Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Quan hệ thương mai giữa việt nam và nhật bản thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.12 KB, 34 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Vào những năm đầu những năm của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng
hội nhập và hợp tác kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình
phát triển nền kinh tế. Những lợi ích kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế đã
mang lại cho mỗi thành viên tham gia, những lợi ích kinh tế mà khơng một
quốc gia nào có thể phủ nhận. Việt Nam cũng vậy, để đẩy mạnh q trình Cơng
nghiệp hố Hiện đại hố, Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách
đối ngoại rộng mở, đa dạng hố và đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, lấy
mục tiêu vì hồ bình và phát triển làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đối ngoại.
Đồng thời, trong bối cảnh phân công lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ,
việc hợp tác kinh tế quốc tế… đã và đang trở thành cách tốt nhất để các quốc gia
phát huy được tối đa lợi thế của mình, cũng như khai thác triệt để những lợi ích
của các quốc gia khác để phục vụ cho nước mình.
Khơng nằm ngồi xu thế trên, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đã tìm thấy ở
nhau những điều kiện thuận lợi, cũng như lợi ích kinh tế của bản thân mỗi nước
khi xây dựng, phát triển và củng cố mối quan hệ hợp tác song phương giữa hai
nước. Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, trong quan hệ buôn bán
giữa Việt Nam - Nhật Bản cịn có một số hạn chế cần được khắc phục, loại bỏ
nhằm phát triển hơn nữa cho xứng với tiềm năng của hai nước, đưa mối quan hệ
này lên tầm cao mới. Việc nghiên cứu những thành tựu và những mặt tồn tại đó
là rất cần thiết. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Quan hệ Thương mai giữa Việt
Nam và Nhật Bản thực trạng và giải pháp”.
Với yêu cầu của khoá luận về mặt kiến thức tổng hợp, kiến thức am hiểu
sâu rộng về thực tế chính sách là rất cao. Nhưng do sự hạn chế về mặt thời gian,
tài liệu cũng như năng lực nghiên cứu của mình nên trong đề tài em chỉ tập trung
vào lĩnh vực (quan hệ Thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ năm
1992 trở lại đây). Và em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
cũng như bạn đọc để cho đề tài được hoàn thiện hơn nữa.

1



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
1.1Cơ sở lý luận
Có thể nói, chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập niên 90 của thế kỷ thứ
20, tạo ra một diện mạo mới cho các quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tác động lớn
tới nhiều quốc gia, làm thay đổi hẳn cục diện thế giới. Mở đầu, được đánh dấu
bằng sự tan rã của của chế độ chính trị ở đất nước Liên Xơ và một loạt các nước
Xã hội Chủ nghĩa ở Đơng Âu. Tình hình an ninh chính trị trên thế giới, về cơ
bản đã ở trong trạng thái ổn định. Nguy cơ của bùng nổ chiến tranh hạt nhân (thế
chiến thứ 3) đã bị đẩy lùi. Người ta đã cảm thấy yên tâm hơn, để tập trung vào
đầu tư phát triển kinh tế và củng cố đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề bất cập, gây ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ ngoại giao giữa
các nước như: hệ thống tôn giáo của các nước rất phức tạp, quyền lợi các bên
hay bị xung đột, gây ra chiến tranh liên miên, làm cho nhiều khu vực trên thế
giới không ổn định như: khu vực Châu Phi, vùng Trung Cận Đơng… mà điển
hình là các lị lửa chiến tranh Ấn Độ – Pakistan; Ixaren – Plestin, mà gần đây
nhất là sự kiện ngày 11/09/2001 làm chấn động nước Mỹ. Làm dấy lên làn sóng
khủng bố khắp nơi trên thế giới; rồi sự kiện chiến tranh Irắc; vấn đề hạt nhân ở
Bắc Triều Tiên…đã trở thành vấn đề mà các quốc gia luôn phải cân nhắc. Các
xu thế cạnh tranh đối địch giữa các quốc gia, mâu thuẫn luôn luôn cùng tồn tại
và phát triển. Nhưng nó khơng thể nào, ngăn cản được xu thế tồn cầu hố và
khu vực hố.
Q trình tồn cầu hố, đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển theo
một chiều hướng mới. Với lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão chưa từng
có, trên cơ sở của nền cơng nghệ mới hiện đại được thể hiện ở một số mặt sau:
Thứ nhất, có thể nói, xu hướng tồn cầu hố các hoạt động kinh tế là nhân
tố đầu tiên tác động đến việc thiết lập các chiến lược kinh tế đối ngoại của các
2



nước. Nhằm thích ứng với một mơi trường kinh tế quốc tế mới, đã và đang thay
đổi. Mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh doanh là lợi nhuận, thị phần và những
ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình tới thị trường các nước. Để đạt
được mục đích này, các quốc gia phải bắt kịp, thích ứng và thậm chí phải đón
đầu, đi trước thời đại với những công nghệ mới hiện đại và cả những triển vọng
phát triển mới của nền kinh tế thế giới trong tương lai.
Thứ hai, trong q trình tồn cầu hố, tiến bộ cơng nghệ nói chung, đặc
biệt là sự bùng nổ của cách mạng tin học trong những năm gần đây, đã đẩy
mạnh, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật, giúp cho
việc điều hành dễ dàng, các hoạt động kinh tế quốc tế phân tán ở nhiều nước
khác nhau trên thế giới. Bằng cách sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, viễn
thông ở nhiều quốc gia
Thứ ba, dưới tác động của tồn cầu hố và cách mạng tin học, quá trình
liên kết khu vực cũng đang diễn ra mạnh mẽ giữa các nước, đòi hỏi các quốc gia
phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào q trình hợp tác
và phân cơng lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết
hợp chặt chẽ giữa các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ…, đẩy mạnh
tự do hoá thị trường, bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan
giữa các nước.
Như vậy tồn cầu hố là một xu hướng khách quan và xu hướng này đang
trong quá trình vận động không ngừng, tạo những cơ hội và cả những thách thức
cho tất cả các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia cần phải biết khai thác những ưu
thế và hạn chế những thách thức của tồn cầu hố kinh tế quốc tế, từ đó tạo ra cơ
hội để tham gia ngày càng có hiệu quả hơn vào q trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Hai tổ chức khu vực có tác động và ảnh hưởng trực tiếp nhất, liên quan
mật thiết đến quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, đặc biệt là quan hệ kinh tế

3


Việt Nam – Nhật Bản. Đó là, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC) và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).
Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trị quan trọng,
ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam và Nhật
Bản là hiệp hội các nước Đơng Nam Á (ASEAN).
Mặc dù có sự thành công không giống nhau, song thực tiễn hoạt động của
các hình thức liên kết khu vực như trên cho thấy, q trình khu vực hố giúp các
quốc gia trong khu vực có cùng những điều kiện nhất định hỗ trợ nhau cùng phát
triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh chung (lợi thế so sánh khu vực) trên pham vi tồn
cầu. Đồng thời, tạo điều kiện để có được quan hệ giao lưu kinh tế phát triển rộng
rãi, không chỉ giữa các quốc gia trong khu vực với nhau mà giữa khu vực với
khu vực và giữa các quốc gia trong khu vực với các quốc gia khác trên thế giới.
Tóm lại, tồn cầu hố và khu vực hóa ln gắn liền với nhau, tạo động lực
thúc đẩy nhau làm cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Trong xu
thế ngày nay, mỗi dân tộc (quốc gia), đều tìm cố gắng tìm cho mình một chỗ
đứng để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Vị thế chính trị của mỗi
nước, phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh kinh tế của nước đó. Vì vậy, mỗi nước
đều phải cố gắng thích nghi với luật chơi chung của các nước trong khối, thế
giới. Đồng thời phải cố gắng bảo vệ lợi ích dân tộc mình, giữ gìn bản sắc văn
hố truyền thống của dân tộc.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Bao gồm các nhân tố cả chủ quan cũng như thực tiễn khách quan của hai
phía Việt nam và Nhật Bản.
1.2.1 Các nhân tố từ phía Nhật Bản
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu
những năm 1990, làm cho chiến tranh lạnh kết thúc. Khơng cịn sự chạy đua vũ
trang giữa hai cực nữa. Người ta coi cuộc chiến tranh lạnh mà thực chất là sự đối

đầu về tư tưởng, chính trị qn sự giữa Liên Xơ và Hoa Kỳ đã chấm dứt. Tình
4


hình thế giới đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển, ở đó hợp tác và
cạnh tranh trở thành hai mối quan tâm lớn của các quốc gia. Cơ cấu hai cực
chấm dứt và phát triển, xu hướng tiến tới đa cực. Trước sự biến chuyển tình hình
kinh tế thế giới, chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế của mình, các nhà hoạch định
chính sách kinh tế Nhật Bản đã xây dựng chiến lược kinh tế, với mục tiêu vươn
lên trở thành một cường quốc cả về kinh tế lẫn chính trị.
Nhật Bản đang thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại hướng về Châu Á,
xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Ở phương diện kinh tế, cần nhấn mạnh tới,
đây là khu vực có nhiều lợi thế về Địa lý – Kinh tế, dân số, xã hội…
* Châu Á là khu vực có số dân chiếm khoảng hơn 1/3 dân số thế giới,
chiếm gần 1/3 diện tích tồn cầu với hệ sinh thái, tài nguyên đa dạng, phong
phú, nguồn nhân lực dồi dào với trình độ khá cao. Do đó, gia tăng quan hệ kinh
tế với các nước ở Châu Á có nền nơng nghiệp lạc hậu để tăng cường sự lệ thuộc
về kinh tế, chính trị. Để có vốn và cơng nghệ hiện đại cho q trình cơng nghiệp
hố, các nước này sẵn sàng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với các nước
khác đặc biệt là Nhật Bản.
* Hơn nữa, nếu chỉ xét riêng về phía Nhật Bản, có thể nói đây là quốc gia
có tiềm lực kinh tế hàng đầu trong khu vực lại luôn dư thừa vốn, công nghệ hiện
đại, trình độ quản lý tiên tiến... Với sự phát triển năng động của Châu Á, làm
cho ý tưởng quay về với Châu Á ngày càng trở nên rõ nét hơn trong chính sách
của các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh doanh Nhật Bản.
* Ngoài ra, sự tác động xu hướng tồn cầu hố và khu vực hoá được coi là
yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thay đổi trong chính sách đối ngoại, đẩy mạnh
bành chướng kinh tế ra bên ngoài của Nhật trong những năm 1990, đặc biệt là
vào các nước ở khu vựoc Châu Á.
* Sau chiến tranh lạnh, Nhật Bản nhận thức được rằng, tình hình phát

triển ở khu vực Châu Á sẽ tiến triển theo chiều hướng tích cực. Ở đó, người ta
tìm thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, nhằm tận dụng những lợi thế so
5


sánh để tiếp tục duy trì sự phát triển đó cũng là giải pháp tốt để các quốc gia
trong khu vực này vượt qua, khắc phục được cuộc khủng hoảng kinh tế trong
khu vực. Dường như, các đối tác đều nhận thức được tầm quan trọng của mối
liên kết toàn diện. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và an ninh …ngày càng phát
triển, bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trịChính bối cảnh này, tình hình khu
vực đã tạo tiền đề cho Nhật Bản thực thi tốt chính sách mở rộng hợp tác kinh tế,
chính trị và văn hố với các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
1.2.2 Các nhân tố từ phía Việt Nam
Nước ta và một số nước khác, đã có lúc xem xét vấn đề độc lập kinh tế,
xây dựng một nền kinh tế hồn chỉnh mang tính tự túc (tự cung tự cấp) để tránh
sự lệ thuộc vào bên ngồi. Có thể nói, việc mở rộng thương mại quốc tế cùng
các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác, vận dụng một trong những bài học kinh
nghiệm quý báu, được rút ra từ thực tiễn của nước ta trong những năm qua. Kế
thừa và phát huy có chọn lọc các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng VI, Đại
hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra như: chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế – Xã hội đến năm 2000 tiếp tục khẳng định quyết tâm thực
hiện công cuộc đổi mới, phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước theo định hướng
XHCN. Trong lĩnh vực ngoại thương, để tiến tới “tự do hoá thương mại”, từng
bước tham gia, hội nhập với các tổ chức thương mại khu vực và toàn cầu, nhiều
văn bản, chính sách mới về các hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là khuyến
khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước sản xuất kinh doanh hàng xuất
khẩu, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư liên doanh với Việt
Nam để phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu… đã được chính phủ ban
hành.

Với nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ và táo bạo, sau 15 năm kiên trì
thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã từng bước hình thành nền kinh tế thị
trường với những nét đặc trưng riêng của mình. Khơng chỉ vượt ra khỏi khủng
6


hoảng về kinh tế mà còn, thu được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực cả
về kinh tế và xã hộiVới phương châm “muốn làm bạn với tất cả các nước”, Việt
Nam đã thực hiện một chính sách đối ngoại rộng mở. Tính đến nay, Việt Nam đã
là thành viên chính thức của hai tổ chức kinh tế khu vực là ASEAN, APEC và
đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO. Ngồi ra, Việt Nam có quan hệ thương
mại với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp ước thương mại với hơn 60
nước và nhận được ưu đãi tối huệ quốc của 68 nước.
1.3 Ý nghĩa của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản
Việt Nam, hiện đang trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi, quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH – HĐH đang được đẩy mạnh. Chu trình đổi
mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986, đã làm cho nền kinh tế thay đổi một
cách cơ bản. Những thành tựu, mới đạt được là bước đầu nhưng rất quan trọng.
Như việc chuyển từ một nền kinh tế thiếu hụt về lương thực, thực phẩm sang
một nền kinh tế có dư thừa và xuất khẩu lương thực, kiểm sốt được lạm phát,
khơng ngừng mở rộng, phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước bên
ngoài, tăng trưởng kinh tế cao, cải thiện điều kiện sống… và những nhu cầu cơ
bản khác của mọi tầng lớp xã hội được đáp ứng. Điều quan trọng nhất là, sự
chuyển đổi của cả một hệ thống kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là những nhân tố quyết định, đánh dấu sự cố gắng nỗ lực của toàn thể
dân tộc Việt Nam để đạt tới “điểm cất cánh”. Và đây cũng là những nhân tố, làm
cho Việt Nam có khả năng thực hiện một chiến lược mới về CNH – HĐH đất
nước. Để thực hiện được chiến lược mới này trong tương lại, Việt Nam cần thực
hiện ba nhiệm vụ chiến lược chính sau đây:
- Thứ nhất; phát triển cơ sở hạ tầng Kinh tế - Xã hội và thực hiện tái đầu

tư theo hướng CNH – HĐH.
- Thứ hai; Tổ chức lại và phát triển các lực lượng chủ chốt trong cơ cấu
kinh tế đa sở hữu, đặc biệt là khu vực nhà nước một khu vực đóng góp rất lớn
cho tổng thu nhập quốc dân (GDP) của Việt Nam. Nó có thể tiếp tục, đóng vai
7


trị là lực lượng chính và cơ bản trong nền kinh tế thị trường trong khoảng hai
đến ba thập kỷ tới.
- Thực hiện chính sách: kết hợp giữa tăng trưởng cao với công bằng xã
hội.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ này, Việt Nam phải đương đầu với
những khó khăn lớn như:
+ Thiếu hụt vốn.
+ Thiếu công nghệ hiện đại.
+ Thiếu kinh nghiệm quản lý cả về vĩ mô cũng như là vi mô.
+ Sự cách biệt thu nhập ngày càng gia tăng tạo nên hố ngăn cách, phân
hoá giữa giầu và nghèo. Những tiêu cực trong phát triển nền kinh tế thị trường
như: tham nhũng, buôn lậu và sự sa sút môi trường…
Trước hết đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại sẽ
đem lại nhiều thuận lợi cho quốc gia trong lĩnh vực ngoại thương. Nhật Bản, có
một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm của Việt Nam như: Dầu thô,
hàng Dệt may, Giầy dép da, Than, Cafe… và các hàng nơng sản khác. Nhờ đó,
tích luỹ được một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần đáng kể vào
công cuộc đổi mới đất nước. Mặt khác, thông qua nhập khẩu, nhu cầu tiêu dùng
của người Việt Nam sẽ được thoả mãn với những hàng hố có chất lượng tốt
hơn, mẫu mã đẹp hơn, nhiều tính năng tác dụng do Nhật Bản sản xuất. Đây cũng
là một động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước với hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản. Hơn nữa khi tham gia vào quan hệ
ngoại thương với Nhật, Việt Nam có thể nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ

một nước có cơng nghệ tiên tiến như Nhật Bản, để từ đó đẩy mạnh, nhanh hơn
quá trình CNH – HĐH đất nước, nâng cao năng xuất lao động cho nền kinh tế
nói chung.
Ngồi ra, Việt Nam cịn là một quốc gia có nguồn tài ngun tương đối đa
dạng và phong phú. Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát
8


triển nông nghiệp và các cây công nghiệp. Bờ biển từ Bắc xuống Nam của Việt
Nam chuyển hướng, uốn khúc theo hình chữ “S”, kéo dài trên 15 vĩ độ. Bờ biển
dài trên 3000 km là điểm thuận lợi để Việt Nam phát triển các ngành thuỷ hải
sản, cảng biển vận tải biển, du lịch, giao thơng. Bên cạnh đó, vùng Biển Việt
Nam có thềm lục địa mở rộng hứa hẹn nhiều tài nguyên khoáng sản đặc biệt là
các kim loại quí hiếm và dầu mỏ. Mặt khác, cùng với sự gia tăng đầu tư sang
Việt Nam, một thị trường lao động rẻ, trẻ, có trình độ văn hố khá… Các doanh
nghiệp Nhật Bản cũng tiết kiệm được chi phí sản xuất, cạnh tranh tốt hơn trong
xuất khẩu, gia tăng hiệu quả của nền sản xuất nói chung.
Ngồi những lợi ích về kinh tế, Nhật Bản còn đạt được những mục tiêu
chính trị của mình. Có thể nhận thấy rằng, từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN
vào năm 1995, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, được xét kết nạp vào diễn đàn
APEC, cùng với những hoạt động tại liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác,
tiếng nói của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và khu vực được các nước khác
coi trọng. Chính sách thúc đẩy quan hệ tồn diện với khu vực Đơng Nam Á của
Nhật Bản có nhiều cơ hội thành cơng khi quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Ban
được tăng cường.

9


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - NHẬT BẢN TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY

Sau hơn 30 năm (1973 – 2004) thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức,
quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản trong mối quan hệ mới
không ngừng được củng cố và hồn thiện. Trên cơ sở lợi ích riêng của hai nước,
mặc dù có sự khác biệt về chính trị, nhưng hai nước đã có nhiều cố gắng duy trì
và phát triển mối quan hệ này. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, do đã có các bước
tiến triển khả quan với nhiều sự kiện lớn trong quan hệ chính trị, ngoại giao,
kinh tế giữa hai nước khiến cho các hoạt động xuất nhập khẩu đã diễn ra với tốc
độ và quy mô ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn hẳn so với giai đoạn từ năm
1986 đến 1991. Trước khi đề cập đến quan hệ giữa hai bên từ năm 1992 đến nay,
chúng ta cần có cái nhìn tổng quan nhất về động thái phát triển kinh tế thương
mại giữa hai nước giai đoạn trước năm 1992.
2.1 Sự tiến triển của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản từ năm
1973 đến năm 1991
Sau khi hiệp định Pari, về việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam được
ký kết, ngày 21/9/1973 Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao giữa hai nước. Hai năm sau, vào tháng 10 năm 1975, cả hai bên đã
cùng mở đại sứ quán ở thủ đô của nhau. Đã mở ra, một thời kỳ mới trong quan
hệ hợp tác tồn diện giữa hai nước. Cũng từ đó, quan hệ hai nước bước sang một
trang mới.
Trước năm 1986, ngoài quan hệ với các thị trường truyền thống khu vực 1
(các nước XHCN) Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các
nước khác, các thị trường khu vực II (các nước TBCN và các nước đang phát
triển). Đặc biệt năm 1976, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn thứ hai sau Liên
Xô về cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.

10



Bảng 1: Danh sách 5 bạn hàng xuất khẩu lớn nhất cuả Việt
Nam giai đoạn (1976 – 1990)
Nước

Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Xuật
khẩu Việt nam (%)

Xếp hạng

44.1
40.6
7.0
7.0
3.9

1
2
3
4
5

Liên Xô
Nhật Bản
Singapore
Hồng Kông
Ba Lan

(Nguồn: Nguyễn Trần Quế: Kinh tế đối ngoại Việt Nam – Thực tiễn và chính
sách, viện Kinh tế thế giới, Hà Nội,1992)


Bảng 2: Danh sách 5 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt
Nam giai đoạn (1976- 1990)
Nước

Liên Xô
Nhật Bản
Pháp
Tiệp Khắc
Hồng Kông

Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Nhập
khẩu Việt Nam (%)

Xếp hạng

67.1
6.7
2.7
2.3
2.1

1
2
3
4
5

Nguồn: Nguyễn Trần Quế - Kinh tế đối ngoại Việt Nam – thực tiễn và chính
sách. Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1992


Trong ba năm liền từ năm 1976 - 1978, quan hệ mậu dịch của hai nước
tiếp tục phát triển, với tổng kim ngạch hàng năm tương ứng khoảng 159 triệu
USD, 247 triệu USD và 268 triệu USD. Như vậy, có sự gia tăng quá nhanh về
quy mô và giá trị.
Bước sang năm 1979, do nhiều yếu tố phi kinh tế tác động nên mậu dịch
song phương của hai nước có sự giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 50 triệu
USD, nhiều hợp đồng làm ăn bị hỗn lại. Lý do cơ bản là vì các năm này, Nhật
Bản không vượt ra khỏi áp lực chính trị vì ảnh hưởng dư luận phản đối của các
nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới mà đứng đầu không phải ai khác là Mỹ. Về
thực trạng diễn biến quân sự, chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc qua cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc dẹp bỏ chế độ Pôn-Pốt của Việt Nam ở
11


Campuchia phía Tây Nam, cộng thêm một số vấn đề khác nữa… Đã dẫn đến
quyết định tối cao của Bộ ngoại giao Nhật Bản ngày 8/1/1987, là sẽ hoãn viện
trợ cho Việt Nam cho đến khi nào các vấn đề trên được giải quyết ổn thoả.
Bảng 3: Tài trợ của Nhật Bản và các nước thuộc tổ chức DAC cho Việt
Nam thời kỳ 1979 – 1991
(đơn vị: triệu đô la Mỹ)
Năm
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985


Từ Nhật Bản
38,7
3,7
0,9
1,3
0,7
1,1
0,6

Từ DAC
229,6
158,4
129,4
104,9
73,5
80,7
54,2

Năm
1986
1987
1988
1989
1990
1991

Từ Nhật Bản
1,5
0,3
4,8

1,6
1,3
7,1

Từ DAC
54,2
90,0
65,8
107,7

(Nguồn: OECD, Development Assistance Committe Statistic và Japan’s ODA
Annual Report 1995)

Từ năm 1983 – 1986, quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản có
xu hướng gia tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, điều này xuất
phát từ nhu cầu kinh tế của cả đơi bên như: Việt Nam muốn có các sản phẩm
hàng hố cơng nghiệp cần thiết, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, các thiết bị công
nghệ hiện đại, phục vụ cho việc CNH - HĐH đất nước. Cịn về phía Nhật Bản,
họ lại muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trường, lao động… của Việt
Nam. Do vậy mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 214 triệu USD vào
năm 1985. Trong đó, Việt Nam xuất sang Nhật Bản những sản phẩm thơ có giá
trị thấp và nhập từ Nhật những hàng hố có hàm lượng “chất xám” cao.

Bảng 4: Buôn bán giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn (1973 – 1986)
(đơn vị: Nghìn đồng)
Năm

Kim ngạch xuất khẩu

1973

1974
1975

7.627
30.194
26.697

Kim ngạch nhập
khẩu
4.429
20.394
2.973

12

Tổng kim ngạch
Xuất nhập khẩu
12.056
50.588
69.670


1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983

1984
1985
1986

39.906
71.848
50.834
48.228
48.627
37.334
36.018
37.625
51.206
65.027
82.923

8.795
174.669
216.820
117.734
113.090
109.449
92.339
119.221
119.221
148.036
189.187

158.701
246.517

267.654
165.692
161.717
146.793
128.357
156.846
170.224
213.863
272.110

Nguồn; Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế Nhật Bản
(Ghi chú: Từ năm 1973 – 1975, chỉ tính kim ngạch buôn bán với Bắc Việt Nam)

Giữa những năm 1980, nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm
trọng do lạm phát ba con số (lạm phát phi mã) gây nên. Đời sống của nhân dân
rất khó khăn. Bên cạnh đó, Mỹ lại thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, ngừng
viện trợ và đầu tư, kể cả các khoản đã cam kết với chính phủ Việt Nam. Trước
tình hình đó năm 1986, nước ta đã thực hiện một bước chuyển đổi cơ bản, từ
chỗ nền kinh tế đóng sang mở cửa nền kinh tế. Việc chuyển đổi này, đã giúp Việt
Nam gặt hái được nhiều thành công trong thương mại quốc tế. Được sự ủng hộ
và quan tâm hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản.
Chỉ riêng trong lĩnh vực ngoại thương, các hoạt động xuất nhập khẩu đều có sự
tăng trưởng và phát triển khả quan.
Có thể nói tóm lại, tình hình trước năm 1992, cho phép chúng ta có thể rút
ra được những nhận xét như sau:
- Sau một loạt những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực Châu Á
Thái Bình Dương từ chính trị, đến an ninh, kinh tế, tồn cầu hố và khu vực hoá
trước những năm 1992 đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho các quốc gia
trong quan hệ cả song phương lẫn đa phương…, hối thúc các quốc gia thiết lập
và mở rộng giao lưu kinh tế song phương; quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt –

Nhật được “tái lập” lại và thúc đẩy mạnh hơn.
- Nếu chúng ta coi bối cảnh quốc tế và khu vực là yếu tố tác động “bề
ngồi”, thì yếu tố Việt Nam – sự tiếp tục đổi mới kinh tế, những lợi thế và nhu
13


cầu lợi ích… là những yếu tố “bên trong” quan trọng thúc đẩy sự tái lập và phát
triển quan hệ kinh tế với Nhật Bản. Cả hai yếu tố này đều không thế thiếu, trong
việc tạo ra cơ sở để cho quan hệ giữa Việt – Nhật được phát triển.
- “Yếu tố Nhật Bản”, cũng là yếu tố “bên trong” không kém phần quan
trọng trong việc thúc đẩy quan hệ của hai nước. Nói khác đi, chính tiếm lực kinh
tế, chính sách kinh tế đối ngoại hướng về Châu Á và lợi ích của Nhật Bản trong
quan hệ với Việt Nam đã tạo ra cơ sở cho quan hệ song phương Việt Nam –
Nhật Bản được phát triển.
2.2 Thực trạng phát triển Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai
đoạn từ năm 1992 đến nay
2.2.1 Tình hình chung của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật
Bản trong giai đoạn từ 1992 đến nay.
Trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 1996, là thời kỳ khó khăn nhất của
Việt Nam, do khối thị trường mà Việt Nam có quan hệ chính trong hơn 40 năm
qua là Liên Xô và các nước Đông Âu cũ đã bị sụp đổ v năm 1991. Thời kỳ có
nhiều sự kiện quan trọng, tạo bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển kinh tế
của nước ta. Kết quả cho thấy thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở
rộng, từ quan hệ ngoại thương với 40 nước năm 1990 đã tăng lên 174 quốc gia
và vùng lãnh thổ năm 2003, trong đó hai châu lục có nhiều bạn hàng nhất là
Châu Á (27,9%) và Châu Phi là (25,6%). Sự kiện đầu tiên diễn ra trong
tháng11/1992 đó là: khi chính phủ Nhật Bản tuyên bố nối lại viện trợ phát triển
chính thức ODA cho Việt Nam thì mọi rào chắn đã được tháo gỡ, quan hệ hữu
nghị Việt – Nhật ngày càng trở nên thân thiện.
Cũng ngay sau đó, vào tháng 12/1992, chính phủ Nhật Bản tiếp tục tuyên

bố huỷ bỏ chế độ quy chế “hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá kỹ thuật cao,
hàng chiến lược sang các nước XHCN trong đó có Việt Nam đã được áp dụng từ
năm 1977”. Nhờ đó, Việt Nam đã có thể nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện

14


đại của Nhật Bản để phục vụ cho quá trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố nền
kinh tế, điều mà nhiều năm trước đó khơng thể làm được.
Nói tóm lại, hồn cảnh mơi trường quốc tế và khu vực thuận lợi; công
cuộc đổi mới của Việt Nam với các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại năng
động, phù hợp với xu thế phát triển thời đại, lợi ích của hai bên Nhật Bản - Việt
Nam đã là những nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy các quan
hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ,
sôi động hơn và cũng ngày càng đi vào thế ổn định hơn, vững chắc hơn. Đương
nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân có tính khách quan bên ngồi đối với
Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về phía những nhân tố chủ quan Nhật Bản đã tạo ra.
Như đã phân tích ở chương 1, sở dĩ trong suốt thập niên 90 vừa qua, đã có nhiều
nỗ lực trong các quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với Việt Nam còn là do sự
chuyển hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối
ngoại của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.2.2 Thực trạng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Như đã phân tích ở trên, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản ngày
càng phát triển, nhất là từ năm 1992 trở lại đây, do chính sách hợp tác hữu nghị,
đã làm cải thiện thơng thống hơn, sau khi có sự kiện Phía Nhật Bản đã chính
thức nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vào tháng
11/1992. Đặc biệt là sau một loạt các sự kiện quan trọng trong hai năm 1994 và
1995: Mỹ huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam vàn tháng
7/1995; Việt Nam gia nhập ASEAN cũng vào tháng 7/1995 thì các quan hệ kinh

tế, đặc biệt là quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản càng được phát triển
mạnh mẽ và sôi động hơn.
Bảng 5: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt – Nhật trong tổng kim ngạch
XNK của Nhật Bản thời kỳ 1992 – 2003
(đơn vị: triệu USD)
Năm

XNK Việt – Nhật

Tổng kim ngạch XNK của

15

Tỷ trọng (%)


Nhật Bản
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003*


1,321
1,708
1,994
2,637
3,160
3,481
3,262
3,600
4,653
5,725
4,950
2,840

573.395
603.349
671.251
776.617
760.627
759.958
624.700
825.769
925.926
914.119

0,23
0,28
0,3
0,34
0,42
0,46

0,52
0,44
0,50
0,63

(Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JETRO)

Ghi chú: (*) - Tính trong 6 tháng đầu năm
Từ Bảng 4, cho ta thấy tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản tăng rõ rệt trong từng năm.
Điều đó thể hiện mối quan tâm của Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam và
triển vọng của mối quan hệ thương mại này. Những bảng số liệu trên cũng cho
thấy thương mại của Nhật Bản với Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé
0,63 % năm 2001, nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ trọng các nước như Trung Quốc là
13,2 %; Singapore là 2,9 %; Malaysia là 2,7%; Thái Lan là 2,6%; Philippin là
1,7%. Trong khi đó, bảng 5 lại cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt –
Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại khá cao, chiếm tỷ trọng
trung bình 15,7%. Điều này phản ánh sự phụ thuộc khá lớn của Việt nam trong
quan hệ thương mại với Nhật Bản. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong nền kinh tế
Nhật Bản sẽ dẫn đến những thay đổi lớn cho Việt Nam.
Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt Nam – Nhật Bản trong tổng kim ngạch
XNK của Việt Nam thời kỳ 1992 – 2003
(Đơn vị: triệu USD)
Năm
1992
1993
1994
1995

KNXNK Việt –


Tổng KNXNK

Nhật

của Việt Nam
1.321
1.708
1.994
2.637

16

5.112
6.909
9.880
13.604

Tỷ trọng(%)
25,79
24,72
20.18
19,38


1996
1997
1998
1999
2000

2001
2002
2003*

3.160
3.418
3.262
3.600
4.653
5.725
4.950
2.840

18.400
20.777
20.746
23.159
29.508
31.200
36.400
22.000

17,17
16,75
15,72
15,54
15,77
18,35
13,50
12,90


(Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JERTRO)

Ghi chú (*): Tính trong 6 tháng đầu năm
Tuy nhiên, đáng lưu ý là tỷ trọng KNXNK Việt – Nhật trong tổng
KNXNK của Việt Nam lại tăng giảm thất thường.
Tình trạng đó là do một số nhân tố chủ yếu sau gây nên:
* Tình trạng quan liêu giấy tờ, sự mập mờ trong các chính sách vẫn cịn
đè nặng mà nhà nước ta chưa có những biện pháp triệt để nhằm thúc đẩy sự phát
triển thương mại.
* Cho đến nay, nhiều nhà doanh nghiệp Việt Nam thiếu chủ động trong
việc thanh toán nợ thương mại cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong khi đó,
Chính phủ Việt Nam lại chưa có những chính sách, biện pháp để giải quyết cho
nhanh chóng, rõ ràng vấn đề này. Đây cũng là những đề bức bách mà các nhà
doanh nghiệp Nhật Bản đang mong chờ sự hỗ trợ giải quyết của Chính phủ Việt
Nam.
* Mặc dù, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có
một tiến trình phát triển khá lâu dài. Hai bên đã là bạn hàng tin cậy của nhau
trong nhiều năm qua. Nhưng cho đến nay phía Việt Nam vẫn chưa có các văn
phịng xúc tiến thương mại của Chính phủ, khiến cho hoạt động thương mại của
Việt Nam với Nhật Bản cũng bị hạn chế đi rất nhiều. Chính phủ Việt Nam vẫn
phó thác việc này cho các tham tán thương mại tại sứ quán của mình ở Nhật
Bản.
* Cơ sở vật chất của ngành ngoại thương Việt Nam còn quá nghèo nàn lạc
hậu. Chính vì vậy, đã khơng đủ để đáp ứng được những địi hỏi của hoạt động
bn bán quốc tế, nhất là các cơ sở hạ tầng như kho chứa hàng, các cảng cịn
chật hẹp, thiết bị bốc dỡ thơ sơ, ít được nâng cấp…không đảm bảo cho các
17



phương tiện vận tải hiện đại như tàu bè của các bạn hàng nước ngoài khi cập
bến, cảng…
* Sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia thương mại có năng lực, trình độ ngoại
ngữ, ngoại giao kinh tế và kinh nghiệm chun mơn trong khơng ít các cơng ty
xuất nhập khẩu của Việt Nam đã làm hạn chế nhiều tới kết quả của các cuộc
đàm phán, thương lượng để ký kết hoặc triển khai thực thi các hợp đồng thương
mại.
Để có thể hiểu rõ hơn về sự tăng giảm thất thường của việc xuất nhập
khẩu hàng hoá này, cũng như thực trạng quan hệ buôn bán Việt – Nhật, chúng ta
hãy đi xem xét hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua.
2.2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản từ đầu những năm 1990
đến nay, đã tăng nhanh và tương đối ổn định. Thực tế cho thấy, thị trường Nhật
Bản là một thị trường khó tính. Nhưng bước đầu đã có dấu hiệu cho thấy sự
chấp nhận hàng hoá Việt Nam của thị trường này. Tuy số lượng giá trị tuyệt đối
của (kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản) tăng lên liên tục năm 1992: 870 triệu
USD, năm 1997 là 2198 triệu USD tăng gấp 2,5 lần. Tuy nhiên, tỷ trọng của
xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng
giảm thất thường. Kim ngạch có xu hưởng giảm mạnh nhất là sau khi khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra. Từ chỗ chiếm 33.71 % năm 1992 đã tăng
lên 35,81 % năm 1993, sau đó lại xuống còn 23,93 % năm 1997, đến năm 2000,
còn 17,7% năm 2001 tăng lên 23,25 %, nhưng năm 2002 và năm 2003 lại tiếp
tục giảm xuống theo tỷ lệ tương ứng là: 15,03 % và 13,97 %.
Bảng 7: Tỷ trọng xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam, 1992 – 2003

(Đơn vị: triệu USD)
Năm
1992
1993


Kim ngạch xuất khẩu

Tổng KNXK của Việt

Tỷ trọng

Việt - Nhật

Nam

(%)

870
1.069

2.581
2.985

33,71
35,81

18


1994
1995
1996
1997
1998

1999
2000
2001
2002
2003*

1.350
1.716
2.020
2.198
1.792
1.920
2.532
2.510
2.440
1.370

4.054
5.449
7.256
9.185
9.356
11.523
14.308
15.100
16.700
9.800

33,30
31,49

27,84
23,93
19,16
16,66
17,70
23,25
15,03
13,97

(Nguồn số liệu thống kê của Bộ Thương mại Việt Nam).

Ghi chú (*): Tính 6 tháng đầu năm
Hiện tượng này, được lý giải một phần bởi chất lượng hàng tiêu dùng xuất
khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ đảm bảo đúng tiêu chuẩn về chất
lượng cũng như mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam, đơi khi cịn thiếu trung
thực trong kinh doanh. Ví dụ như: đã ký hợp đồng một số mặt hàng sang Nhật
Bản rồi nhưng lại đòi tăng giá mới chịu xuất hoặc tự ý huỷ bỏ hợp đồng hoặc lại
xuất sang các nước khác để thu được nhiều lợi hơn. Có thể nói rằng, khơng ít
doanh nghiệp Việt Nam ta không biết giữ chữ tín trong kinh doanh, không biết
giữ bạn hàng. Do vậy, số lượng hợp đồng xuất khẩu sang Nhật Bản cũng bị giảm
sút đáng kể.
 Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản.
Bảng 8 : Danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt sang Nhật giai đoạn
(1995 – 2000)

(Đơn vị : triệu USD)
Tên hàng

Dầu thô
Thuỷ Hải sản

Hàng Dệt may
Cà Phê
Cao Su
Gạo

1995
684,2
336,9
210,5
35,3
6,1
0,1

1996
757,7
311,1
309,5
23,3
3,7
0,2

1997
416,5
360,4
325,0
25,1
5,7
1,1

1998

294,0
347,1
320,9
37,9
2,6
3,6

1999
403
414
532
28,5
3,2
3,2

2000
503,3
488
691,5
20,9
5,6
2,5

(Nguồn Tổng cục Hải Quan)

Qua bảng trên, ta có thể thấy rằng trong các mặt hàng mà Việt Nam xuất
sang Nhật Bản chủ yếu là nguyên liệu, khoáng sản, hải sản; nguyên liêu thô
19



hoặc mới qua sơ chế và những mặt hàng có mức đội gia công chế biến thấp. Cụ
thể:
* Hàng dệt may đang xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản với kim ngạch
trung bình hàng năm là gần 400 triệu USD, có dấu hiệu gia tăng mạnh theo các
năm. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2003 đạt 1.745 triệu đô tăng 66,6 % so với
cùng kỳ năm 2002. Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam về mặt hàng này hiện còn
rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực.
* Hải sản của Việt nam được thị trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Tại
Nhật, hơn 80 % nhu cầu về Tơm phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Có thể nói đây
là nước có một nhu cầu tiêu thụ rất lớn về Hải sản. Việt Nam hiện là một trong
những nước xuất khẩu Tôm hàng đầu vào thị trường Nhật Bản. Kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản vào Nhật đạt mức 600 triệu USD/năm và mục tiêu tăng trưởng
mặt hàng này năm nay dự kiến tăng 720 triệu USD, chiếm 28 % tổng kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản của cả nước.
* Kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào thị trường Nhật
Bản còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu của ngành giày da Việt Nam.
Theo mạng tin Liên Hợp Quốc ngày 15 tháng 5 cho biết, Việt Nam hiện đang
đứng thứ 8 trong các nước sản xuất và đứng thứ tư trong số 10 nước xuất khẩu
da, giày lớn nhất thế giới. Đây là một bước nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh
vực này.
* Về Than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu mặt
hàng này vào Nhật Bản và luôn luôn chiếm hơn 40 % thị phần nhập khẩu của
Nhật.
* Hàng Cao Su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được nhiều vào
thị trường Nhật Bản, mặc dù mức thuế nhập khẩu của mặt hàng này là không
đáng kể. Nguyên nhân là do chủng loại Cao Su của Việt Nam chưa thích hợp với
thị trường Nhật Bản, chất lượng không đáp ứng được yêu cầu của họ.
Như vậy, những số liệu và phân tích trên cho thấy cơ cấu hàng xuất của ta
vẫn còn đơn giản, diện hàng xuất khẩu, nhất là hàng xuất khẩu chủ yếu còn khá
20



hạn hẹp, chưa có thay đổi nhiều so với những năm đầu thập kỷ 90. Mặc dù, nếu
xét riêng về việc phấn đấu giảm tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua cơng
đoạn chế tạo, chế biến thì ta cũng có nhiều tiến bộ
2.2.2.2 Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản
Nếu như, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam là khá cao (so với tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam). Thì hoạt động nhập khẩu từ Nhật Bản lại diễn ra với nhịp độ khác.
Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản còn khá nhỏ so với kim ngạch
xuất khẩu sang thị trường này, cho đến cuối năm 2003. mới ở mức tương đương
(kim ngạch xuất đạt 2.901.51 nghìn USD; kim ngạch nhập khẩu là 2.993.959
nghìn USD – nguồn: tổng cục Hải Quan)
Bảng 9: Tỷ trọng nhập khẩu từ Nhật trong tổng kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam từ (1992 – 2003).
(Đơn vị: triệu USD)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003


Kim ngạch Nhập khẩu

Tổng Kim ngạch nhập

Tỷ trọng

Việt – Nhật

khẩu của Việt Nam

(%)

451
639
644
921
1.140
1.283
1.470
1.680
1.121
2.218
2.510
1.470

2.541
3.924
5.826
8.155
11.144

11.592
11.390
11.636
15.200
16.000
19.700
12.200

17,75
16,28
11,05
11,29
10,23
11,07
12,91
14,44
13,96
13,86
12,74
12,05

(Nguồn Tổng cục Hải quan)

Trong số những thị trường nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Nhật Bản
đã và đang là thị trường tiêu thụ lớn nhất mà Việt Nam có được. (mười bạn hàng
thương mại lớn nhất của Việt Nam trong năm 2003 vẫn là Nhật Bản; Trung
Quốc; Australia; Singapore; Hoa Kỳ; Đài Loan; Đức; Anh; Pháp; Hàn Quốc.)

21



Mặc dù Nhật Bản ln chiếm vị trí dẫn đầu trong số những nước nhập
khẩu hàng Việt Nam, nhưng nhìn chung tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam lại cũng tăng giảm thất thường.
Bảng 10: Tình hình xuất siêu của Việt Nam sang Nhật giai đoạn
(1992 - 2001)
(Đơn vị : Triệu USD)
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
XK 870 1069 1350 1716 2020 2198 1792 1920 2532 3510 2440
NK 451 639 644 921 1140 1283 1470 1680 2121.3 2215 2510
419 430 706 795 880 915 322 240 410.7 1295 (-70)
XS
(Nguồn Tổng cục Hải quan)

Nhật Bản đứng đầu danh sách các nước xuất siêu lớn nhất thế giới, thăng
dư thương mại của Nhật với Châu Á lên tới 70.7 tỷ USD. Năm 1993, thặng dư
thương mại của Nhật với Thái Lan lên tới 7.66 tỷ USD, với Singapore 13.2 tỷ
USD. Các nước Châu Á khác gồm Hàn Quốc; Indonesia… đều nhập siêu từ
Nhật Bản. Tuy nhiên năm 2002 lần đầu tiên cán cân thương mại bị thâm hụt kể
từ nă 1999. Đối với nền kinh tế Việt Nam, cán cân thương mại nghiêng về xuất
khẩu là hiện tượng lành mạnh, vì nó tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể có thể
chuyển thành vốn giúp cho sự phát triển của các ngành cơng nghiệp chế tạo, nó
là cơ sở cho sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai.
* Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản.
Cũng theo cách xem xét như đối với hàng xuất khẩu chủ yếu, cơ cấu hàng
nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản sang nước ta như sau:
Bảng 11: Danh mục những mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ
Nhật Bản.
1996


1997

Trị
Tên hàng

Số lượng

Trị

(tấn)

99.503

1999

Trị

Trị

giá

Số

giá

Số

giá

Số


giá

triệu

lượng

triệu

lượng

triệu

lượng

triệu

USD
Sắt thép

1998

43,3

USD
109.337

22

50,4


USD
358.207

102,4

USD
-

-


Phân bón
Ơtơ (chiếc)
Xăng Dầu
(tấn)
Linh kiện ơ
tơ (bộ)

187.991
2.420

39,3
28,2

157.002
166

25,8
21,2


242.896
759

22,6
15,5

436

11,5

105.995

20,2

151.591

23,6

19.902

2,67

11.658

16,1

1.341

7,95


4.286

31,1

1.881

16,2

2.160

20,85

(Nguồn Tổng cục Hải quan)

Qua số liệu tổng hợp trên có thể thấy, các mặt hàng nhập từ Nhật là những
hàng hoá sử dụng ít nguyên liệu thô, song hàm lượng chất xám cao như sản
phẩm của các ngành công nghiệp nặng. Trong tổng số hàng nhập từ Nhật Bản
của Việt Nam, các mặt hàng công nghiệp chế tạo chiếm trên 88 %, nguyên liệu
khống sản gần 3 % và ngun liệu thơ là 1.5 %.
Tóm lại, trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản, sự
hỗ trợ và quan tâm tích cực của Chính phủ, các cơng ty thương mại, các ngân
hàng và qũy phát triển của Nhật Bản đã đẩy hiệu quả buôn bán kinh doanh với
Việt Nam, khiến mối quan hệ này mở ra những triển vọng lớn trong tương lai.
Tuy nhiên, vẫn còn một số khúc mắc và hạn chế sau:
Trước hết, về kim ngạch buôn bán giữa hai nước mặc dù đã tăng lên một
cách ổn định và tích cực nhưng quy mơ bn bán cịn nhỏ bé so với tiềm năng
kinh tế của hai nước.
Việt Nam thường xuất sang thị trường Nhật Bản những hàng hoá sử dụng
nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên như Giầy dép; hàng may mặc; Dầu thô;

Than đá; hàng thủ công và các loại nông sản khác… hàng thủ công cũng là một
thế mạnh độc quyền của ta mà không phải lo sợ cạnh tranh trực tiếp. Hàng thủ
công nhập khẩu vào Nhật được gia tăng
2.3 Đánh giá quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
Có thể nói, buôn bán song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng
phát triển và không ngừng tăng lên cả vể khối lượng và qui mô. Sự gia tăng này
đã đáp ứng được về cơ bản nhu cầu của cả hai phía. Tuy nhiên, trao đổi thương
mại giữa hai nước vẫn còn một số hạn chế sau đây:
23


Quy mơ bn bán cịn q nhỏ so với tiềm năng kinh tế của hai nước; kim
ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản trong tổng kim ngạch ngoại thương
của Nhật Bản là không đáng kể, khoảng chừng 0,7 – 0,9 % và chiếm khoảng
trung bình 15 % tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong các năm như
đã nói ở trên. Điều này cho thấy, trong quan hệ thương mại song phương Việt
Nam phụ thuộc đáng kể vào Nhật Bản, cịn Nhật Bản khơng phụ thuộc nhiều
vào Việt Nam.
Cơ cấu buôn bán giữa hai nước phản ánh giai đoạn phát triển hiện tại của
nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế tương đối về tài nguyên và lao động. Về
mặt thực tiễn, cán cân thương mại nghiêng về xuất khẩu là một hiện tượng lành
mạnh đối với nền kinh tế Việt Nam vì doanh thu ngoại tệ. … Người ta dự báo
rằng, với tiến trình Cơng nghiệp hố đang diễn ra ở Việt Nam thì trong thời gian
một vài năm tới (từ năm 2006 – 2010) Việt Nam sẽ nhập siêu từ Nhật. Mức nhập
siêu sẽ khơng phải là nhỏ nếu; Việt Nam khơng nhanh chóng thay đổi cơ cấu
hàng xuất khẩu của mình sang thị trường này.
Với thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản như hiện nay,
vấn đề đặt ra là Việt Nam phải giải quyết những tồn tại, và khắc phục các mặt
hạn chế để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương phát triển tương xứng vơí
tiềm năng của hai nước. Nói cách khác, Việt nam cần phải mở rộng và nâng cao

hiệu quả hoạt động thương mại song phương với Nhật Bản.

24


CHƯƠNG III

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM - NHẬT BẢN

Có thể nói, quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản nói chung
và quan hệ thương mại của hai nước nói riêng. Ta thấy chúng có nhiều thuận lợi,
nhưng bên cạnh đó cũng cịn tồn tại khơng ít những mặt khó khăn đã làm tác
động khơng nhỏ tời quan hệ của hai nước, kìm hãm sự phát triển của quan hệ
thương mại của hai nước trong tương lai.
3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam –
Nhật Bản
3.1.1 Những thuận lợi
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển tốt đẹp như hiện nay, đó là nhờ
sự cố gắng nỗ lực của cả hai nước. Xu thế hoà nhập, hợp tác của khu vực, thế
giới là điều kiện hết sức quan trọng để khởi động, thúc đẩy quan hệ ngày càng
tốt đẹp giữa hai nước; mang lại những lợi ích cho cả hai bên, thể hiện ở:
Thứ nhất, Những thuận lợi bắt nguồn từ bối cảnh khu vực và quốc tế
được bắt đầu từ những năm 1990, sẽ tiếp tục tác động tích cực đến quan hệ kinh
tế hai nước Việt Nam – Nhật Bản trong những năm tới.
25


×