Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Các công cụ của chính sách tiền tệ ở việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.66 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mơ cực kì quan
trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến
các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát... Để
đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các cơng cụ của
nó có vai trị cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các
cơng cụ của nó đang từng bước hình thành, hồn thiện và phát huy tác dụng
đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn
các cơng cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn
là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các
nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu
kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện
nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các cơng cụ của chính
sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm
hiểu về chính sách tiền tệ ,em quyết định chọn đề tài: “Các cơng cụ của
chính sách tiền tệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”.
2. Nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài sẽ hệ thống hố những vấn đề có tính lý luận về chính sách tiền
tệ trong nền kinh tế thị trường đồng thời qua việc khảo sát quá trình sử dụng
các cơng cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam (từ năm 1989 đến nay) nhằm
đánh giá thực trạng sử dụng, điều hành các cơng cụ đó, trên cơ sở đó đề ra
những giải pháp góp phần hồn thiện và nâng cao hiệu quả các cơng cụ của
ch`ính sách tiền tệ ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Lấy phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp
luận cơ bản kết hợp với quan điểm tiếp cận hệ thống và sử dụng các phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp cùng
các phương pháp nghiên cứu kinh tế khác.



1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách
kinh tế vĩ mơ do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các
cơng cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng
tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai
hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy
sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ
chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi
suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng
thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô
của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng
nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thơng tiền tệ .Song nó cũng có
quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mơ khác như chính sách tài
khố,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách
chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm
làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
*Ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thơng qua CSTT có thể tác động
đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình.Giá trị đồng tiền ổn
định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả

hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại(tỷ giá của đồng tiền
nước mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
khơng có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế khơng thể phát
triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp

2


tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mơ sản xuất
kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có
một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trưởng kinh tế :Tăng trưởng kinh tế ln là mục tiêu của mọi
chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mơ của mình, để
giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản
tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lịng tin của dân chúng đối với Chính phủ
.Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một
cách hài hồ.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau,
không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này
có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt được các
mục tiêu trên một cách hài hồ thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải
có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng
tiền cung ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ

số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ
làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả cơng
chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thơng(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi
là một công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng
chứng khốn mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,
ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thơng
qua quan hệ trao đổi nên nó cịn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên

3


thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển
đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại,do
NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu
tư, cho vay và thơng thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só
tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ
thống ngân hàng.
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp
đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.
Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các
NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho
lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm: Đây là cơng cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của
nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh
hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó khơng

cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh
hưởng khơng tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.3.3. Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm: Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn
đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh
lãI suất tái chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết
khấu(cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động: Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn
chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho
vay của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh
tế giảm (tăng).Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của
mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngồi ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa
phổ biến để có thể làm cơng cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện

4


nghiệp vụ này thông qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các
NHTM.
Đặc điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là
người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn
trong thanh tốn ,và có thế kiểm sốt đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM
đồng thời có thể tác động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế
thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của
cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác
mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch thơng tin về cung cầu
vốn trên thị trường.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung
ứng, trong một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc cơng cụ này

thì sẽ khơng cần đến bất cứ một công cụ nào khác. Tuy vậy trong những điều
kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển; các giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì
để đạt được mục tiêu của mình, NHTW có thể sử dụng các công cụ điều tiết
trực tiếp sau:
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm: là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM
khơng được vượt q một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một
năm) để thực hiện vai trò kiểm sốt mức cung tiền của mình. Việc định ra hạn
mức tín dụng cho tồn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô(tốc độ tăng trưởng, lạm phát tiêu thụ..) sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các
NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định.
Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối
với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng
cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm: Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm sốt được lượng tiền cung
ứng khi các cơng cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của
nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao
của nền kinh tế. Song nhược điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh

5


tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ
phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngồi sự kiểm sốt của NHTW và nó sẽ trở
nên q kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên.
1.3.5. Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm: NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi
suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó
ảnh hưởng tới qui mơ tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được

quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm
cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng
theo mục tiêu của từng thời kỳ, đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa
có điều kiện để phát huy tác dụng của các cơng cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm
mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là
“giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu
về vốn trong nến kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãi suất
dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của
mình.

6


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
2.1.1. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì q trình thực
hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh
tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền
mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì
ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng
tiền mặt (C) cịn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng
khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ
lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền

tệ...
Việc sử dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một
cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ
không đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều
năm...)
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh
vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có
quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
2.1.2. Việc sử dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
1. Cơng cụ lãi suất:
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi
suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng
tiền cung ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa
người cho vay và người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về

7


tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất,
người ta có thẻ dự đoán nền kinh tế đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế, vì nó tác
động đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức
đầu tư và tổng mức cầu về tiền tệ (GNP). Việt Nam trong hơn 10 năm đổi mới
những chính sách. Lãi suất ngân hàng nhà nước sử dụng đã có tác động mạnh
mẽ tới việc huy động vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân
hàng Thương mại và các doanh nghiệp. Để tăng hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng Thương mại và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế đòi hỏi Ngan hàng nhà nước phải tiếp tục đổi mới hơn nữa

cơ chế điều hành Lãi suất
Lãi suất có vai trị quan trọng trong nền kinh tế, nó là trung tâm trong
chính sách tiền tệ của chính phủ.
* Đối với sự phân bố các nguồn lực thì lãi suất là một loại giá cả, nó có
vai trò phân bố hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội và là yếu tố cần
thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế một dự
án hay một tài sản nào đó…
* Thu nhập của các hộ gia đình thường được chia làm hai bộ phận: Tiêu
dùng và tiết kiệm, tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu
nhập, tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của việc tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi
suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố. Vì vậy trong tiêu dung và tiết kiệm
lãi suất cũng có vai trị không nhỏ trong việc điều chỉnh thu nhập của kinh tế
gia đình.
* Với các hoạt động đầu tư do chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như
thu nhập, chi phí trong kinh doanh… Nên khi lãi suất cao, thì sẽ có ít khoản
đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các
khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm, ngược lại khi lãi suất thấp các
doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư
sẽ tăng.
* Khơng chỉ có vậy với tỷ giá hối đối và hoạt động xuất nhập khẩu
cịn chịu nhiều ảnh hưởng của lãi suất ở lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.

8


* Lãi suất với lạm phát. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho
phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu
thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, lượng tiền cung ứng cũng sẽ
giảm và lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm
phát.

* Vai trò của lãi suất đến việc huy động vốn: Lãi suất là chi phí huy
động vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét
khả năng lợi nhuận thu được với chi phí huy động, vốn bỏ ra để quyết định
huy động vốn từ nguồn nào vào đầu tư vào đầu đề có lợi cho doanh nghiệp
nhất. Còn ngân hàng phải xem xét giữa lãi suất huy động với khả năng cho
vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương hướng hoạt động đảm bảo mục
tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển.
* Tác động tích cực của chính sách lãi suất dương.
1. Đối với NHTM: Lãi suất cho vạy tín dụng > Lãi suất tiền gửi tiết
kiệm > Tỷ lệ lạm phát. Cho nên NHTM khơng cịn phải bao cấp đối với các
doanh nghiệp vay vốn thơng qua tín dụng nữa. Lãi xuất thực dương cao đã thu
hút một số lượng tiền gửi lớn vào các ngân hàng làm lượng tiền dự trữ của các
ngân hàng tăng cao đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp.
2. Đối với Doanh nghiệp: Khi lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho
vay cao buộc các doanh nghiệp phải cân nhắc viẹc vay vốn đầu tư, phải xem
xét và lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả tốt nhất. Cơ cấu tổ chức của
các doanh nghiệp được tổ chức một cách hợp lý hơn, giảm thiểu bộ phận quản
lý cồng kềnh để giảm thiểu chi phí.
* Tác động tiêu cực của chính sách Lãi suất dương
1. Đối với NHTM: Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao
nên càng khuyến khích gửi tiền hơn là vay tiền, lãi suất thực dương cao của
ngân hàng đem lại khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vào đầu tư
mà rủi ro lại thấp nên cũng khuyến khích các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân
hàng hơn là vay vốn để kinh doanh. Đến một lúc do lượng tiền gửi vẫn tăng,
khối lượng vay giảm dẫn đến tài sản nợ trongh bảng cân đối của NHTM lớn
hơn tài sản có.

9



2. Đối với doanh nghiệp: Lãi suất vay vốn không khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư mà các doanh nghiệp tích cực gửi tiền vào ngân hàng
hơn. Trong tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay
của ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh lớn
do đó giá thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và như vậy hàng hố sẽ giảm tính
cạnh tranh trên thị trường.
* Giai đoạn thực hiẹn chính sách lãi suất trần
1. Chính sách lãi suất trần tác động đến các NHTM
* Tích cực:
- Việc tổ chức quản lý lãi suất trần cho phép các tổ chức tín dụng được
tự do ổn định các mức lãi suất cho vạy và tiền gửi trong phạm vị trần do
NHNN cho phép, chính sách lãi suất trần đã chấm dứt thị trường NHNN quy
định các mức dư nợ lãi suất cụ thể, xúa bỏ lãi suất cho vay theo thoả thuận và
từng bước tiến hành tự do hoá lãi suất.
- Để nâng cao lợi nhuận các NHTM phải nâng cao mức du nợ cho vay
và huy động vốn gấp nhiều lần.
* Hạn chế:
Do lãi suất cho vay và lãi suất huy động (ngắn, trung, dài hạn) liêu tục
giảm, nhiều NHTM không lường trước được đã huy động vốn có thời hạn 1
-3 năm để cho vay trung và dài hạn. Năm 1999 NHNN 5 lần cắt giảm lãi suất
cho vay khi đó vốn lao động theo lãi suất thời kỳ trước vẫn được giữ nguyên
cho tới khi hết hạn, đồng thời lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn nhỏ
(bằng không hoặc thấp hơn). Vậy rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên các
NHTM.
2. Chính sách lãi suất trần đối với các doanh nghiệp.
* Tích cực:
- Đáp ứng tốt nhu cầu vốn sản xuất cho doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp không phải vay với mức lãi suất vượt trần, tức là các
doanh nghiệp không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền.
- Trong thời kỳ hàng cả nước có 6000 doanh nghiệp nhà nước hơn 1000

doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài, 230000 doanh nghiệp tư nhân,

10


công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (phát biểu của thủ tướng Phạm
Văn Khải tại cuộc gặp các nhà doanh nghiệp tại Hà Nội 1/1998) hầu hết các
doanh nghiệp này được vốn ngân hàng hỗ trợ 80 – 90% trong sản xuất kinh
doanh cải tiến và đổi mới công nghệ.
* Hạn chế.
Việc giảm lãi suất là điều kiện cần nhưng không đủ để tạo vốn cho
doanh nghiệp.
- Lãi suất cịn cao, khó khăn trong thủ tục vay NH. Cho dù lãi suất cho
vay đã giảm khá mạnh song các DN vẫn khơng dám vay tiền vì tỷ lệ lãi suất
cho vay ngân hàng vào khoảng 10% - 11%/ năm.
- Nhiều DN làm ăn khơng có hiệu quả do trang thiết bị cũ kỹ, công
nghiệp lạc hậu nhưng muốn cơ cấu vốn lớn, bắt buộc phải đi vay, với số lớn
DN phải trả lãi lớn trong khi lợi nhuận thu được lại chưa ổn định do vậy lãi
suất DN vẫn không dám vay.
- Các NH cạnh tranh dẫn đến tăng mức lãi suất tiền gửi các DN cắt
giảm tất cả những khoản đầu tư không đưa lại lợi nhuận cao bằng gửi tiếp vào
NH.
- Việc vay vốn trung và dài hạn của các DN khơng thuận lợi vì các NH
cho vay dễ gặp rủi ro từ việc huy động vốn NH cho vay trung và dài hạn trong
khi mức chệnh lệch giữa lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bị xoá
bỏ.
Mức lãi suất cơ bản.
Các loại lãi suất chủ đạo trên của NHNN trong đó có tác động trực tiếp
đến lãi suất huy động vốn và cho vay của các NHTM, nhưng có tác động gián
tiếp đến lãi suất trong nền kinh tế. Việc tăng lãi suất cơ bản cho thấy NHNN

phát tín hiệu tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ. Còn việc tăng lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất tái chiết khấu chứng tỏ lãi suất huy động vốn và cho vay đều
tăng, phản ứng này có thể dễ dàng thấy được bởi các diễn biến kinh tế vĩ mô
chủ yếu được coi là mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.
Theo đó, NHNN sẽ hạn chế cung ứng tiền cho các NHTM để mở tín
dụng thơng qua việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất. Đồng thời để đáp

11


ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng buộc các NHTM phải đẩy mạnh huy
động vốn trên thị trường, nếu không phải vay vốn của NHNN theo các nghiệp
vụ NHTƯ với lãi suất cao hơn. Để huy động được vốn trong xã hội trong bối
cảnh hiện nay, điều dễ dàng xảy ra khi NHNN tăng các loại lãi suất chủ đạo
nói trên thì các NHTM phải tăng lãi suất huy động vốn. Bởi vì hiện nay đang
có rất nhiều kênh cạnh tranh thu hút vốn.
Lãi suất tăng khơng biết có tác dụng kiềm chế lạm phát hay khơng
nhưng nó làm tăng rủi ro cho cả NHTM và doanh nghiệp thì khá rõ ràng, bởi
vì với lãi suất vay vốn nội tệ bình quân lên tới 12% - 13%/năm vào loại cao
nhất trong khu vực, lợi nhuận của doanh nghiệp, khả năng trả nợ của người
vay sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặc dù lãi suất cao nhưng nhiều dự án
triển khai dở dang vẫn phải tiếp tục vay vốn ngân hàng để đầu tư, đương
nhiên làm tăng độ rủi ro của dự án lãi suất tăng, vốn khan hiếm, doanh nghiệp
và người kinh doanh sẽ khó vay được vốn ngân hàng hơn. Lãi suất làm chi
phí vốn vay trong cơ cấu giá bán của sản phẩm và dịch vự tăng, tác động làm
tăng mặt bằng giá và tăng chỉ số giá tiêu dùng trên thị trường kinh tế của giai
đoạn sau, nhất là trong điều kiện vốn hoạt động của doanh nghiệp, của người
kinh doanh trông chờ chủ yếu vào vốn tín dụng ngân hàng.
Ở Việt Nam thì năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải
đối mặt với những khó khăn thách thức chưa từng có trong 20 năm đổi mới.

Các NHTM đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những
quyết định của NHNN. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các Ngân hàng thể
hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các Ngân hàng trong vịng một
tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các Ngân hàng đến chỗ đua
nhau tăng lãi suất huy động.
Trước tình hình đó, NHNN đã quy định trần lãi suất huy động là
12%/năm theo công điện số 02/CĐ – NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế
cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008 NHNN thơng báo những điều chỉnh trong
chính sách điều hành lãi suất. Đó là quyết định số: 16/2008/QĐ/NHNN về cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo quyết định này, các
tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho

12


vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do
NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số: 546/2002/QĐ –
NHNN ngày 30/05/2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong
hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp
với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động
12%/năm theo công điện số: 02/CĐ – NHNN ngày 26/02/2008 cũng khơng
cịn hiệu lực. Qua đó đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và
mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng cuối năm 2008;
an tồn hệ thơng Ngân hàng được đảm bảo, cũng cố lòng tin của các nhà đầu
tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống Ngân hàng. Khắc phục được
tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM.
Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mơ ổn định và hoạt
động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh toán làm cho thị trường tiền tệ
và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định. Biện pháp điều hành lãi suất có
hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM biến động theo

cung – cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi điều hành của
NHNN, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng.
Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương
diện thanh tốn và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng
tiền tệ một cách thân trọng. Tính chung cả năm, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần
giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần
suất điều chỉnh tương ứng. Cơ chế điều hành tỉ giá ghi nhân những điều chỉnh
chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng từ +/- 0,75% lên +/- 3%;
tỉ giá bình qn liên Ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh vào tháng 6 và cuối
tháng 12.
2. Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là cơng cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu
của thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm
phát: Những năm trước do lạm phát còn ở tỉ lệ cao. Để khống chế lạm phát,
NHNN chủ trương thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ đầu năm để giảm bớt
lượng tiền cung ứng.

13


Ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH
Ngoại thương, NH Công thương, NH Nông nghiệp, NH đầu tư phát triển)
nhưng sau vài năm đổi mới, do quy mơ mở rộng tín dụng của các NHTM quá
nhanh, số lượng các NHTM ngày càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng
hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM.
NHTM trong nước phải áp dụng hạn mức tín dụng cịn các NH nước
ngồi và NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị
phần tín dụng trong nước) nhưng vẫn chưa phải áp dụng hạn mức tín dụng.
Những năm sau đó, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ
“thắt chặt” để kiểm sốt lạm phát từ đó đưa ra rỉ lệ hạn mức tín dụng ở mức

vừa phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tượng phổ biến
là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng
được giao.
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân
hàng năm của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các
NHTM tất yếu phải thực hiện đầu tư tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế
vì con đường để đầu tư qua thị trường tiền tệ, thị trường vốn là khó khăn
trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ
Thứ hai, do diễn biến lãi suất đang có xu hướng giảm trần lãi suất cho
vay trong khi đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi
suất huy động (do tâm lý người dân khơng muốn gửi), điều đó làm cho chênh
lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% 0,25% tháng, thấp hơn so với trước đây 0,3%-0,45% tháng. Với chênh lệch
như vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt động thì
buộc các NHTM phải tăng dư nợ đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, cơng cụ hạn mức tín dụng đã mất dần
vai trị của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh tốn
vì lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền
kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ
này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù

14


có thể coi nó như một giải phóng tình thế khi cần thiết). Cơng cụ này sẽ được
xố bỏ hồn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định , thị trường vốn phát triển và
thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
3. Cơng cụ Dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn được sử dụng sớm
nhất ở Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có

thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Trong khoảng thời gian cuối năm 2007 và đầu năm 2008 tình trạng lạm
phát trên thị trường Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng ở mức đáng báo
động (riêng 2 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã lên tới 6,02%), NHNN đã phải
sử dụng đồng bộ các giải pháp chống lạm phát như: tăng lãi suất tái cấp vốn,
tăng DTBB và sẽ phát hành tín phiếu bắt buộc đối với bộ phận lớn các NHTM
cho vay trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, tiêu dùng. Trong số các giải
pháp trên, việc tăng DTBB và tăng lãi suất tái cấp vốn là những nghiệp vụ
quan trong và mang tính phổ biến của NHTW nói chung và NHNN VN nói
riêng. Các giải pháp này khẳng định quyền lực và trách nhiệm trực tiếp của
NHNN đối với việc bảo vệ giá trị sức mua của đồng tiền do NHNN phát hành
ra với tư cách là NHTW. Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp, NHNN
đã đưa ra quyết định số: 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỉ lệ dữ trữ bắt
buộc nhằm rút bớt tiền lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng
phương diện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục
tiêu kinh tế vĩ mơ. Theo đó NHNN u cầu mở rộng diện các loại tiền gửi
phải DTBB bao gồm các loại tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn so với quy
định hiện nay là áp dụng DTBB đối với tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn từ
24 tháng trở xuống.Điều chỉnh tăng tỉ lệ DTBB 1% đối với các loại tiền gửi
so với tỉ lệ quy định hiện nay. Cụ thể là: đối với tiền VNĐ khơng kỳ hạn và có
kỳ hạn dưới 12 tháng, tỉ lệ DTBB được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi
có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tỉ lệ DTBB được tăng từ 4% lên 5%; đối với tiền
gửi bằng ngoại tệ khơng kỳ hạn và có kỳ hạn d
4. Công cụ Cho vay tái chiết khấu
Ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công

15


cụ của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa hội đủ

những điều kiện nên việc áp dụng nó cịn giản đơn làm cho hiệu quả của nó cịn
nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành cơng cụ đắc
lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia.
Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu được thực hiện qua việc NHNN cho
NHTM vay ngắn hạn căn cứ vào khế ước tín dụng (có chất lượng) do NHTM
đem thế chấp tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn được xác định dựa theo lãi suất
cho vay (cao nhất ) của các NHTM và được điều chỉnh linh hoạt theo mục
tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ. Những năm trước, với mục tiêu kiềm chế
lạm phát, NHNN hạn chế tới mức thấp nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM
qua việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85% -100% lãi suất cho vay các NHTM,
riêng NH nông nghiệp là 95%. Để đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN đã ngưng
tái cấp vốn cho các NHTM nhằm đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và giảm cho
vay tín dụng của các NHTM. Để giải quyết tình trạng khó khăn trong thanh
tốn của các NHTM, NH đã thực hiện việc cho vay ngắn hạn đối với các
NHTM trong trường hợp tạm thời thiếu khả năng thanh toán (qua các phiên
thanh toán bù trừ trên từng địa bàn). Nhưng áp dụng lãĩ suất tái chiết khấu ở
mức tối đa. Điều này một mặt bảo đảm được sự ổn định của hệ thống ngân
hàng, mặt khác hạn chế được khả năng cung ứng vượt qúa về tín dụng của các
NHTM đồng thời khuyến khích việc huy động vốn của các NHTM, cũng hạn
chế bớt việc các NHTM vay tiền của NHNN.
Sau này thì NHNN đã sử dụng phương thức tái cấp vốn có thế chấp
(bằng chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời
trong thanh toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ quy
định 100% lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định
mức lãi suất cụ thể.
Để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự gia tăng
lạm phát do ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã
tăng lãi suất tái chiết khấu từ 1% tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho
vay ngắn hạn là 0,1% tháng.
Cùng với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy


16


cơ giảm phát thì NHNN đã nhiều lần thực hiện việc điều chỉnh giảm lãi suất
cho vay tái cấp vốn, đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu
đã được ban hành để phát triển một bước hiệu quả cơng cụ này trong chính
sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng.
Các giấy tờ có giá ngắn hạnh được chiết khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc,
trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do NHNN quy định ở
mỗi thời kỳ.
Như vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần được áp dụng theo đúng
bản chất của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự
phát triển của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính
sách tiền tệ quốc gia...
5. Cơng cụ Nghiệp vụ thị trường mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín
phiếu NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để
thực hiện CSTT quốc gia”
Trước khi thị trường mở chính thức được đưa vào vận hành ở Việt
Nam, NHNN đã từng bước tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và
phát hành các loại tín phiêú, đó là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước (KBNN). Các
đối tượng trúng thầu chủ yếu là các NHTM Quốc doanh, các NHTM cổ phần
và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo quy định của luật NHNN thì các trái
phiếu này khơng thể sử dụng làm cơng cho thị trường mở được. Tín phiếu
NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến nay thì NHNN
đã tổ chức được nhiều đợt phát hành tín hiệu NHNN. Các đợt này đều được tổ
chức vào các thời điểm khi mà tổng phương tiện thanh tốn và lạm phát có xu
hướng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lưu thơng.

Ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trương đưa nghiệp vụ thị
trường mở vào hoạt động theo phương hướng sử dụng nó như là một cơng cụ
điều tiết tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả của NHNN.
Như vậy, ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng
cho mình và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất

17


định (đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng
vốn khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu
CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính chất
thử nghiệm nên địi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.1.3. Đánh giá q trình thực hiện các cơng cụ của chính sách tiền
tệ những năm qua.
1. Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mơ.
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu đáng
được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát chặt
chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một bàn tay hữu
hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm
cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng được cải thiện.
Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bước
được điều chỉnh phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với
thơng lệ quốc tế, góp phần đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của
Việt Nam, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
* Góp phần tăng trưởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng
tin của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, thu hút
được nguồn vốn đáng kể từ trong và ngoài nước. Đặc biệt việc điều chỉnh các
công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc... của NHNN ở các giai đoạn cụ
thể đã có vai trị quan trọng ảnh hưởng tới việc huy động và phân bổ nguồn

vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục qua các năm.
Việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở Việt Nam đã góp phần
đạt được hai mục đích thường mâu thuẫn nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát vừa
tăng trưởng kinh tế. Có được kết qủa này còn phải kể đến vai trò của nhiều
CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa
đạt được mức năng suất biên của sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.
* Ngồi ra, việc sử dụng các cơng cụ của CSTT cũng góp phần gián
tiếp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm
công ăn việc làm.

18


2. Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ của
CSTT những năm qua.
Trong những năm qua, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc
kiểm sốt và điều hành tồn bộ q trình cung ứng tiền (phương pháp dự đốn
khơng phù hợp, phương thức điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến
đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối lượng tiền phát hành hàng năm cho 2
mục tiêu (cung ứng phương tiện thanh tốn cho nền kinh tế thơng qua cho vay
chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, chưa đánh giá đúng khả năng tạo tiền
của các NHTM).
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ nhằm
điều tiết sự tăng, giảm khối lượng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian
qua cũng bị hạn chế ở nhiều mặt.
Nhóm các cơng cụ trực tiếp: Được sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết
cung tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển
đổi kinh tế trong giai đoạn đầu nhưng trong tương lai sẽ khơng cịn phù hợp
nữa (rõ nhất là cơng cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ).

Lãi suất là công cụ được sử dụng thường xuyên nhất trong điều hành
CSTT ở Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng như tình trạng ở các nứơc đang
phát triển khác, ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu tư. Khi mà
trần lãi suất cho vay giảm liên tục nhưng đầu tư vẫn chưa tăng mạnh, giá cả
và sản lượng khơng những khơng tăng mà cịn tiếp tục giảm (tuy điều này còn
liên quan đến các yếu tố thực của nền kinh tế chứ khơng hồn tồn xuất phát
từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa). Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong
một khoảng thời gian ngắn đã làm giảm lãi suất cho vay) gây khó khăn cho
các tổ chức tín dụng.Vì lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm (liên tục) trong
khi đó lãi suất nhận gửi ở thời kì trước vẫn giữ nguyên từ đó xuất hiện khả
năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng.Việc điều chỉnh theo xu hướng
giảm trong thời gian qua ít có tác dụng tích cực đến việc tăng cường huy
động. vốn trong và dài hạn. Việc các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi
thanh toán trong khung trần lãi suất cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM
tranh giành khách hàng bằng việc tăng lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá

19


cao, khiến cho tổng số vốn huy động của toàn ngành NH không tăng mà chỉ
chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất ổn định trong kinh doanh.
Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ đạo
của NHNN, nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các NHTM.
Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị
trường vì thế nó có tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế.
Mặt khác cơ sở để NHNN điều chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trường
phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ số giá cả thị trường là chủ yếu,
sự ảnh hưởng của thị trường vốn còn hạn chế)
Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải được hình
thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Việc kiểm soát lãi suất

của NHNN hiện nay chính là một kiểu can thiệp giá của nhà nước. Nếu cứ
như vậy sẽ là không phù hợp trong tương lai khi hệ thống thị trường ở Việt
Nam phát triển hồn thiện hơn.
Cơng cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp lệnh
NH T5/1990 ) chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%, điều này
chỉ phù hợp trong thời kỳ đầu nhưng sau đó khi đồng tiền Việt Nam đi vào ổn
định thì đó là tỉ lệ khơng hợp lý, thiếu linh hoạt song NHNN trong thời gian đó
vẫn khơng có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp lệnh phải có thời gian.
Kể từ khi luật NHNN được thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có được điều
chỉnh giảm đi (0-20%) và linh hoạt hơn nhưng theo nhiều chun gia đánh giá
thì nó vẫn ở mức cao.
Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD chưa nghiêm,
tiềm ẩn các nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tượng
phải áp dụng quy chế DTBB cịn chưa đầy đủ, các đối tượng áp dụng thì mức
độ tỉ lệ DTBB cịn khác nhau- có nhiều yếu tố khộng hợp lý. Như vậy NHNN
vẫn chưa thực sự tạo ra được một “sân chơi bình đẳng”đối với các TCTD.
Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của cơng cụ nay cịn hạn
chế, chưa biểu hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trường, lãi
suất tái cấp vốn, chúng ta đã liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn chưa
thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả biểu hiện còn khá khiêm tốn.

20


Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ chế đầy đủ để
CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ - tác
động của nó với các biến số kinh tế vĩ mơ cịn rất hạn chế.
Cơng cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng
để thực hiện nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thương phiếu chưa phát triển
phổ biến trong các giao dịch thương mại; công cụ mà NHNN thực hiện

nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Theo lý thuyết,
lương tiền phát hành vào lưu thông qua con đường tái chiết khấu sẽ là phù
hợp hơn nếu nó được dựa trên các thương phiếu(vì lượng tiền đó được bảo
đảm bằng sự gia tăng khối lượng hàng hoá của nền kinh tế). Việc cho vay tái
cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các NHTM hiện nay
phải chăng là quá dễ dãi theo ngun lí phát hành tiền. Nó có thể đáp ứng nhu
cầu trước mắt của các NHTM nhưng nó cũng dễ phát sinh các tiêu cực trong
qúa trình thực hiện, chưa kích thích sự năng động của các NHTM. Như vậy sẽ
tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối với giá trị đồng tiền quốc gia.Trong
việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dường như chúng ta chỉ nặng về điều
chỉnh lãi suất chiết khấu mà chưa chú ý đến “cửa sổ chiết khấu” của NHTW
đối với các NHTM (vì quy mơ cung ứng cho vay chiết khấu của NHNN đối
với các NHTM cũng phải căn cứ vào thực lực của chính các NH đó).
Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi cịn mang nặng tính
bao cấp ( ưu tiên NHTMQD) do vậy vai trò “người cho vay cuối cùng” đối
với mọi TCTD của NHNN chưa thực sự thể hiện rõ nét.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Về cơ bản thì đây chưa thực sự trở
thành một công cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc dù
theo lý thuyết vai trị của nó là rất to lớn.
- Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:
. Q trình tạo “hàng hố” cịn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín
phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN của NHNN cịn mang nặng tính
hành chính, các chủ thể tham gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc
doanh, Cơng ty Bảo hiểm với mục đích đơn giản là giải quyết nguồn vốn khả
dụng dư thừa của họ.

21


. Việc mua bán lại tín phiếu cịn chưa phổ biến đối với cơng chúng

khiến cho lượng tín phiếu mà các TCTD sau khi mua được hầu như lại nằm
im trong két của họ điều đó cũng làm giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị
trường sơ cấp. Trên thị trường mở ,khối lượng giao dịch còn thấp , số thành
viên tham gia chưa nhiều nên tác độngcủa thị trường mở đến lượng vốn khả
dụng của các NHTM còn rất hạn chế.
Như vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hướng cơ bản và
các giải pháp cụ thể để có thể sử dụng các cơng cụ của CSTT một cách có
hiệu quả ở Việt Nam.
2.2. Giải pháp hồn thiện các cơng cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
2.2.1. Định hướng
1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bước sang thế kỷ 21,đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để
phát triển đó là : sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so sánh
của đất nước phục vụ cho sự phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ
khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục,cao thì lại đang có xu
hướng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này.Lý do được giải
thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc xuất phát từ
chính các yếu tố, lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt hậu
tương đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt
đẹp tạo cơ hội để phát triển đất nước; chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều các
quốc gia trong khu vực và thế giới ,tham gia nhiều hiệp ước kinh tế như
AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức,định chế tài
chính lớn như IMF, WB, ADB..
Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông Á, Đông Nam Á đang
có dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm
qua. Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trường
tàI chính tiền tệ ở nước ta .
Trong xu hướng tiếp tục hồn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao
hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn đề


22


còn phải lưu tâm rất nhiều .
2. Một số định hướng cơ bản:
-Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hồ nhập với
thơng lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước .
-Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử
dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu
quả hơn.
-Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính
thực tiễn đó là thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các
chính sách kinh tế vĩ mơ khác để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế .
2.2.2.Giải pháp :
1. Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,mơi trường thuận lợi
-Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó
trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT
cần được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ
thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
-Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng
cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt
khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các cơng cụ của
CSTT.
- Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh q trình hồn thiện,cơ cấu lại hệ
thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
- Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong
việc thu thập ,xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
- Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để

cơ chế thực thi CSTT nói chung ,các cơng cụ của CSTT nói riêng được
nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
- Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp
thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc
thực hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh

23


toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh ,thói quen sử dụng hoạt động
thị trường mở của các tổ chức tín dụng ...
2. Nhóm giải pháp về việc hồn thiện các cơng cụ của chính sách
tiền tệ:
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT địi hỏi phải nhanh
nhanh chóng hồn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát
thực tiễn VN -phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các cơng
cụ phải được xây dựng và hồn thiện theo hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy
lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ thể:
* Đối với cơng cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy khơng coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần
phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN
sẽ can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể.
* Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc
đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo
điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù
hợp các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân
của các doanh nghiệp;sự biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ
lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị trường .

NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền
vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn
dài hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính
đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Việc duy trì các mức lãI suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp điều
khó khăn là phù hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các
kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM
quốc doanh.
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một
cách hợp lý ,từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá”

24


trên đất Việt Nam .
Trước mắt, trong những tháng gần đây nền kinh tế đang có những biểu
hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các TCTD
đang gặp phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều chỉnh lãi
suất cơ bản với biên độ như hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh những
hiện tượng thiếu tích cực trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy, NHNN
có thể nên điều chỉnh giảm biên độ dao động của mức lãi suất cơ bản. Về phía
Nhà nước nên có chính sách tài chính phù hợp với các tổ chức tín dụng, các
NHTM ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ thuế vốn khá cao, do vậy thuế
đánh vào các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp theo
hướng giảm tỷ lệ thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trước thuế
Hiện nay chúng ta chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần
phải hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi một lẽ đó là xu
hướng tất yếu và khi đó vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước bằng công cụ lãi
suất vẫn được thể hiện qua sự định hướng theo tín hiệu thị trường .
* Đối với cơng cụ dự trữ bắt buộc :

-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và
cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ
chế thị trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp
để tạo ra một mơi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín
dụng: nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đưa ra phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục tiêu CSTT
và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong tồn bộ hệ thống tổ chức tín
dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự
trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế
dự trữ để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện
tốt mục tiêu CSTT
- NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt
các qui chế dự trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc
phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng

25


×