Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN. VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ VÀO ĐỜI SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.07 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC

BÀI THẢO LUẬN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ NGUYÊN LÝ
VỀ SỰ PHÁT TRIỂN. VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ VÀO ĐỜI SỐNG
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

NHÓM 6
LỚP HỌC PHẦN: 1886
THẦY HƯỚNG DẪN:

HÀ NỘI, 2018


Mục lục

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Biên bản đánh giá.........................................................2
Lời hay ý đẹp................................................................3
Lời cảm ơn....................................................................4
Lời cam đoan................................................................5


Lời mở đầu...................................................................6
Chương I.......................................................................8
Chương II.....................................................................16

1


Lời hay ý đẹp

“Sự phát triển trí tuệ nên bắt đầu khi sống
và kết thúc khi chết”
__Albert Einstein__

“Những người vội vã phán xét dựa vào bề ngoài
hiếm khi thấy được bản chất sự việc”
__Robert Southey_

2


Mở đầu

1.Tầm quan trọng của đề tài
Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề đổi mới căn bản toàn diện với sự lãnh đạo của
Đảng, trong đó vấn đề quan trọng là đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào
tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện được sự thay đổi căn bản toàn diện về giáo dục và đào tạo cần có
phương hướng, chính sách, quan điểm phù hợp và phải đứng trên quan điểm toàn
diện để đổi mới. Quan điểm toàn diện mà cơ sở lý luận của nó là nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến là một trong những nội dung quan trọng của phép biện

chứng duy vật Mác xít, là cẩm nang giúp ta tránh được những đánh giá phiến
diện, sai lệch đơn giản về sự vật, hiện tượng. Vì vậy nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của phép biện chứng duy vật có vai trị lớn trong chỉ đạo vấn đề đổi mới
giáo dục và đào tạo.
Giúp ta giải quyết được vấn đề: làm thế nào để giữ vững được sự tăng trưởng
kinh tế cao, hiệu quả bền vững mà vẫn đảm bảo ổn định chính trị và an sinh xã
hội, đồng thời bảo vệ được môi trường và ứng phó có hiệu quả với tác động của
biến đổi khí hậu. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi phải có quan điểm, đường lối
đúng đắn, phù hợp trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng vận dụng
một cách sáng tạo quan điểm về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là
u cầu có tính ngun tắc, đảm bảo định hướng quá trình phát triển kinh tế một
cách hiệu quả, nhanh và bền vững.
2.Nhiệm vụ của đề tài
- Số chương: 2...................
- Số trang: 47
3.Phương pháp, cách thức hoàn thành đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, đặc biệt là quan điểm toàn diện với cơ sở lý luận về mối liên hệ phổ biến
và sự phát triển của phép biện chứng duy vật của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác-Lênin, ngồi ra quan điểm cịn được vận dụng trong đổi mới cẳn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo.
3


Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa, khái qt hóa nhằm
thu thập thơng tin để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Họp nhóm để thảo luận,
đánh giá khả năng và sở trường của từng thành viên trong nhóm để phân chia
cơng việc cho phù hợp... Ngồi ra cịn khảo sát một số sinh viên để đảm bảo tính
thực tế trong việc nghiên cứu đề tài.
4.Ý nghĩa quan trọng khi hoàn thành đề tài

Bài luận là sự khái quát nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển. Việc làm đề tài thảo luận này mang ý nghĩa to lớn đến với mỗi sinh viên cả
về kiến thức và kỹ năng. Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài giúp ta hiểu và
nắm được những kiến thức cần thiết.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm toàn diện, tức
khi xem xét các sự vật hiện tượng phải xem xét tất cả các mối liên hệ của sự vật
hiện tượng đó càng cho chúng ta sự đánh giá càng chính xác và đầy đủ sự vật
hiện tượng chống lại quan điểm siêu hình phiến diện một chiều. Tôn trọng quan
điểm lịch sử cụ thể, khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong những
điều kiện hồn cảnh lịch sử cụ thể để có thể đánh giá đúng sự vật hiện tượng.
Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải, coi mọi mối quan hệ là như nhau.
Tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong q trình vận động và phát triển
khơng ngừng. Bản chát khách quan đó của hiện thực địi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm phát triển trong nhận thức và thực tiễn. Quan điểm phát triển với
tư cách là nguyên tắc phương pháp nhận thức hiện thực, đòi hỏi chúng ta khơng
chỉ thấy sự vật như cái đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển
tương lai của nó, khơng chỉ thống kê được những khuynh hướng vận động phức
tạp của nó, mà cịn phải khái qt và sáng tỏ được xu hướng vận động, phát triển
chủ đạo của nó. Quan điểm phát triển giúp người ta lạc quan, kiên định trước
những khó khăn, trắc trở trong q trình hoạt động thực tiễn.
Vì chưa có nhiều kinh nghiệm nên bài viết của chúng em chắc chắn sẽ có
nhiều những khiếm khuyết. Rất mong sự góp ý chân thành của thầy cô và các
bạn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.

4


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CHUNG VỀ HAI NGUYÊN LÝ CƠ
BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG

DUY VẬT

5


I)

Nguyên lý cơ bản về mối liên hệ phổ biến:

1. Khái quát về mối liên hệ phổ biến:
Trong thế giới có vơ vàn các sự vật, hiện tương và các q trình khác nhau. Vậy
giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn
tại biệt lập, tách ròi nhau? Trong lịch sử triết học, để trả lời câu hỏi đó, ta thấy có
những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng của thế giới Nó chi phối tổng quát sự vận
động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới, đồng thời cũng
dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Mối
liên hệ mang tính khách quan và phổ biến; và là đối tượng nghiên cứu của phép
biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối
liên hệ giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêngcái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất
nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ
đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định.
Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối
liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện
nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống
nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các

mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.Tính chất của các mối liên hệ:
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính
chất cơ bản của các mối liên hệ.
*Tính khách quan của các mối liên hệ:
Theo quan điểm biện chứng duy vật, mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện
tượng và mang tính khách quan. Nó khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
6


con người hay thần linh, thượng đế. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang
hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt
độ, độ ẩm, áp suất khơng khí ..., đôi khi cũng chịu sự tác động của con người).
Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các
sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc
lập, khơng phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và
vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình, giải quyết các
mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con
người. Chỉ có liên hệ với nhau sự vật hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát
triển. Ví dụ : con vật thì có mối liên hệ giữa kẻ săn mồi và con mồi : con báo với
con nai, con rắn với con chuột,…, nếu khơng có mối liên như vậy thì con vật
khơng thể tồn tại. Cịn con người thì có các quan hệ xã hội giữa người này với
người khác có như vậy con người mới tồn tại, vận động và phát triển.
*Tính phổ biến của các mối liên hệ:
Quan điểm biện chứng đã khẳng đinh khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng
hay q trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tương hay q
trình khác. Khơng có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.Xuất phát từ
bản thân tính biện chứng của thế giới mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống
nhất, khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng
là một thể thống nhât. Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn trong

trong tư duy, các sự vật hiện tượng cũng liện hệ tác động qua lai lẫn nhau. Khơng
thể tìm bất cứ ở đâu, khi nào các sự vật, hiện tượng lại tồn tại một cách cơ lập
tách rời. Ta có thể thấy trong tự nhiên, thế hiới động vật có mối liên hệ với thế
giới thực vật (động vật ăn thực vật), có mối liên hệ với mơi trường (thiên tai,
nhiệt độ, độ ẩm…) và cịn có cả mối liên hệ với cong người (con người bảo vệ
động vật; săn bắn bừa bãi); hay trong xã hội, có mỗi liên hệ giữa người với
người, giữa các quốc gia với nhau về mọi mặt của đời sống…
*Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ:
Do sự đa đạng muôn màu muôn vẻ của thế giới vật chất, qua điểm biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã nhấn mạnh về tính phong phú, đa
dạng của các mối liên hệ. Có nhiều hình thức mối liên hệ, mỗi hình thức mối liên
hệ có vai trị, vị trí, đặc điểm riêng của nó, tùy vào những giai đoạn khác nhau
trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng: mối liên hệ bên trong
và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu,
7


mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, … của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự
vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một sự vật
có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ khơng phải chỉ có một cặp mối liên
hệ xác định. Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định vừa có mối liên
hệ bên trong, vừa có mối liên hệ bên ngồi, vừa có mối liên hệ bản chất, vừa có
mối liên hệ khơng bản chất, vừa có mối liên hệ trực tiếp vừa có mối liên hệ gián
tiếp ...Hơn thế nữa, nó cịn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa
dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật,
hiện tượng, quá trình cụ thể, trong những điều kiện khơng gian và thịi gian cụ
thể.
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
*Quan điểm tồn diện:

Địi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần xem sự vật, hiện tượng trong mối
quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các mặt của sự vật,
hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong
nhận thức và thực tiễn
*Quan điểm lịch sử cụ thể:
Cần xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Xác định rõ vị trí vai trị khác
nhau của mối liên hệ để có giải pháp đúng đắn và hiệu quả. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến
diện, siêu hình mà cịn phải tránh quan điểm chiết trung, ngụy biện.

II) Nguyên lý về sự phát triển:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng được sáng lập bởi C.Mác và Ph.Ăngghen
vào giữa thế kỉ XIX, về sau được V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, là sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất
phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan
8


thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự
vận động và phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa
học. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn
hiện thực. Trong hệ thống đó, có hai nguyên lý cơ bản nhất, một trong số đó là
nguyên lý về sự phát triển. Nó khái quát một trong những thuộc tính phổ biến
nhất của thế giới vật chất là vật chất luôn vận động, phát triển.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, khơng có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng

đồng thời nó cũng xem sự phát triển là q trình tiến lên liên tục, không trải qua
những bước quanh co phức tạp. Đối lập với quan điểm siêu hình, phép biện
chứng duy vật khái niệm: phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật,
hiện tượng theo khuynh hướng đi lên; từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy khái niệm “phát triển” không đồng nhất
khái niệm “vận động” (nói chung); đó khơng phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà
là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hồn thiện của những sự vật ở
những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố
tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình
thái của sự vật, hiện tượng mới.
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa
dạng, phong phú:
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là q trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình
giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính
tất yếu, khách quan, khơng phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng
và mọi quá trình, mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi
q trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù
hợp với quy luật khách quan.
9


. Đối với tự nhiên: sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể,
khả năng tiến hóa của cơ thể, khả năng hồn thiện q trình trao đổi VC giữa cơ
thể và môi trường. Từ vô sinh đến hữu sinh.

. Đối với xã hội: Sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải
tạo xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của con người giải phóng con người và
tạo điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách
của bản thân.
. Đối với tư duy: Sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng
sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có q trình phát triển khơng hồn tồn giống
nhau. Tồn tại ở những khơng gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng sẽ
phát triển khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng cịn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác,
của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay
đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự
vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thối
hóa ở mặt khác… Đó là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các
quá trình phát triển.
Sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và
tư duy. Xét trong không gian hẹp và những trường hợp cá biệt thì có những vận
động đi lên, đi xuống, vịng trịn… Song xét cả q trình, trong khơng gian rộng
lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng chủ đạo, thống trị. Khái qt tình hình,
triết học Mác xít khẳng định phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động
của mọi sự vật và hiện tượng. . Lê Nin quan niệm chỉ có phát triển mới cho ta
chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới
cho ta chìa khố của những “bước nhảy vọt” của sự gián đoạn của tính tiệm tiến,
của sự “chuyển hóa thành các mặt đối lập” của sự tiêu diệt cái cũ, và sự nảy sinh
ra cái mới".
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận
thức và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn
10



cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “… Lơgich biện chứng địi hỏi
phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động”…, trong sự biến đổi
của nó”.
Quan điểm phát triển địi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong
thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật hiện tượng theo hướng đi lên của nó; mặt
khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính
thuận nghịch đầy mâu thuẫn, vì vậy địi hỏi phải nhận thức được tính quanh co,
phức tạp của sự vật, hiện tượng trong q trình phát triển của nó, tức là phải có
quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn,
phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Trong q trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê
phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có
viết: “... Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành
phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”.
Gắn liền CNH với HĐH, đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020, về cơ bản Việt
Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2001), Đảng ta đã nhấn
mạnh phải thực hiện “CNH đất nước theo hướng hiện đại” và coi đây là một
nhiệm vụ trung tâm, phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc. Việc chuyển từ quan niệm “cơng nghiệp hóa” sang quan niệm
“cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại” (Đại hội VII) và “cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” (Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII, Đại hội Đảng lần thứ VIII và Đại hội Đảng lần thứ IX), là một sự phát triển
quan trọng trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng ta về CNH, HĐH đất
nước. Tại Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã khẳng
định, “CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các

nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ
quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Cũng bắt đầu từ đây, một quan niệm mới về CNH ngày càng được định hình rõ
nét, CNH khơng chỉ đơn giản là phát triển cơng nghiệp, xây dựng nhà máy. Đó là
q trình cải biến căn bản, toàn diện để tạo nền tảng của một nước công nghiệp
11


có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế tiên tiến, quan hệ sản xuất
phù hợp sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và chính sách phát triển vì
mục tiêu phát triển con người Việt Nam. Đó cũng là quá trình tăng cường nguồn
lực con người, năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng theo
hướng hiện đại, thân thiện và bảo vệ môi trường theo quan điểm phát triển bền
vững.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng
duy vật, nó giúp chúng ta nâng cao được nhận thức được những tính chất phức
tạp, quanh co về sự vật, hiện tượng trong thế giới quan, đồng thời giúp ta giải
quyết được những mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Chẳng
hạn, bản thân chúng ta là cán bộ, công nhân, viên chức, lao động muốn có sự
thăng tiến trong cơng việc địi hỏi phải hiểu rõ bản chất của cơng việc mình đang
làm, từ đó học tập, tìm hiểu những cách làm mới, hiệu quả hơn để làm tốt hơn
cơng việc, đó gọi là sự phát triển trong con người.

12


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG CÁC
NGUYÊN LÝ VÀO ĐỜI SỐNG
SINH VIÊN


13


Họ và tên : Hoàng Thị Mai
Số thứ tự : 56

Bài liên hệ

Như chúng ta đã biết, theo nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác- Lê
nin thì: “ Phát triển là sự vận động theo khuynh hướng tiến lên từ thấp đến cao
(xét về trình độ phát triển), từ đơn giản đến phức tạp ( xét thiện về cấu trúc), từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện ( xét về chức năng). Điều này là hoàn toàn đúng
đắn trong mọi khía cạnh của đời sống, đối với tất cả mọi người, và riêng cá
nhân tôi cũng vậy.
Từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành ai cũng mong muốn mình được thành
cơng. Cá nhân tơi cũng khơng ngoại lệ. Ước mơ của tôi từ nhỏ là sẽ trở thành
một nhà quản trị nhân lực có tâm và có tài. Mà theo quan điểm của sự phát triển
thì khi giải quyết các nhiệm vụ của thực tiễn, chúng ta phải phân chúng thành
các bước đi từ thấp đến cao, từ cơ bản đến phức tạp… Chính vì vậy để có thể
đạt được mong muốn của mình, tơi đã phải chia nhỏ quá trình, thực hiện từng
bước một, đặt ra các mục tiêu việc làm cụ thể từ nhỏ đến lớn để có thể đạt được
thành cơng. Trong những năm cấp III, tơi đã đặt mục tiêu cho mình trong kỳ thi
Trung Học Phổ Thông Quốc Gia, tập trung hết 100% sức lực để học tập, thi đỗ
vào khoa Quản Trị Nhân Lực của Đại học Thương Mại làm bước đệm đầu tiên
cho nấc thang của cuộc đời. Khi đã thành công bước đầu tiên và trở thành sinh
viên, tôi bắt đầu lập ra cho mình các bước đi tiếp theo ở năm thứ nhất, năm thứ
hai, năm thứ ba và năm thứ tư. Năm đầu tiên tôi sẽ dành thời gian để thích nghi
và làm quen với mơi trường đại học, làm quen với cách học, phương pháp học
và cách thi cử, tiếp cận tri thức của đại học. Năm thứ hai tơi tích cực tham gia

các hoạt động của trường lớp, của các Ban, Ngành, của khoa, các câu lạc bộ,
tập trung nhiều hơn cho chuyên ngành của mình, tìm hiểu về các cuộc thi tổ
chức dành cho sinh viên theo chuyên ngành mình chọn, học hỏi các anh chị
khố trước. Từ năm thứ ba trở đi tơi sẽ dành nhiều thời gian tìm hiểu về các
doanh nghiệp, về văn hoá, phong cách làm việc của họ, những điều mà nhà
14


tuyển dụng cần và tìm kiếm cơ hội thực tập thích hợp cho mình. Đồng thời trong
các buổi học trên lớp, đặc biết chuyên cần, đi học đầy đủ, chú ý tập trung nghe
giảng, tìm kiếm thêm thơng tin liên quan để tích luỹ kiến thức, mở mang hiểu
biết giúp ích cho công việc sau này. Khi phân chia rõ ràng như vậy tôi sẽ dễ dàng
thực hiện hơn, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn.
Bên cạnh quan điểm của sự phát triển, một con người khi muốn thành công
phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố, có mối liên hệ phổ biến giữa các mặt, các
khía cạnh khác nhau mà tơi gọi đó là sự tồn diện. Để tơi có thể trở thành một
nhà quản trị nhân lực có tâm và có tầm thì chỉ học hành kiến thức trên sách vở
thơi là chưa đủ mà nó cịn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bộ phận, thuộc tính
khác nhau như: gia đình, bạn bè, sức khoẻ, xã hội, các mối quan hệ xã giao…
Chính vì thế mà ngay khi còn là sinh viên ngồi trên ghế nhà trường tơi đã, đang,
và sẽ phải rèn cho mình sự năng động. Tôi phải tham gia vào các câu lạc bộ tình
nguyện để có thể đi được nhiều nơi, trải nghiệm nhiều hơn, biết quan tâm, chia
sẻ với người khác nhiều hơn. Bởi người ta nói: “ Nếu bạn muốn lãnh đạo quản lý
một người thì trước hết bạn phải hiểu họ trước” . Tôi cũng đi làm thêm vào thời
gian rảnh rỗi để có thể va chạm, giao tiếp với nhiều người, để học hỏi, tiếp thu
thêm nhiều kinh nghiệm cần thiết cho chính bản thân mình. Đồng thời, để thành
công tôi cũng cần phải cân bằng thêm nhiều yếu tố, giữa các mối quan hệ gia
đình, bạn bè, cơng việc, học tập…Ví dụ như dành thời gian cân bằng cuộc
sống, đôi khi gọi điện về hỏi thăm bố mẹ ở quê vào những ngày đông trời trở
lạnh, hay dù chỉ là một câu quan tâm đơn giản, dành thời gian đi chơi, tụ tập,

quan tâm bạn bè vào những ngày cuối tuần sau những giờ căng thẳng của nhiệm
vụ học hành bất khả thi….
Theo nguyên lý về các mối liên hệ phổ biến thì ngun tắc tồn diện đòi hỏi
phải giải quyết đồng bộ các nhiệm vụ của thực tiễn, tức là phải áp dụng đồng bộ
một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau….,để cải tạo sự vật,
hiện tượng. Song trong từng bước cũng phải xác định được khâu trọng điểm,
trọng tâm , then chốt…, tránh bình qn, dàn đều,…:; nhờ đó mà đạt hiệu quả
cao trong mọi hoạt động.
Thế nên nói tóm lại để đến được thành công, chạm tay đến đỉnh vinh quang,
ánh hào quang của cuộc đời thì chúng ta phải thực hiện tất cả các nhiệm vụ, áp
dụng mọi lĩnh vực khía cạnh của đời sống một cách tồn diện và hiệu quả. Đồng
thời phải vận dụng kết hợp cả hai nguyên lý của sự phát triển và mối liên hệ phổ
biến. Đây là bài học liên hệ về sự vận dụng các nguyên lý của sự phát triển và
15


mối liên hệ phổ biến mà tôi đã, đang và sẽ thực hiện. Cịn bạn thì sao? Chúng ta
hãy cùng nhau có gắng nhiều hơn nữa để cùng thành cơng nhé !!!

16


Họvàtên: NguyễnThị Mai
Mã SV: 18D210029
STT: 57
Vận dụng m ối iliên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển vào đời sống học
tập của bản thân.
Trả lời:
Là một sinh viên Trường Đại học Thương Mại, bản thân em tự ý thức rằng ngay
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nên sử dụng các nguyên lí, nguyên tắc

phương pháp luận được học trên lớp trong đó có ngun lí về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lí về sự phát triển vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình
góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng văn minh
tươi đẹp.
Em là tân sinh viên K54, khi mới nhập học không quen biết ai. Khi nhìn thấy 1
bạn nào đấy, sẽ có những ấn tượng đầu tiên về ngoại hình , tính cách của bạn đó.
Nhưng sẽ khơng thể qua một vài lần gặp mặt mà đã đánh giá bạn là người xấu
hoặc tốt, dễ tính hay khó tính bởi cách đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan
trái với quan điểm tồn diện và có thể dẫn đến những quyết định sai lầm.Quan
điểm toàn diện dạy cho em biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện
tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện, mọi mặt của vấn đề để hiểu
được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta khơng thể chỉ nhìn bề
ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của bất cứ ai.Vẻ bề ngồi khơng nói
lên được tất cả, muốn đánh giá một con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu
dài, nhìn nhận họ trên mọi phương diện, ở từng thời điểm,từng hoàn cảnh khác
nhau.
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới
có kết quả cao hơn. “Học” phải gắn với “hành” thì việc học có kết quả nhanh
hơn. Người xưa vẫn dạy rằng: “Học phải đi đôi với hành”. Vai trị của thực hành
phải ln được đề cao.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được
hiểu khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau, “học”
là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được
đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tiếp nhận những kinh nghiệm của
cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật
17


hóa sự hiểu biết của mình, khơng để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá
những tri thức của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ.

Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực
tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và
hành là hai mặt của một qua trình thống nhất, chúng khơng thể tách rời mà phải
luôn gắn chặt với nhau làm một.“Hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học
tập. Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta khơng vận dụng
vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vơ ích. Ngược lại nếu hành mà khơng có lí
luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng
vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có khi cịn
dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và
kinh nghiệm là nền tảng để em áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn
cuộc sống.
Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thơi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn
luyện cả về phẩm chất. Tài năng và đạo đức là những khía cạnh khác nhau nhưng
ln gắn bó mật thiết khơng thể tách rời. “Có tài mà khơng có đức là người vơ
dụng”, bởi tài năng đó khơng phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một
cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Giá trị một con người được xem xét chính
bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại.
Nhưng nếu chỉ “có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Có đức, có
khát vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng khơng có kiến thức, năng
lực kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con
người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong
đời sống con người. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở
nên tồn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Hiện nay em đang là những sinh viên, là người đang trong quá trình phát triển về
mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì
này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất,
năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở
thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện
nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.


18


Họ và tên: Phó Thị Kim Mai
Mã SV : 18D210088
STT: 58
Đề bài: Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển, vận
dụng các nguyên lí vào đời sống học tập của bản thân.
Với những nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng góp phần định
hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải
tạo chính bản thân chúng ta.
Thứ nhất: Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm trên vào trong
cuộc sống.
Với mỗi bản thân chúng ta khi mới hoà nhập vào cuộc sống của sinh viên một
cuộc sống độc lập tự lập bạn bè và mọi thứ xung quanh hầu như là quá lạ lẫm đối
với mỗi tân sinh viên như chúng ta. Khi ta đánh giá ai đó từ cái nhìn đầu tiên.
Thì đó khơng phải là một cách tốt để đánh giá người khác. Cách đánh giá như
vậy là phiến diện , chủ quan trái với quan điểm toàn diện, trong dân gian người
ta gọi đó là “ trơng mặt mà bắt hình dong”. Cũng như câu chuyện “ Thầy bói
xem voi” chúng ta được biết đến hồi học tiểu học chúng ta đều được biết đến.
Điều đó có thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm. Ví dụ như khi bạn
gặp gỡ, giao lưu, tiếp xúc một vài lần với một người có gương mặt ưa nhìn, ăn
nói nhỏ nhẹ mà đã vội vàng kết luận là người tốt và muốn làm bạn, cịn khi nhìn
thấy một người ít nói, khơng hay cười thì cho là khó tính khơng muốn kết bạn.
Qua một thời gian bản tính của họ mới biểu lộ chân thật ( cái kim trong bọc lâu
ngay cũng lịi ra ) những tính xấu như ích kỷ,lợi dụng người khác... Cịn người
bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè. Cái đầu tiên không phải là
tất cả( theo quan điểm tồn diện). Hình thức bên ngồi khơng nói lên được tất cả.
Vì vậy muốn đánh giá một con người cần phải có cách nhìn tổng quan, thời gian
tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận họ trên mọi phương diện, ở từng thời điểm,từng hồn

cảnh và mối quan hệ khác nhau.
Có thể thấy mối quan hệ khó ứng xử nhất là của con người với con người,
chúng ta cần phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người, từng thời
điểm. Chúng ta cần “kính trên nhường dưới” ngay cả khi bạn bè cùng trang lứa
cũng cần tôn trọng họ. Ngay cả trong mối quan hệ với một con người nhất định
ta cần biết: “đối nhân xử thế”.
Hay khi xem xét một vấn đề nào đó ta cần xem xét kĩ nguyên nhân từ đâu ra
kết quả ra sao để có cách giải quyết, xử lý tối ưu. Khi tìm được ngun nhân cụ
thể, thì khi đó việc giải quyết vấn đề đó sẽ dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.
19


Thứ hai: Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học
tập:
Trong học tập điều quan trọng nhất chúng ta cần làm là xác định mục tiêu,
động cơ, thái độ đúng đắn và một phương pháp hợp lý thì mới có kết quả cao
hơn. Việc vận dụng này sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc
học một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :Học tập là suốt đời,
học bằng cái gì? Học như thế nào? Học ở đâu?...Người học phải biết khiêm tốn,
học phải hỏi, học ở mọi người.Cần phải có thái độ kiên trì tích cực và sáng tạo.
Ví dụ như người dân miền núi: họ cần tìm ra các loại cây phù hợp với điều kiện
mơi trường và cách chăm sóc nó ra sao cho đạt hiệu quả tốt, tất cả là cả một quá
trình học tập, rèn luyện. Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh
hơn. Người xưa vẫn dạy rằng: “Trăm hay không bằng tay quen”. Vai trò của thực
hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được
hiểu khác hơn. Trước hết chúng ta cần hiểu “học” là tiếp thu kiến thức đã được
tích lũy trong sách vở, là nắm vững lí luận, đồng thời tiếp nhận những kinh
nghiệm của cha anh đi trước. Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa

là phương pháp học tập. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm
là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế cuộc sống.
Thực tế cho thấy đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được
học vào việc gì ngồi việc để thi đỗ đại học tốt nghiệp phổ thông.
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” khơng đi đơi với “hành” là có nhiều học
sinh, sinh viên “khơng biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay
chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho
cơng cuộc cơng nghiệp hố - hiện đại hố thì việc “Học đi đôi với hành”càng trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Như câu nói của Bác Hồ: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức
mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác
nhau nhưng ln ln gắn bó mật thiết khơng thể tách rời. Có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, bởi tài năng đó khơng phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu
lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vơ giá trị. Người càng có tài mà kém
đạo đức thì tác hại mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên,đặc biệt là sinh viên kinh tế như
chúng ta cần phải có những định hướng, mục tiêu nhất định cho bản thân cũng
như chính trên con đường học tập con đường phát triển kinh tế của xã hội để hội
20


nhập với nước ngoài. Là một sinh viên chúng ta khơng chỉ có nghĩa vụ học mà
chúng ta cần phải bắt ta làm từ bây giờ. Từ đó nó giúp chúng ta hiểu biết thêm về
thế giới xã hội bộn bề ngồi kia. Để khi ra trường ta có những kinh nghiệm,
những bài học, những kĩ năng cần thiết nhất.

21


Họ và tên: Trần Thị Thanh Mai

Mã sinh viên: 18D210089
STT: 59
Đề tài: Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển vào đời sống sinh viên.
Bài làm:
Đối với sinh viên thì việc vận dụng tốt nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa, vai trị hết sức quan trọng trong q
trình học tập, phát triển bản thân. Nó góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng
ta. Bởi vậy nên mỗi sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường nên tu dưỡng,
rèn luyện bản thân để ứng dụng thật tốt các nguyên lý vào việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội
ta ngày càng tươi đẹp.
Trước hết, từ nguyên lý phổ biến, ta rút ra được quan điểm toàn diện. Bản
thân em là một tân sinh viên của Đại học Thương mại, ngày đầu khi nhập học em
chưa quen biết một ai. Khi nhìn thấy một bạn, em sẽ dựa vào ấn tượng đầu tiên
về ngoại hình, hành động để phán đốn về tính cách, con người của bạn đó. Tuy
nhiên sau khi học về quan điểm toàn diện, em nhận thấy rằng cách đánh giá đó là
phiến diện, hồn tồn khơng chính xác. Quan điểm toàn diện đã chỉ ra rằng khi
xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách đa diện
, mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng
ta khơng thể chỉ dựa vào bề ngồi mà phán xét về phẩm chất, giá trị bên trong
của mỗi con người mà phải trải qua quá trình giao tiếp, tiếp xúc, làm việc cùng
với họ. Vì rất có thể bề ngoài ta thấy họ là người lãnh đạm, lạnh lùng, khó gần
nhưng sau khi đã kết bạn, bạn nhận ra rằng thực chất họ lại là người vô cùng ấm
áp, thường xuyên quan tâm, giúp đỡ mọi người. Bởi vậy, khi đánh giá một cá
nhân hay tập thể, một sự vật, hiện tượng bất kỳ, ta cần phải nhìn nhận, xem xét
trên mọi khía cạnh, mọi phương diện, mọi góc độ, ở từng thời điểm, hồn cảnh
khác nhau cũng như khi gặp một vấn đề nào đó , chúng ta cần xem xét chúng
trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt.

Hay trong q trình học tập, tích lũy tri thức, ta phải biết cân bằng giữa “học” và
“hành”, hai hành động này luôn luôn song hành với nhau. “Học” là quá trình tiếp
22


thu kiến thức từ sách vở, lý thuyết, từ thầy cơ,bạn bè cịn “hành” là vận dụng
những kiến thức đã học vào thực tiễn, phát huy sức sáng tạo của bản thân. .Cho
nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.Chúng ta cần hiểu rõ hành
vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập một khi đã nắm vững kiến thức mà
không vận dụng vào thực tiễn thì học trở nên vơ ích . Do vậy việc học tập , trau
dồi kiến thức và kinh nghiệm chỉ là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực
tế,thực hành trong thực tiễn cuộc sống.
Không chỉ vậy, mỗi sinh viên đều phải tu dưỡng đạo đức, trau dồi nhân phẩm
như Bác đã từng dạy: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Tài và đức là những phẩm chất khác nhau
nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết khơng thể tách rời. Có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích
cho một cá nhân thì cũng trở thành vơ giá trị. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho
nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới
có ích cho xã hội. Giá trị một con người được xem xét chính bởi tác dụng của cá
nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Đối với những người bề trên như cha,
mẹ ,ơng, bà, thầy, cơ… ta cần có thái độ kính trọng, cư xử lễ phép còn với những
người ngang hàng như bạn bè ta nên tôn trọng, đối xử chân thành…
Bên cạnh đó, ta cũng nên vận dụng ngun lí phát triển vào đời sống sinh
viên.Để vận dụng được nguyên lý này, ta phải hiểu rõ, nắm bắt được khái niệm,
tính chất và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý để áp dụng một cách phù
hợp. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định
kiến, đối lập với sự phát triển. Để nhận thức và giải quyết các vẫn đề thực tiễn
cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó, có quan điểm
lịch sử cụ thể phù hợp với tính chất phong phú đa dạng của nó.

Khi lên học đại học, muốn phát triển lên một tầm cao mới, một tư duy mới thì ta
khơng thể nào bỏ qua tất cả những kiến thức của trường cấp 3, nghĩ rằng chũng
không cần thiết nữa mà phải biết chắt bỏ, bỏ đi những kiến thức không sử dụng
đến, những kiến thức mà mang tính chất khơng phù hợp với đại học. Nhưng
đồng thời chúng ta cũng phải duy trì những cái tinh túy, kế thừa những nền tảng
sẵn có từ những năm cấp 3, đó chính là khả năng tư duy, khả năng lập luận, khả
năng phân tích, xác định vấn đề và cả sự chăm chỉ, cần cù, siêng năng, ham học
hỏi để chúng ta có thể phát triển từ một học sinh cấp 3 thành một sinh viên đại
học. Sau đó tiếp tục xác định được mục tiêu học tập, có tư tưởng đường lối rõ
ràng, có nhận thức về tình hình kinh tế, xã hội xu hướng phát triển của khoa học
23


hiện đại, ln cầu tiến, đi về phía trước, hồn thiện bản thân và năng lưc. Khơng
đi theo lối mịn của người khác, phải chủ động, sáng tạo và học hỏi không ngừng
để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Theo nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác- Lê nin thì: “ Phát triển là
vận động theo khuynh hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp
,từ kém hồn thiện đến hồn thiện”.Ví dụ, một sinh viên ở thời điểm hiện tại
đang học rất kém. Nếu như chúng ta không áp dụng nguyên lý phát triển, ta sẽ
nhận xét rằng bạn đó là một sinh viên học kém thì bạn sẽ trở thành một người lao
động kém, có mức thu nhập thấp, khơng có chỗ đứng trong xã hội. Tuy nhiên,
khi đã ứng dụng nguyên lý của sự phát triển, ta biết rằng mọi vật đều có xu
hướng phát triển đi lên nên bạn sinh viên đó rất có thể sẽ học tốt lên trong tương
lai trở thành người xuất săc, một lãnh đạo giỏi và có chỗ đứng trong xã hội. Từ
đó, ta rút ra được bài học rằng luôn luôn phải xem xét sự vật hiện tượng trong
một xu hướng phát triển và không đánh giá bất kỳ ai, bất kỳ sự vật hiện tượng
nào mà chỉ dựa vào một thời điểm nhất định.
Cuối cùng, là một sinh viên đaị học Thương Mại, là người đang trong quá
trình tu dưỡng, phát triển cả về thể lực, trí lực, em sẽ cố gắng vận dụng thật tốt

những nguyên lý được học vào đời sống cá nhân để khơng ngừng hồn thiện bản
thân, rèn luyện cả tài và đức để trở thành một công dân tốt, sẵn sàng cống hiến
cho nước nhà.

24


×