua các hoạt động sau:
Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với
Chính phủ thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp,
lãi suất ưu đãi để duy trì thế độc quyền của mình. Nhiều tổng cơng ty đã thể chế
hóa những ưu đãi độc quyền của mình và đưa ra những quy định cho các đối thủ
cạnh tranh nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Với ưu thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra những sản phẩm mà họ
sản xuất, tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh doanh với nhau trên thị


14


trường. Ví dụ: cùng một loại hàng hóa, dịch vụ tổng công ty áp đặt nhiều giá
khác nhau đối với từng loại khách hàng.
Cạnh tranh trong nội bộ tổng công ty bị hạn chế. Được sự bảo hộ của
Chính phủ nhiều tổng cơng ty đã hoạt động trì trệ, ỉ lại, gây tốn kém, lãng phí
cho xã hội. Như vậy, mục đích chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của các
tổng công ty đã không thực hiện được, mà việc thành lập các tổng công ty này
đã ảnh hưởng khơng tốt thậm chí cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Hiện nay, cả nước có hơn 17 tổng cơng ty 91 với 450 thành viên, 71 tổng
công ty 90 của bộ với 1057 thành viên và 7 tổng công ty 90 của địa phương với
116 thành viên; tổng công ty chiếm 27% số doanh nghiệp nhà nước và 76,5%
tổng giá trị sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước cả nước. [Nguồn: Tổng cục
thống kê năm 2008]
2.2.4. Độc quyền tư nhân trong các ngành kết cấu hạ tầng
Độc quyền tư nhân tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn
đầu tư lớn mà lợi nhuận lại không đáng kể. Ngồi ra độc quyền tư nhân cịn tồn
tại trong ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược phát
triển kinh tế của đất nước như: điện, nước, dầu khí chỉ có một hoặc một vài
doanh nghiệp nhà nước được phép hoạt động. Các doanh nghiệp này kinh doanh
theo mơ hình khép kín theo chiều dọc vừa thực hiện khâu đầu, vừa thực hiện
khâu cuối cùng. Do hoạt động như vậy cho nên hạn chế cạnh tranh hay dường
như khơng có đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, các tổng cơng ty có thể
đưa ra mức giá chung cao hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm để thu được
lợi nhuận siêu ngạch cao. Điều này làm cho người tiêu dùng mất nhiều chi phí
hơn để sử dụng các hàng hóa, dịch vụ trong khi chất lượng khơng tương xứng.
Giá hàng hóa cao trong khi chất lượng phục vụ của hàng hóa thì lại cịn bị
hạn chế: hệ thống giao thơng phát triển, đường xá chật hẹp hạn chế khả năng đi
lại của người dân, tai nạn và ùn tắc giao thông xảy ra liên tục trên các con đường

đặc biệt là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng
ngập úng trên các con đường khi có mưa là điều khơng hiếm. Kho tàng, bến bãi,
15


cảng biển ít, đường sắt kém phát triển, hệ thống cấp thoát nước hiếm, mất vệ
sinh. Ở Việt Nam chỉ có 25% mạng lưới đường bộ được rải nhựa.
Kết quả của độc quyền tư nhân là năng suất lao động thấp, giá cả tăng cao
một cách không hợp lý, buộc toàn bộ nền kinh tế phải chịu mức giá đầu vào cao,
làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp kinh doanh khác trong nền kinh tế quốc
dân.
2.2.5. Một số yếu tố khác
Nhà nước ta chưa có những quy định cụ thể và chưa có một cơ quan
chuyên trách theo dõi, giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc
quyền. Chưa có những hiệp hội người tiêu dùng đủ mạnh để hỗ trợ cho việc
giám sát cạnh tranh và độc quyền.
2.3. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hạn chế tình
trạng độc quyền ở Việt Nam
2.3.1. Nguyên nhân của thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt
Nam hiện nay
Từ những tồn tại như đã nêu ở trên cho thấy thực trạng cạnh tranh và độc
quyền ở Việt Nam còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ. Đó là do những nguyên nhân
cơ bản sau:
Hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
cạnh tranh và chống độc quyền chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành pháp luật của
mọi người và của doanh nghiệp chưa nghiêm minh nên những hành vi cạnh
tranh khơng hợp thức cịn tồn tại khá phổ biến.
Quan điểm về vai trò của cạnh tranh và độc quyền chưa nhất quán nên nội
dung một số quy định pháp lý liên quan đến quan hệ cạnh tranh còn mâu thuẫn
với nhau.

Thủ tục hành chính chưa được cải thiện, đơn giản hóa kịp thời nên cịn
gây phiền hà cho các nhà đầu tư và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh
tranh làm tăng chi phí giao dịch, giảm tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư trong
nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
16


Hệ thống thơng tin cịn yếu kém, chưa kịp thời cân xứng thiếu minh bạch
đã gây ra sự bất bình đẳng trong các cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng không tốt
đến mơi trường cạnh tranh.
Q trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp nhà nước diễn ra còn chậm,
còn nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả nhưng vẫn duy trì,
bao cấp, bảo hộ, ...
2.3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hạn chế tình
trạng độc quyền ở Việt Nam trong thời gian tới
Trong thời gian tới, trước yêu cầu phát triển kinh tế với nhịp độ cao của
quá trình hội nhập thì việc cải thiện môi trường cạnh tranh là yêu cầu cấp bách
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình,
thực hiện q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong điều kiện tự do hóa
thương mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì cạnh tranh và kiểm sốt độc
quyền kinh doanh chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm đánh
giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi trọng cạnh tranh trong nền
kinh tế, pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ ràng hợp lý vai trò của
nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp nhà nước độc quyền kinh doanh. Thúc
đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, độc quyền của các doanh
nghiệp nhà nước cần được giảm dần, các rào cản đối với các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế cần được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản xuất, tăng

năng lực cạnh tranh chung của tồn bộ nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu
tư nước ngoài, đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần phải được thực hiện trong toàn bộ hệ thống
quản lý nhà nước, trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính,
trong tổ chức, phong cách làm việc, hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền.

17


Muốn như vậy thì trước tiên phải đưa nội dung về cạnh tranh và độc
quyền vào chương trình giáo dục của các trường đại học thuộc khối kinh tế và
kinh doanh. Để có được đội ngũ cán bộ sau khi ra trường có một tầm hiểu biết
về cạnh tranh và độc quyền. Đào tào các khóa ngắn hạn cho các doanh nghiệp và
cán bộ công chức nhà nước để nâng cao, trau dồi kiến thức về cạnh tranh và độc
quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền về cạnh tranh
và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù hợp và việc thực hiện
chính sách cạnh tranh này sẽ dễ dàng hơn.
Thứ hai, cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được vận
hành một cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trên thị trường. Nới lỏng các điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường để khuyến
khích các nhà đầu tư tham gia sản xuất kinh doanh. Như vậy, việc hình thành
nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các khu vực kinh
tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh tranh cần phải được
sửa đổi từ quá trình ban hành pháp luật.
Về xây dựng luật, để đảm bảo tính chất khách quan, về lâu dài cần chuyển
việc dự thảo luật từ cơ quan lập pháp sang cho cơ quan hành pháp. Trước mắt
việc soạn thảo luật cần được tổ chức một cách dân chủ với sự tham gia của cơ
quan có liên quan.
Xây dựng văn bản dưới luật: phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và sự
tham gia rộng rãi của những người chịu ảnh hưởng của quy định.

Việc xây dựng và hồn thiện khung pháp lý kinh doanh cần phải xóa bỏ
những quy định hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị trường, với những
cam kết nhằm mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Bổ sung những văn bản dưới luật còn thiếu, chưa hướng dẫn thi hành.
Trọng tâm xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền. Sửa đổi
những điều khoản trong Bộ luật dân sự có liên quan đến luật Việt Nam và luật
nước ngoài.
18


Để thực hiện được những việc như trên thì trong quá trình sửa đổi, bổ
sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần có
sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương với sự tham
gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và người tiêu dùng.
Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ đưa ra được
những quy định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc quyền hơn.
Thứ ba, xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành
vi có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế số lượng các
lĩnh vực độc quyền, kiểm soát, giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần
giám sát chặt chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp. Cần phải đổi
mới chế độ chứng từ, kế toán, kiểm toán để tạo điều kiện thuận lợi cho cơng tác
giám sát tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ tư, cải thiện hệ thống pháp luật theo hướng minh bạch và kịp thời
hơn, đồng thời nhanh chóng cải thiện các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động cạnh tranh. Cụ thể:
- Việc thành lập các doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các
doanh nghiệp Nhà nước cần được chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại
biểu của nhân dân. Việc tăng cường kiểm tra, giám sát từ các cơ quan này sẽ
thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước hoạt động tích cực và có hiệu quả hơn, tiết

kiệm được các nguồn lực của nhà nước.
Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành
nghề doanh nghiệp nhân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khơng
được đăng ký kinh doanh. Ngồi các mục này có các doanh nghiệp được thành
lập theo chế độ đăng ký kinh doanh với một cơ quan đăng ký thống nhất trong
quốc gia. Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời chịu trách nhiệm cả về việc
điều chỉnh nội dung giấy đăng ký kinh doanh và việc mở văn phòng đại diện, chi
nhánh trong nước và nước ngoài theo chế độ doanh nghiệp chủ động đăng ký.
Các cơ quan cấp phép hiện hành sẽ chuyển chức năng cấp phép, thẩm
định sang chức năng xúc tiến và cung cấp dịch vụ điện tử.
19


- Về đất đai: chuyển các thủ tục hành chính xin chuyển đổi mục đích và
quyền sử dụng về một cơ quan giải quyết. Điều này sẽ tiết kiệm thời gian và tiền
bạc cho các doanh nghiệp khi xin thuê đất quy hoạch và xây dựng khu công
nghiệp.
- Về vốn: Mở rộng khả năng vay vốn từ các nguồn ưu đãi để đầu tư để
tăng khả năng tự huy động vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp nước ngồi thơng qua các kênh phát hành trái phiếu và chứng khoán.
Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, chỉ áp dụng việc giới hạn mua cổ phần
trong những doanh nghiệp lớn có khả năng chi phối thị trường, tạo nên độc
quyền cịn đối với những người quản lý, người ngồi doanh nghiệp, người nước
ngồi nên khuyến khích để tăng nguồn vốn doanh nghiệp, tạo điều kiện đổi mới
máy móc, đầu tư trang thiết bị, nâng cao năng suất lao động.
- Về lao động: Các loại quy định về thang lương, lương thực tế, trợ cấp,
chế độ thưởng, lương tối thiểu, thuế thu nhập, các hình thức tuyển dụng lao động
cần phải có sự thống nhất trên khung pháp lý chung của Nhà nước và có sự đóng
góp ý kiến của công dân.
- Tiếp cận thị trường

+ Quyền xuất nhập khẩu: Mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các doanh
nghiệp trong nước.
+ Xây dựng và ban hành các thủ tục, điều kiện cấp phép nhập khẩu, có
nhiều loại thuế thay thế hợp lý tương đương đối với các mặt hàng để khi thực
hiện không gây cản trở cho việc trao đổi hàng hóa thương mại.
+ Ban hành danh mục cấp và xuất nhập khẩu có điều kiện, ngồi những
mặt hàng này nên khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường hoạt động mua
bán trao đổi thương mại làm tăng lượng chu chuyển hàng hóa trong và ngồi
nước.
Hạn ngạch là biện pháp hạn chế thương mại cần xóa bỏ. Việc xóa bỏ hạn
ngạch cần được giải quyết cùng với việc chỉ định đầu mối bán ngoại tệ và nhà
nước quy định giá. Việc phân bổ hạn ngạch cần phải dựa vào những quy định cụ
20


thể, thay thế chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá ghi trên hợp đồng, xóa bỏ
chế độ phụ thu.
Triển khai cải cách các thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hóa và phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế, thống nhất thủ tục trong cả nước.
- Về thuế nhập khẩu: Cần xóa bỏ cách đánh thuế dựa trên mục đích sử
dụng, giảm số thuế và mức thuế, giảm thuế đối với hàn hóa nhập khẩu là nguyên
vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất trong nước, tăng khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước.
- Về chuyển giao công nghệ: Cần tăng ngân sách cho các ngành nghiên
cứu khoa học cơng nghệ, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ làm nghiên
cứu khoa học, tuyển dụng người tài, được cung cấp phổ biến thơng tin, phát biểu
ý kiến khách quan dưới góc độ nghiên cứu khoa học. Hạn chế việc chảy máu
chất xám, khuyến khích thu hút các nhà khoa học nước ngồi vào trong nước
nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích tư nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao

công nghệ sản xuất. Sửa đổi chế độ hoạch toán, kế toán nhằm khuyến khích
khấu hao nhanh để đổi mới cơng nghệ, phát triển thành lập các trung tâm nghiên
cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công nghệ. Bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với quốc
tế, sử dụng kinh nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho các doanh nghiệp.
Đơn giản hóa thủ tục xuất – nhập cảnh, cấp phép lao động, thuê chuyên
gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài làm việc cho các tổ chức, cơ
quan Việt Nam.
- Giảm chi phí đầu vào: Cải tiến thủ tục và trình tự thu thuế, hạn chế tình
trạng thu thuế ngồi thẩm quyền của các bộ ngành và địa phương.
Giảm mức thuế, bao gồm: Thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thu nhập
cá nhân, thu nhập doanh nghiệp tương đương với các nước trong khu vực, xem
xét lại mức đóng góp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho các doanh nghiệp.

21


Thứ năm, cơ cấu lại việc kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên
cần xóa bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số ngành
quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế như: Sản xuất và truyền tải
điện năng, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thơng, xây dựng cơ sở hạ tầng ...
kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền thuộc nhà nước.
Việc xóa bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện theo hai hướng:
+ Hướng thứ nhất: Chia tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo
trong lĩnh vực thành các đơn vị nhỏ độc lập, đồng thời chia tách các doanh
nghiệp không trực tiếp gắn với cung cấp dịch vụ, cơ sở hạ tầng khỏi doanh
nghiệp chủ đạo. Như vậy, sẽ làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với
nhau mà không bị hạn chế lĩnh vực và địa bàn kinh doanh.
Trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh
vực thì sự tham gia trực tiếp của Nhà nước vào các doanh nghiệp là không cần

thiết. Trường hợp này chỉ cần hạn chế một số quy định hướng dẫn hoạt động và
hạn chế cạnh tranh không lành mạnh và để cho các doanh nghiệp tư nhân tự điều
chỉnh hoạt động của mình dựa vào thị trường.
Trường hợp vẫn phải duy trì độc quyền một số ngành chủ đạo thì Nhà
nước cần ban hành những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các
công ty này. Chỉ xây dựng các luật đặc thù cho từng lĩnh vực như: Luật viễn
thơng, Luật điện lực ... Để kiểm sốt độc quyền của các doanh nghiệp và tránh
tình trạng lạm dụng ưu thế để chi phối thị trường mà vẫn đảm bảo quyền tự chủ
của các doanh nghiệp. Trong các tổng công ty độc quyền cần phải tách bộ phận
xây dựng hoạch định chính sách với bộ phận kiểm tra, giám sát thực hiện chính
sách để có một chính sách kinh doanh có hiệu quả, khách quan.
Thứ sáu, Nhà nước cần phải có luật cạnh tranh với mục đích đảm bảo và
duy trì mơi trường cạnh tranh. Nội dung luật cạnh tranh cần phải được thường
xuyên nghiên cứu, thay đổi cho phù hợp với những biến động của thị trường
cạnh tranh trong nước cũng như những yếu tố liên quan đến nước ngoài.

22


Thứ bảy, cần thành lập các hiệp hội người tiêu dùng với những hoạt động
chủ yếu là cung cấp thị trường phục vụ người tiêu dùng và kịp thời phát hiện
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Các hiệp hội này sẽ
là đối trọng của các doanh nghiệp khống chế thị trường. Kinh nghiệm của các
nước cho thấy hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, hỗ trợ cho việc duy trì
tốt mơi trường cạnh tranh lành mạnh. Như vậy, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
và cạnh tranh là hai vấn đề liên quan đến nhau.

23



C. KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của kinh tế thị trường. Cạnh tranh
cũng có mặt trái của nó, cạnh tranh dẫn đến độc quyền và nó được đánh dấu
bằng sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra thất nghiệp, tạo gánh
nặng cho xã hội. Tuy nhiên, xét trong một quá trình lâu dài và dựa vào lợi ích
của tồn xã hội thì cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội
được sử dụng và phân bố có hiệu quả hơn. Nhưng mặt trái do cạnh tranh đem lại
là điều không đáng lo ngại nếu như chúng ta có một chính sách cạnh tranh và
chống độc quyền hợp lý.
Đề tài này là nhằm nhấn mạnh vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường và những mặt trái của nó. Có thể nói cạnh tranh là con dao hai lưỡi, nó có
là động lực cho sự phát triển kinh tế hay khơng cịn là tùy thuộc vào sự vận dụng
quy luật ở mỗi nước.
Qua việc nghiên cứu thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam hiện
nay, những mặt tích cực và những tồn tại cần tháo gỡ cho thấy mơi trường cạnh
tranh ở nước ta cịn nhiều hạn chế. Đảng và Nhà nước cần có chính sách cạnh
tranh hợp lý để phát huy những lợi ích do cạnh tranh mang lại nhằm phát triển
kinh tế của đất nước. Là nước áp dụng quy luật cạnh tranh muộn nên doanh
nghiệp sẽ có được nhiều kinh nghiệm của những nước đi trước, từ đó chúng ta
có thể hi vọng rằng: Việt Nam chính là mảnh đất màu mỡ cho cạnh tranh phát
huy hết ưu điểm của nó.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Đăng Bằng – ThS. Nguyễn Thị Bích Liên, Giáo trình Lịch
sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê, Hà Nội, năm 2010.
2. PGSTS. Trần Bình Trọng - Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – NXB Thống kê, năm 2008.
3. TS. Đinh Trung Thành, tập bài giảng Lịch sử các học thuyết kinh tế,
Đại học Vinh.
4. Website: http//www.vneconomy.com.vn

25


×