Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật việt nam từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân thành phố kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.91 KB, 43 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay, nguồn nhân lực có chất
lượng đóng vai trò chủ đạo trong việc đưa đất nước phát triển. Vì vậy, vấn đề đạo tạo đội
ngũ tri thức trẻ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Bên cạnh sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước thì thế hệ trẻ cũng khơng ngừng học tập, rèn luyện và tu dưỡng
bản thân để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Đối với xã hội nói chung và Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum nói riêng thì việc
cập nhật các quy định pháp luật cũng như nâng cao các kỹ năng nghiệp vụ có ý nghĩa rất
quan trọng. Trong q trình thực tập tại Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum, em đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía cán bộ của cơ quan, đã được tạo điều kiện để có thể
tham gia vào các hoạt động trong cơ quan. Từ đó, có thể nâng cao kiến thức cho bản thân
cũng như rút ra các kinh nghiệm để có thể hiểu hơn về các vấn đề lý luận chuyên ngành.
Sau khi kết thúc kỳ thực tập tại cơ quan, em nhận thấy rằng lượng án ly hơn được thụ
lý tại Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum là rất lớn. Trong đó, các vụ án ly hơn có tranh
chấp tài sản chung cũng rất được chú ý. Do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết tranh
chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum” để làm đề tài báo cáo tốt nghiệp.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN
XÉTCỦA
CỦAĐƠN
GIẢNG
VIÊNTẬP
HƯỚNG DẪN
NHẬT XÉT
VỊ THỰC



2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ gốc
Tòa án nhân dân
TAND
Hơn nhân và gia đình
HN&GĐ
Bộ luật Dân sự
BLDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTDS
Kinh doanh thương mại
KDTM
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
Quyền sử dụng đất
QSDĐ
r

rri A


STT
Bảng 2.1

Bảng 2.2.


Sơ đồ 1.1

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên danh mục bảng
Công tác thụ lý, giải quyết các vụ việc Hôn nhân và gia đình
tại Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum qua các năm 2016 2020.
Tỷ lệ hòa giải thành/ tỷ lệ giải quyết các vụ án tranh chấp tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân
thành phố Kon Tum qua các năm 2016 - 2020.
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ
Sơ đồ tổ chức Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum

Trang
23

25

Trang
5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn3- Đây là cơ sở của một gia
đình. Có quan điểm cho rằng: “Gia đình là nền tảng của xã hội”. Gia đình có vai trị rất
lớn trong việc hình thành và phát triển xã hội. Tuy nhiên, đời sống hôn nhân của vợ chồng
vô cùng phong phú và đa dạng, ở đó khơng những chỉ phát sinh quan hệ nhân thân mà còn
tồn tại quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Vì vậy, nhà làm luật đã xây dựng những quy định về

tài sản của vợ chồng là một trong những chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật
hơn nhân và gia đình (HN&GĐ).
Dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, tính chất mối quan hệ tài sản
giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Do đó, các nhà làm luật đặc
biệt quan tâm và xây dựng pháp luật về vấn đề này một cách cụ thể nhất, nhằm đảm bảo
đời sống chung của gia đình và lợi ích thiết thực của mỗi thành viên. Tuy nhiên, quan hệ
sở hữu đối với tài sản của vợ chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân, tồn tại trong
thời kỳ hơn nhân, khơng có tính đền bù ngang giá, khó xác định cơng sức cụ thể của các
bên, nên khi xảy ra tranh chấp thì việc phân chia tài sản của vợ chồng là vấn đề rất khó
khăn, phức tạp.
Những năm gần đây, cùng với xu thế phát triển của xã hội thì tình trạng ly hơn ngày
một gia tăng. Vấn đề được các bên quan tâm và thường xuyên xảy ra tranh chấp khi ly hôn
là giải quyết quyền lợi tài sản của vợ chồng. Đặc biệt, các vụ án ly hơn có tranh chấp tài
sản hiện này thường có giá trị tài sản tranh chấp ngày càng lớn. Chẳng hạn như gần đây,
nhận được sự quan tâm nhiều nhất phải kể đến là vụ án ly hôn “ngàn tỷ” của vợ chồng
“Vua cà phê” Trung Nguyên. Bên cạnh đó, cũng cịn rất nhiều vụ án ly hơn khác mà giá trị
tài sản tranh chấp rất lớn. Đây là một trong những vấn đề nhức nhối thu hút được nhiều sự
quan tâm trong cả nước hiện nay.
Với vị trí nằm ở địa hình lịng chảo phía nam tỉnh Kon Tum - Một tỉnh thuộc khu vực
Tây Nguyên, nơi có nhiều dân tộc cùng sinh sống, nên những tranh chấp về tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum vừa thể hiện đặc trưng
của tranh chấp tài sản, bên cạnh đó cũng có những đặc thù riêng. Do đó, việc nghiên cứu
quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng cũng như thực tiễn áp dụng để
giải quyết các tranh chấp chia tài sản khi ly hơn tại Tịa án là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa. Với những lý do trên, nên em đã lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân thành phố Kon Tum” làm đề tài báo cáo tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng như nội dung, ý
nghĩa các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết các tranh chấp về tài sản khi ly

hôn, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản khi ly
hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum. Từ đó, chỉ ra những vấn đề cịn bất cập
3Theo khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
5


trong các quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc trong cơng tác xét xử của
Tịa án. Đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
trong việc giải quyết các tranh chấp tài sản khi ly hôn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chế độ pháp lý về tài sản chung của vợ chồng là đề tài có phạm vi rộng nên trong
khuôn khổ của báo cáo, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về trình tự, thủ tục, căn cứ pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn và
thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Báo cáo chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định hiện hành
liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn. Đồng thời, nghiên cứu việc áp
dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn xét
xử tại Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum trong năm 5 từ năm 2016-2020.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu, báo cáo chỉ nghiên cứu giải quyết các tranh chấp về tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn, cịn những tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân, tranh chấp tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hơn có yếu tố
nước ngồi khơng thuộc phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp, thống kê, mơ hình hóa và nghiên cứu những vụ việc Tòa án đã giải quyết các tranh
chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum,
các bài viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
5. Bố cục

Bài viết được chia làm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về việc giải quyết tranh chấp chia tài sản trong
các vụ án ly hôn theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại tịa án nhân dân thành phố Kon Tum.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp về tài sản chung khi ly hôn.

CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
1.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON
TUM
1.1.1. Khái quát về tòa án nhân dân thành phố kon tum
a. Giới thiệu tổng quan
Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum có trụ sở tại số 44 Bà Triệu, phường Thắng
Lợi, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

6


Về cơ cấu tổ chức: TAND thành phố Kon Tum hiện có 20 biên chế và 04 Hợp đồng
theo Nghị định 68. Trong đó: 09 Thẩm phán (trung cấp 03, sơ cấp 06), 10 Thư ký, 01 Kế
toán và 04 Hợp đồng, gồm: 01 lái xe, 01 bảo vệ, 02 tạp vụ.
Về lãnh đạo cơ quan, có 01 Chánh án và 02 Phó Chánh án. Văn phịng có 01 Chánh
Văn Phịng và 01 Phó Chánh Văn phịng.
Về chất lượng đội ngũ cán bộ, có 22 đồng chí trình độ Đại học, 01 đồng chí trình độ
Thạc sỹ (02 đồng chí đang học Thạc sỹ), 02 đồng chí cao cấp lý luận chính trị; sử dụng
thành thạo máy vi tính.
Về tổ chức đồn thể trong cơ quan: Đơn vị có Chi bộ Đảng trong sạch, vững mạnh,
với 16 Đảng viên; có tổ chức Cơng đồn, với 24 đồn viên. Bên cách đó, Đồn thanh niên

có 10 đồn viên.
Về cơ sở vật chất: Trụ sở TAND thành phố Kon Tum được đầu tư xây dựng năm
2007, có đủ phịng làm việc, có đầy đủ trang thiết bị phục vụ công tác. Năm 2019, 2020,
trụ sở tiến hành sửa chữa, đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cơng tác.
b. Lịch sử hình thành và phát triển
Trải qua những thăng trầm lịch sử, có thể nói q trình hình thành và phát triển của
hệ thống Tịa án Việt Nam nói chung và Tịa án nhân dân thành phố Kon Tum nói riêng
gắn liền với lịch sử xây dựng, củng cố và và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong đó có các
cơ quan tư pháp.
Tỉnh Kon Tum là tỉnh nằm ở vùng cao khu vực Bắc Tây Ngun, có diện tích tự
nhiên theo Quyết định của Quốc hội khóa VIII là 13.000km 4, là nơi hội tụ của nhiều thành
phần dân tộc2. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII tại Kỳ họp thứ 9, Tòa án nhân dân
tỉnh Kon Tum được thành lập vào tháng 8/1991, sau một thời gian sáp nhập chung cùng
Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum rồi được chia tách thành hai
tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Với việc tái lập tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum được thành
lập và đi vào hoạt động từ tháng 10/1991. Hiện nay, Tòa án nhân dân hai cấp ở tỉnh Kon
Tum gồm có Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum và 10 Tòa án nhân dân cấp huyện, với tổng
số biên chế là 121/138 người (trong đó có 48 Thẩm phán trung cấp và sơ cấp) .
Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, ngành TAND thành phố Kon Tum đã đạt được những kết
quả tích cực. Trong cơng tác cải cách thủ tục hành chính, TAND thành phố Kon Tum đã
luôn chú trọng thực hiện, công khai, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Trong cơng tác xét
xử, Tịa án cũng đã đẩy mạnh thực hiện tranh tụng, lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm
căn cứ ra phán quyết. Trong xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, Tịa án cũng đã tiếp nhận
các cơng nghệ hiện đại như hệ thống mạng nôi bộ, hệ thống camera, ghi âm phiên tịa. Bên
cạnh đó, trụ sở TAND thành phố Kon Tum cũng được đầu tư xây mới, sửa chữa.
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của tòa án nhân dân thành phố kon tum
a. Chức năng
4 Sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum, tập I (1930-1975, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Sự thật, tháng 11/2019),
Tr.25 - 31.

7


Nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân, TAND thành phố Kon Tum là cơ quan có
quyền lực ở cấp địa phương, cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.
TAND thành phố Kon Tum có chức năng xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn
nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại (KDTM), hành chính và giải quyết
những vụ việc khác theo quy định của pháp luật, trên địa bàn thành phố Kon Tum.
b. Nhiệm vụ
TAND thành phố Kon Tum được tổ chức và hoạt động theo cơ chế tập quyền, theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Có sự phân cơng của cơ quan lập pháp.
Trong phạm vi chức năng của mình, thì TAND thành phố Kon Tum có nhiệm vụ bảo
vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố
Kon tum.
1.1.3. Sơ đồ tổ chức tòa án nhân dân thành phố kon tum
Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum có cơ cấu tổ chức bao gồm: 01 đồng chí Chánh
án, 02 đồng chí Phó Chánh án, 01 Chánh Văn phịng, 01 Phó Chánh Văn phòng, 09 Thẩm
phán (trung cấp 03, sơ cấp 06), 10 Thư ký, 01 Kế toán, 01 lái xe, 01 bảo vệ và 02 tạp vụ.
Cơ cấu tổ chức này được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:

3

Bài viết “Hệ thống Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, chặng đường phát triển và đổi mới” trên trang thông tin
điện tử của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, đăng ngày 11/9/2020 của tác giả Hà Vũ.

8



Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tổ chức Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum.
1.2. NỘI DUNG CÔNG VIỆC THỰC TẬP TẠI CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ KON TUM
1.2.1. Các nội dung thực hiện trong quá trình thực tập
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Như vậy, TAND thành phố Kon Tum là một bộ phận của hệ thống
TAND, được thành lập để nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện
chức năng xét xử. Từ đó có thể thấy được những nhiệm vụ, chức năng của TAND thành
phố Kon Tum và các hoạt động của cơ quan này.
Trong quá trình thực tập tại phòng số 11 - Phòng Thư ký Tòa án của Tòa án nhân dân
thành phố Kon Tum, em đã được tiếp xúc và thực hiện các công việc cụ thể như sau:
Đầu tiên, về việc lưu hồ sơ. Đây là một công việc mà mỗi thư ký đều phải làm sau
khi kết thúc một vụ án. Việc lưu hồ sơ sẽ đảm bảo các thủ tục được thực hiện đầy đủ,
chính xác và thư ký có thể phát hiện ra các lỗi (nếu có) để kịp thời sửa chữa.
Thứ hai, đi xác minh, thẩm định, định giá và niêm yết. Đây là một thủ tục thường
thấy đối với các tranh chấp mà đối tượng tranh chấp là tài sản, QSDĐ. Việc xác minh,
thẩm định, định giá sẽ giúp cho quá trình giải quyết các vụ án được thuận lợi và đưa ra
được kết quả chính xác nhất.
Thứ ba, thực hiện thủ tục tống đạt, niêm yết. Đối với công việc này, thường phải thực
hiện trong trường hợp đương sự được triệu tập nhưng không đến. Khi đi niêm yết, tống đạt
sẽ có thể giao cho các đương sự này các giấy tờ liên quan để họ có thể nắm bắt được tình
hình cụ thể.
Thứ tư, viết - đánh máy các loại văn bản như: Bản án, Quyết định công nhận, Quyết
định đình chỉ, Thơng báo hịa giải, Thơng báo nộp tiền, Biên bản niêm yết, Quyết định
xem xét, thẩm định, Công văn,...
9


Thứ năm, photo, đóng dấu các loại giấy tờ, đóng dấu bút lục. Đây là công việc

thường xuyên diễn ra. Bởi vì chỉ khi được đóng dấu thì loại văn bản đó mới chính thức có
hiệu lực pháp lý.
Tóm lại, trên đây là tồn bộ các cơng việc em được tiếp xúc và thực hiện trong quá
trình thực.
1.2.2. Quá trình thực hiện công việc được giao
Với lượng công việc tương đối lớn, được chia thành nhiều giai đoạn thì quá trình
thực hiện cơng việc khi thực tập tại TAND thành phố Kon Tum cũng được tiến hành theo
từng giai đoạn cụ thể với từng công việc cụ thể. Mặc dù, lúc đầu khi tiếp xúc với các cơng
việc cịn bỡ ngỡ, nên gây ra một số sai xót nhỏ khi thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian
được tiếp xúc với các công việc nhiều hơn nên bản thân em đã rút ra cho mình những kinh
nghiệm nhất định. Từ đó, khi thực hiện các cơng việc được giao đã trở nên sn sẻ hơn,
chính xác hơn và nâng cao hiệu quả làm việc hơn.

KẾT CHƯƠNG 1
Sau kỳ thực tập này em đã có thể hiểu hơn về lịch sử hình thành của TAND thành
phố Kon Tum cũng như lịch sử hình thành tỉnh Kon Tum. Đồng thời cịn nắm bắt được cơ
cấu
chức
của

quan

TAND
thành
phố
Kon
Tum.
Bêntổ
cạnh
đó,

qua
q
trình
thực
tập
tại
Tịa
án
nhân
dân
thành
phố
Kon

quan,
Tum,
em
đã
được
đã
nhận
tạo
được
điều
sự
kiện
giúp
để
đỡ


nhiệt
thể
tham
tình
gia
từ
phía
vào
các
cán
hoạt
bộ
của
động

thể
trong
nắm

được
quan.
quy
Từ
trình
việc
thực
tiếp
hiện
xúc
các

cụ thủ
thể
các
tục
cơng
giải
việc
quyết
em
các
đã
loại
Em
cịn
áncó
tại
thể
TAND
nắm
nói
bắt
chung
được
các

TAND
kiến
thành
thức
chun

phố
Kon
ngành
Tum
nói

hiểu
riêng.
được
các
vấn
đề

trước
đó
bản
thân
cịn
chưa
nắm
rõ.

10


CHƯƠNG 2.
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
KHI LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN

CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1.1.
Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trong quá trình tồn tại và phát triển, ngồi tình cảm thì tài sản là vấn đề trung tâm, cốt
lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Có quan điểm cho
rằng, gia đình tồn tại và phát triển cần phải có các điều kiện vật chất - cơ sở kinh tế để đảm
bảo những nhu cầu thiết yếu của gia đình. Do đó, đối với các cặp vợ chồng thì tài sản chung
của vợ chồng được xem là điều kiện để duy trì quan hệ hơn nhân.
Khái niệm tài sản đã được đề cập rất nhiều trong thực tiễn cũng như trong khoa học
pháp lý. Từ điển bách khoa Việt Nam đã định nghĩa: “Tài sản là thuật ngữ kế tốn kinh
doanh chỉ tất cả những gì có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cá nhân, một đơn vị hoặc
cả nhà nước”5. Tài sản trên thực tế tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, vô cùng phong phú
và đa dạng. Bên cạnh đó, ở góc nhìn của khoa học pháp lý thì “tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”6. Khái niệm về tài sản quy định tại Điều 105 được trình
bày theo phương pháp liệt kê, xác định những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài
sản.
Ở một khía cạnh khác liên quan đến tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Đây là
một trong những nội dung quan trọng của Luật HN&GĐ. Sau khi kết hôn, tài sản chung của
vợ chồng sẽ được hình thành. Bởi vì, nó xuất phát từ quan hệ hôn nhân, nên sự tồn tại của
tài sản chung phụ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và nó chấm dứt khi vợ hoặc
chồng chết hoặc có bản án, quyết định của Tịa án về ly hơn, chia tài sản chung. Theo Luật
HN&GĐ năm 2014 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hơn nhân”7. Đây là nhóm tài sản chủ yếu của vợ
chồng. Duy trì, phát triển tài sản chung, chăm lo đời sống chung trong gia đình phần lớn
đều dựa vào loại tài sản này. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ
năm 2014 thì: “Quyền sử dụng đất của vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng hoặc có được
thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng”. Có thể hiểu, nếu quyền sử dụng đất của vợ hoặc
chồng có được sau khi kết hơn bằng hình thức nhận thừa kế riêng, tặng cho riêng hoặc có

được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng thì nó được xem là tài sản riêng của vợ hoặc
chồng.

5Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, từ điển Bách khoa Việt Nam - Tập 4, năm 1995, Tr.32.
6Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015.
7Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.


Việt Nam có câu thành ngữ “của chồng cơng vợ” nên tài sản chung của vợ chồng
không nhất thiết do hai vợ chồng trực tiếp tạo ra. Bên cạnh đó, do sức khỏe, năng lực, trình
độ vợ chồng có thể tạo lập khối tài sản chung không ngang bằng nhau. Xuất phát từ tính
chất của quan hệ hơn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung cơng sức trong việc tạo lập,
chăm lo đời sống gia đình nên pháp luật khơng căn cứ vào cơng sức đóng góp của mỗi
người. Điều này thể hiện việc pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với
khối tài sản chung đó.
Có quan điểm cho rằng: “Chúng ta khơng thể xác định được phần tài sản nào là của
vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất chỉ khi nào có sự phân
chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong
khối tài sản chung đó”. Vợ chồng có thể phân chia tài sản bằng cách thỏa thuận phân chia
hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết về việc chia tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, phần tài
sản của vợ chồng trong khối tài sản chung được xác định khi hai bên thỏa thuận thành cơng
hoặc có quyết định phân chia của Tịa án. Ngồi ra, theo Luật HN&GĐ thì: “Vợ chồng có
quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”8.
Từ những phân tích trên, có thể thấy có nhiều khái niệm về tài sản chung của vợ
chồng. Tuy nhiên, khái niệm về tài sản chung của vợ chồng quy định trong Luật HN&GĐ
năm 2014 là đầy đủ, rõ ràng nhất: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ chồng
tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; trừ trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.

2.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn
Hôn nhân là một khái niệm chứa đựng hai phạm trù mang tính đối lập là kết hơn và ly
hơn. Chỉ có thể giải nghĩa đầy đủ khái niệm ly hơn khi xem xét nó trong mối quan hệ với
mặt đối lập là kết hôn. Nếu như kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng sau khi đăng ký
kết hơn, thì ly hơn chính là sự chấm dứt mối liên kết đó của vợ chồng. Đây là biện pháp mà
luật cho phép thực hiện trong trường hợp đời sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng
hoảng và khơng thể khắc phục được. Như đã phân tích ở trên, cùng với sự chấm dứt về
quan hệ hơn nhân thì chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng chấm dứt từ thời điểm ly hơn.
Ly hơn là do có mâu thuẫn về tình cảm nên vợ chồng khó tìm được tiếng nói chung, từ đó
dễ xảy ra tranh chấp về tài sản chung.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “tranh chấp được hiểu là sự tranh giành nhau một cách
giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”9. Từ định nghĩa trên, có thể nhận thấy, khi vợ
chồng ly hơn sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng khơng phân chia được khối tài sản chung dẫn đến
có tranh chấp xảy ra. Thơng thường, vì để tránh phải nộp tiền án phí cho việc Tòa án giải
quyết chia tài sản chung khi ly hôn, các cặp vợ chồng hầu như đều không đưa ra yêu cầu về
chia tài sản trong đơn xin ly hơn. Tuy nhiên, sau khi được Tịa án giải quyết cho ly hơn thì
8Theo khoản 1 Điều 29 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
9Hồng Phê, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 2003, Tr.1024.


hai bên lại không thỏa thuận được với nhau về việc phân chia tài sản chung. Như vậy, có thể
thấy việc tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng có thể diễn ra vào hai thời điểm là:
Cùng lúc với việc vợ, chồng xin ly hơn hoặc có thể diễn ra khi vợ chồng đã ly hôn. Việc vợ,
chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều được coi là
tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn.
Có thể giải thích việc phân chia khối tài sản chung là việc phân, tách khối tài sản này
thành từng phần (tính theo hiện vật hoặc giá trị) để vợ, chồng có quyền sở hữu riêng. Như
vậy, chia tài sản chung của vợ chồng là phân chia TS chung của vợ chồng thành từng phần
thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc của chồng.

Tóm lại, giải quyết tranh chấp về chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là tổng hợp các
hành vi tố tụng của Tòa án, đương sự và các chủ thể khác theo trình tự, thủ tục do luật định,
được tính từ giai đoạn đương sự nộp đơn khởi kiện, Tòa án tiếp nhận và thụ lý đơn khởi
kiện của đương sự cho đến các bước tố tụng khác như hòa giải, thu thập, đánh giá chứng cứ
và đưa ra phán quyết dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về tài sản chung của vợ
chồng và các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hơn nhằm đảm bảo sự cơng bằng, hợp
tình, hợp lý cho vợ, chồng khi họ không thỏa thuận được việc phân chia tài sản chung.
2.1.3.
Đặc điểm và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn
Bản chất việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn là một hình
thức phân chia tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng của vợ, tài sản riêng của
chồng gắn với sự kiện ly hôn. Do đặc thù của quan hệ hơn nhân và gia đình nên việc giải
quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn có những đặc thù riêng, đó là:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn được thực
hiện bởi Tịa án - là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được tiến hành theo
trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ. TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, nhân danh Nhà
nước giải quyết các tranh chấp HN&GĐ nói chung và tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng nói riêng. Khi giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn,
Thẩm phán giải quyết phải là người có trình độ am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm, có cái
nhìn thấu đáo, sâu sắc. Đồng thời, khi giải quyết tranh chấp này Thẩm phán cần căn cứ và
xác định rõ tình trạng tài sản chung, cơng sức đóng góp cũng như hoàn cảnh của các bên để
giải quyết sao cho đảm bảo được lợi ích của cả hai bên.
Thứ hai, các phán quyết của Tòa án về vụ án tranh chấp HN&GĐ nói chung và tranh
chấp tài sản chung vợ chồng nói riêng được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng
chế nhà nước thông qua cơ quan thi hành án. Mục đích của đương sự khi khởi kiện là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán quyết
của Tòa án bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước là một trong những ưu điểm trong cơ chế
thi hành phán quyết của các cơ quan tài phán.
Như vậy, việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn là

cơng việc có ý nghĩa quan trọng vừa đảm bảo pháp luật được thi hành, tăng cường pháp chế
trong lĩnh vực HN&GĐ, vừa hạn chế được những mâu thuẫn, bất đồng giữa những người đã
từng có quan hệ hôn nhân.


2.1.4.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Giải quyết vấn đề tài sản của vợ chồng khi ly hôn phụ thuộc vào chế độ tài sản mà
vợ chồng lựa chọn. Trong trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì
việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo nội dung mà vợ chồng đã thỏa thuận.
Trường hợp vợ chồng thỏa thuận không đầy đủ hoặc không rõ ràng thì Tịa án áp dụng quy
định tương ứng như chế độ tài sản theo quy định của pháp luật để giải quyết. Khi giải quyết
tranh chấp tài sản khi ly hôn cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
a. Tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng
Nguyên tắc đầu tiên trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn chính là sự thỏa
thuận. Điều này được thể hiện trong Luật HN&GĐ: “Trong trường hợp chế độ tài sản của
vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; Trong trường hợp
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp
dụng theo thỏa thuận đó”10. Thỏa thuận có nghĩa là đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo
luận. Nguyên tắc này được thể hiện qua việc vợ chồng có quyền tự định đoạt. Quan hệ pháp
luật dân sự nói chung và quan hệ HN&GĐ nói riêng đều tơn trọng quyền tự định đoạt của
các chủ thể hay nói cách khác là tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng đối với tài sản chung
khi ly hôn.
Đây là nguyên tắc thể hiện quyền tự do cam kết thỏa thuận của công dân, tơn trọng ý
chí tự nguyện, tự quyết định của bên vợ, bên chồng trên cơ sở thỏa thuận không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tất nhiên, cần phải hiểu rằng sự thỏa
thuận này còn phải phù hợp với quy định của pháp luật về HN&GĐ. Việc thỏa thuận thành
công sẽ giảm thời gian, công sức, tiền bạc của các đương sự, đồng thời tăng tình đồn kết,
thống nhất, khơng kht sâu vào mâu thuẫn, tạo điều kiện cho việc thi hành án được dễ
dàng. Hơn nữa, việc bảo đảm cho vợ chồng thỏa thuận giải quyết về tài sản bảo đảm quyền

lợi hợp pháp của mỗi bên khi giải quyết tranh chấp. Nếu các bên khơng thỏa thuận được thì
Tịa án sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.
b. Bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Trên cơ sở ngun tắc bình đẳng của cơng dân được BLDS 201511 thừa nhận, vợ,
chồng có quyền bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong việc hưởng các quyền dân sự
nói chung và quyền sở hữu tài sản nói riêng. Trên cơ sở đó, trong trường hợp khơng có thỏa
thuận hoặc không thỏa thuận được việc phân chia tài sản khi ly hơn, thì giải quyết tranh
chấp về tài sản của vợ chồng được thực hiện theo nguyên tắc chia đôi. Tuy nhiên, nguyên
tắc này không phải là bất biến mà được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp với thực tế,
theo đó căn cứ vào hồn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, cơng sức đóng góp, của mỗi
bên trong việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung12. Từ đó, giải quyết chia tài sản
chung của vợ chồng một cách hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của các bên.
10
Theo khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
11
Theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.
12 Theo khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số ' 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hơn nhân và
Gia đình năm 2014.


c. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên
Đây là nguyên tắc thứ ba cần được đảm bảo để giải quyết tranh chấp tài sản khi ly
hôn. Nguyên tắc này được quy định nhằm ngăn chặn những hành vi coi rẻ người phụ nữ và
con cái. Trên thực tế, người phụ nữ, các con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng
khơng có khả năng lao động là những đối tượng dễ bị xâm hại, dễ bị tổn thương nên pháp
luật đặc biệt quan tâm, bảo vệ. Trong khi đó, người đàn ơng là người có sức khỏe, có nhiều
cơ hội học tập, nâng cao chun mơn họ thường là lao động chính tạo ra thu nhập của gia
đình. Mặc dù, giữa vợ và chồng cơng sức tạo ra thu nhập có thể khơng bằng nhau, nhưng

mỗi người đều có những đóng góp chung để gia đình tồn tại, phát triển. Vì vậy, pháp luật
thừa nhận mọi tài sản của vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ
chồng.
Khi giải quyết ly hôn, người con chưa thành niên, bị mất năng lực dân sự, bị tàn tật,
không có khả năng lao động để tự ni mình sẽ được giao cho cha hoặc mẹ có trách nhiệm
trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Người vợ hoặc chồng không sống cùng người con đó phải
có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 201413. Để đảm bảo chất
lượng cuộc sống cho con chưa thành niên, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có
khả năng lao động để tự ni mình thì việc giải quyết về tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ
được xem xét tạo điều kiện về chỗ ở, kinh tế cũng như các điều kiện học tập, chữa bệnh,
phục hồi chức năng của người vợ và các con. Nguyên tắc này đảm bảo được quyền lợi của
người vợ sau khi ly hôn và các con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn
tật có điều kiện sống tốt hơn, hạn chế, giảm thiểu khả năng lâm vào hồn cảnh khó khăn,
thiếu thốn vật chấp sau khi vợ chồng ly hôn.
d. Chia tài sản bằng hiện vật hoặc giá trị
Trong đời sống vợ chồng, tài sản chung được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân rất đa dạng
và phong phú, có thể là các động sản và bất động sản, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản. Vì vậy, khi phân chia tài sản chung của vợ chồng là các vật (bao gồm động sản và bất
động sản) cho mỗi bên, pháp luật cho phép Tịa án có quyền phân chia bằng hiện vật hoặc
theo giá trị tùy vào yêu cầu của các bên cũng như các điều kiện thực tế khác.
Như vậy, nếu tài sản chung của vợ chồng là các động sản hoặc bất động sản có thể
chia bằng hiện vật thì Tịa án căn cứ khoản 3 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 để chia theo
giá trị hoặc giao hiện vật. Giá trị tài sản có thể do các bên đương sự thỏa thuận hoặc yêu cầu
Tòa án thành lập Hội đồng định giá để định giá. Các tài sản có thể chia bằng hiện vật cho
mỗi bên thì Tịa án căn cứ vào hiện trạng để chia, trường hợp tài sản khơng thể phân chia
được thì giao cho một bên sở hữu, bên còn lại được nhận theo giá trị.
Tóm lại, các nguyên tắc chia tài sản khi ly hơn là những tư tưởng chỉ đạo mang tính
định hướng mà khi giải quyết tranh chấp Tòa án phải tuân thủ. Viêc giải quyết tranh chấp về
tài sản của vợ chồng khi ly hôn trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu khơng thỏa thuận được
thì giải quyết theo ngun tắc chia đơi, nhưng có xem xét đến hồn cảnh của mỗi bên, tình

trạng tài sản, cơng sức đóng góp cũng như các điều kiện khác nhằm đảm bảo tính cơng
bằng, quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng, con và người thứ ba có liên quan đến tài sản
13

Theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


chung của vợ chồng. Quy định này tạo điều kiện cho Thẩm phán chủ động trong việc giải
quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của mỗi
bên đương sự.
2.2. CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HƠN
Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp 2013 thì: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân
gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật đinh. Tịa án nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Do
vậy, khi vợ chồng tranh chấp về tài sản chung thì họ có quyền thỏa thuận với nhau về việc
phân chia tài sản, nếu không thỏa thuận được họ có quyền u cầu Tịa án giải quyết chia tài
sản chung, việc yêu cầu này có thể đồng thời cùng với việc giải quyết ly hôn hoặc sau khi
họ đã ly hôn. Để giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn, Tịa
án cần thực hiện đúng các quy định của pháp về tố tụng và các quy định về pháp luật nội
dung.
2.2.1.
Pháp luật về nội dung
Có thể hiểu pháp luật nội dung là quy định về căn cứ, cơ sở pháp luật để Tòa án giải
quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Kế thừa quy định về quyền sở hữu tài sản của công dân tại Điều 58 Hiến pháp năm
1992, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh

nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”14. Quy định này đã thể hiện rằng Nhà nước ta
công nhận tất cả các cơng dân trong xã hội đều có quyền sở hữu các tài sản do họ tạo ra một
cách hợp pháp. Điều này, tương đương với việc vợ chồng đương nhiên có quyền sở hữu tài
sản hợp pháp của họ.
BLDS năm 2015 quy định về tài sản chung của vợ chồng dựa trên cơ sở là quy định
của Hiến pháp như sau: “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân
chia. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy
quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng
có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án. Trường hợp vợ chồng
lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật về HN&GĐ thì
tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”15.
Như vậy, từ các quy định của Hiến pháp năm 2013 và BLDS năm 2015 về tài sản
chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2014 đã được sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hóa
các quy định này. Đây là ngành luật chuyên ngành điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ
tài sản chung của vợ chồng.

14
15

Theo khoản 1 Điều 32 Hiến pháp năm 2013.
Theo Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015.


Trải qua một hành trình dài, Luật HN&GĐ đã từng bước hồn thiện về sự phù hợp và
tính khả thi trong thực tế. Kế thừa Hiến pháp năm 1946, Luật HN&GĐ năm 1959 được ban
hành. Sau đó, lần lượt các Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 được ban
hành nhằm khắc phục những nhược điểm và hạn chế của các văn bản pháp luật trước. Trong
giai đoạn Luật HN&GĐ năm 1959 có hiệu lực, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận chế độ tài
sản của vợ chồng theo pháp định, quy định về hơn ước hồn tồn khơng còn tồn tại trong

pháp luật Việt Nam. Luật HN&GĐ năm 1959 quy định về tài sản chung của vợ chồng: “Vợ
và chồng đều có quyền sỡ hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước
và sau khi cưới”16. Tương tự như quy định này, Luật HN&GĐ năm 1986 cũng quy định về
việc vợ chồng không được thỏa thuận bất cứ vấn đề gì về sở hữu tài sản trừ vấn đề nhập tài
sản riêng có trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân thành tài sản chung. Nhìn chung, các quy
định của Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 về tài sản chung của vợ
chồng cịn thiếu tính rõ ràng và hợp lý, chưa bao trùm các căn cứ xác lập tài sản chung của
vợ chồng, trong đó chưa quy định được căn cứ xác lập tài sản chung mà chủ yếu dựa vào
thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên, cho đến 14 năm sau để phù hợp với tình hình phát triển của xã hội, Luật
HN&GĐ năm 2000 đã được ban hành. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các đạo luật trước,
Luật HN&GĐ năm 2000 đã có những quy định hợp lý hơn về căn cứ xác lập tài sản chung
của vợ chồng, trong đó có đưa ra căn cứ xác lập tài sản chung dựa vào thời kỳ hôn nhân và
nguyên tắc suy đốn “Nếu khơng chứng minh được tài sản riêng thì là tài sản chung”17.
Quy định về nguyên tắc suy đốn có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh
chấp giữa vợ chồng về nguồn gốc tài sản, góp phần bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng, người
yếu thế trong gia đình, những người sống phụ thuộc khơng có thu nhập hoặc những người
chỉ làm cơng việc gia đình. Việc như đứng tên trên giấy tờ sở hữu, giao dịch mua bán, xác
lập quyền sở hữu...đều do chồng hoặc vợ làm nên khi ly hôn họ không chứng minh được
quyền sở hữu tài sản chung.
Theo thời gian và sự phát triển không ngừng của xã hội, pháp luật cũng có những thay
đổi để kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh trong thời đại mới, làm cho
xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ, cơng bằng xã hội được nâng cao. Do đó, Luật HN&GĐ
năm 2014 đã bổ sung các quy định mới phù hợp với đời sống cũng như xu thế phát triển của
xã hội.
Nếu như kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân của vợ chồng thì
ly hơn là sự kiện pháp lý làm làm chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tịa án cơng nhận sự
thuận tình ly hơn hoặc xử cho vợ, chồng được ly hôn với nhau theo nhu cầu của vợ hoặc
chồng hoặc cả hai; do cha mẹ, người thân thích khác của một bên vợ, chồng yêu cầu. 18
Căn cứ pháp lý của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi

ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 được phân làm hai phần.
Thứ nhất, về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng.
16
17
18

Theo Điều 15 Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959.
Theo Điều 27 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.
Theo Điều 51 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.


Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ
chồng được quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng
bao gồm:
Một là, tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đây là nhóm tài sản chủ yếu của vợ chồng. Nhóm tài sản trong trường hợp này phải
là tài sản có được trong thời kỳ hơn nhân. Tài sản này do vợ chồng trực tiếp hoặc gián tiếp
làm ra dựa trên công việc, năng lực.
Theo quy định Luật HN&GĐ năm 2014 thì thời kỳ hơn nhân là: “Khoảng thời gian
tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hơn đến ngày chấm dứt hôn
nhân”19. Để xác định khoảng thời gian tồn tại của thời kỳ hơn nhân thì việc kết hơn giữa
nam và nữ phải đáp ứng các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn. Thực tế có nhiều vợ chồng sống chung nhưng khơng đăng ký kết hơn, khi phát sinh
mâu thuẫn họ có xin ly hôn và phân chia tài sản. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ công
nhận trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987, đối
với trường hợp này thì dù họ đăng ký kết hơn hay khơng đăng ký kết hơn thì thời kỳ hơn
nhân của họ vẫn được tính từ thời điểm họ chung sống với nhau. Đối với trường hợp nam
nữ sống chung với nhau như vợ chồng sau ngày 03/01/1987 đến trước ngày Luật HN&GĐ
năm 2000 có hiệu lực, có đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn theo quy định
tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội và Nghị quyết số

02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thì
họ có nghĩa vụ đi đăng ký kết hơn trong thời hạn hai năm kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày
01/01/2003. Nếu hết thời hạn này mà họ không đăng ký kết hơn thì khơng được coi là vợ
chồng nên khi có u cầu Tịa án khơng giải quyết việc ly hơn và chia tài sản chung của vợ,
chồng.
Hai là, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Đây là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2014. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
là thu nhập quan trọng của vợ, chồng nhằm duy trì đời sống chung của gia đình nên pháp
luật quy định đây là tài sản chung của vợ chồng. Các bên trong quá trình chung sống có thể
thỏa thuận đó là tài sản riêng, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận và quyền định đoạt tài sản
riêng của mỗi người.
Ba là, thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hơn nhân. Hiện nay, chưa có Nghị quyết hướng
dẫn mới về thu nhập hợp pháp của vợ chồng nhưng theo quy định của Nghị quyết
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì thu nhập hợp pháp của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là “Tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ
chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các
Điều 247, 248, 249, 250, 251, 252 BLDS năm 1995 trong thời kỳ hôn nhân”20.

19
Theo Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
20
Theo mục 3a của Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.


Bốn là, tài sản do vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung. Đây là những
tài sản có tính chất đặc thù trong khối tài sản chung của vợ chồng, bởi để xác định đây là tài
sản chung của vợ chồng, phải dựa vào ý chí của người tặng cho, người để lại thừa kế. Đồng
thời, nó cịn phải tuân theo quy định của pháp luật thừa kế và pháp luật tặng cho tài sản. Vợ

chồng có thể được tặng cho hoặc được thừa kế chung trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản
này đương nhiên thuộc khối tài sản chung của vợ chồng nếu hợp đồng tặng cho hoặc di
chúc nêu rõ tặng cho, thừa kế chung cho vợ, chồng.
Năm là, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hơn. Về ngun tắc, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất mà vợ chồng tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân phải đứng tên cả hai vợ chồng, tuy nhiên thực tế có nhiều giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất chỉ đứng tên vợ hoặc chồng. Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định: “Trong
trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ
hoặc chồng nếu có tranh chấp thì giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật
này”21. Quy định này đã khẳng định việc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mà vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hơn nhân dù do một mình vợ hoặc chồng đứng tên thì đó
vẫn là tài sản chung của vợ chồng nếu người đứng tên trong GCNQSDĐ khơng chứng minh
được đó là tài sản riêng.
Sáu là, tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận. Điều này được xác lập dựa trên ý chí của
các bên. Những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung có nguồn gốc là tài sản
riêng của vợ hoặc chồng. Quy định này vừa thể hiện rõ quyền tự định đoạt của vợ, chồng
đối với tài sản thuộc sở hữu của mình, vừa thể hiện quyền của vợ chồng trong việc quyết
định về phạm vi các tài sản thuộc sở hữu chung, đồng thời thể hiện rõ quan điểm của nhà
nước Việt Nam22. Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm các tài sản được quy định tại Điều 43
Luật HN&GĐ năm 2014. Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng phải tuân
theo quy định tại Điều 46 Luật HN&GĐ năm 2014.
Thứ hai, về nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Các căn cứ xác lập tài sản chung tạo ra đường lối giải quyết các tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Khi xác định được tài sản nào là tài sản chung của vợ
chồng thì việc phân chia như thế nào cho hợp tình, hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
và nhu cầu thực tế sử dụng của vợ chồng là vấn đề quan trọng, là khâu quyết định đến hiệu
quả giải quyết tranh chấp. Do đó, Luật HN&GĐ qua các thời kỳ đều đưa ra nguyên tắc phân
chia tài sản chung. Tòa án khi giải quyết phân chia tài sản chung phải dựa trên nguyên tắc
này để việc phân chia đảm bảo công bằng, hợp lý.
Theo Luật HN&GĐ năm 2014 thì “Trường hợp hai bên khơng có văn bản thỏa thuận

trước khi kết hơn thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận
được thì theo u cầu của một trong hai bên hoặc cả hai bên thì Tòa án sẽ giải quyết theo
quy định của pháp luật”23. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là thỏa thuận của
vợ chồng trước khi kết hôn, được lập thành văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực, trong
21
22
23

Theo khoản 2 Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Hội luật gia Việt Nam, Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam - Nxb Hồng Đức, năm 2014, tr.224.
Theo khoản 1 Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.


đó hai bên thỏa thuận về tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng;
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng...; điều kiện, thủ tục và
nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. Đây là một điểm mới của Luật HN&GĐ năm
2014.
Cũng theo nguyên tắc của Điều 59 tại khoản 2 Luật HN&GĐ năm 2014, việc chia tài
sản chung theo nguyên tắc là chia đơi, nhưng có tính đến các yếu tố như: Hồn cảnh của
mỗi bên; Tình trạng tài sản; Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và
phát triển khối tài sản chung. Như vậy, trong trường hợp cả hai vợ chồng đều là lao động có
thu nhập và thu nhập của hai vợ chồng tương đối ngang bằng nhau thì chỉ cần áp dụng
nguyên tắc “tài sản chung của vợ chồng được chia đôi”. Tuy nhiên, trong thực tế có khơng
ít trường hợp khối tài sản đó là do một bên tạo lập nên. Lúc này, vấn đề đặt ra là chia khối
tài sản chung này như thế nào để đảm bảo quyền và lợi ích của bên kia. Trong trường hợp
này đòi hỏi cơ quan xét xử phải nghiên cứu, xem xét hồ sơ và hỏi tại phiên tịa để có thể
làm rõ cơng sức đóng góp của các bên để có thể đưa ra quyết định đúng đắn, hợp tình, hợp
lý.
Thơng thường, khi chia tài sản của vợ chồng các Hội đồng xét xử thường áp dụng khá
linh hoạt các điểm b, c, d khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ để có thể đảm bảo quyền lợi của

các bên khi ly hôn.
Vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ phức tạp hơn nếu như trong thời kỳ hôn
nhân hai vợ chồng sống chung với gia đình, khi đó nếu khối tài sản chung có thể xác định
theo phần thì phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia, cịn
nếu khơng xác định được theo phần và cũng không thỏa thuận được với gia đình về phần tài
sản của vợ chồng đóng góp thì sẽ u cầu Tịa án giải quyết 24. Trong trường hợp này cũng
đòi hỏi Tòa án phải xác định rất cụ thể cơng sức đóng góp của từng thành viên trong gia
đình để có thể tách phần tài sản của vợ chồng ra để phân chia.
Một tranh chấp tài sản thường dễ xảy ra khi vợ chồng ly hôn là tranh chấp về quyền sử
dụng đất. Theo khoản 1 Điều 62 Luật HN&GĐ năm 2014, quyền sử dụng đất là tài sản
riêng của bên nào thì khi ly hơn vẫn thuộc về bên đó. Tuy nhiện, việc xác lập quyền sử dụng
đất thường rất khó để xác định được. Thông thường để căn cứ vào Điều 62 Luật HN&GĐ
năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thì sẽ khơng giải quyết được thấu đáo và triệt để các
vấn đề liên quan đến QSDĐ khi ly hơn. Vì vậy, các cơ quan xét xử thường phải căn cứ vào
các quy định của Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự để giải quyết, xác định chủ sở hữu của
QSDĐ đó và đó là tài sản chung hay tài sản riêng.
Có thể nói, pháp luật hiện hành đã cụ thể hóa, luật hóa các nguyên tắc chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn. Những nguyên tắc này dựa trên sự kế thừa và phát triển quy
định của Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật
HN&GĐ năm 2014, đã tạo cơ sở pháp lý để các bên phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hơn. Trong giai đoạn hiện nay, tình trạng ly hơn ngày càng có xu hướng tăng cao và
các tranh chấp chủ yếu khi ly hôn là phân chia tài sản chung của vợ chồng. Với quy định
24

Theo khoản 1 Điều 61 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.


này, Luật HN&GĐ năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải
quyết, đồng thời cũng bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên vợ, chồng, người thứ ba.
2.2.2.

Pháp luật về tố tụng
Nếu pháp luật về nội dung quy định những căn cứ, cơ sở pháp luật để Tòa án làm căn
cứ giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung thì pháp luật tố tụng quy định về trình tự, thủ
tục giải quyết đảm bảo việc giải quyết vụ án tranh chấp được cơng khai, minh bạch, nhanh
chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Về nguyên tắc, muốn Tòa án giải quyết việc ly hơn nói chung và các tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn nói riêng thì một trong hai vợ chồng phải có đơn khởi kiện
xin ly hôn và chia tài sản chung hoặc khởi kiện chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly
hôn, nếu đủ điều kiện thụ lý Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trước khi có Luật HN&GĐ năm 2014 thì việc khởi kiện vụ án ly hơn phải do chính
vợ, chồng hoặc cả hai người yêu cầu. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 thì:
“Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu Tịa án giải quyết ly hơn khi một bên vợ,
chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn n'hân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tình thần của họ” 25. Đây là quy định
mới thể hiện sự tiến bộ về cách tiếp cận đối với yêu cầu ly hơn so với Luật HN&GĐ năm
2000.
Hiện nay chưa có quy định cụ thể về thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh chấp đặc
thù như tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nên khi giải quyết các tranh chấp
này Thẩm phán sẽ thực hiện giống như thủ tục giải quyết của một vụ án dân sự. Theo quy
định của BLTTDS năm 2015 thì thủ tục để giải quyết các vụ án dân sự nói chung và giải
quyết các vụ án HN&GĐ nói riêng (trong đó có giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn) của Tịa án được thực hiện theo trình tự thủ tục sau:
Thứ nhất, thụ lý vụ án và thơng báo về việc thụ lý vụ án.
Có thể hiểu: “Thụ lý vụ án là hành vi tố tụng của Tịa án có thẩm quyền làm phát sinh
một vụ án dân sự và xác định trách nhiệm giải quyết vụ án đó” 26. Sau khi nhận được đơn
khởi kiện, Thẩm phán kiểm tra các vấn đề về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, hình
thức, nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện theo quy định
từ Điều 186 đến Điều 189 BLTTDS năm 2015. Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung đơn khởi
kiện thì thơng báo cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy

định tại Điều 193 BLTTDS năm 2015. Trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định
tại Điều 192 BLTTDS năm 2015 thì Tịa án phải thơng báo bằng văn bản nêu rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện biết.
Như vậy, thụ lý vụ án là hành vi tố tụng đầu tiên của Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ án HN&GĐ. Thụ lý vụ án là cơ sở để xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương
sự. Việc Tòa án thụ lý kịp thời vụ án sẽ tránh kéo dài mâu thuẫn vợ chồng, bảo vệ kịp thời,
tối đa những lợi ích hợp pháp của vợ chồng và những người liên quan.
25
26

Theo khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Hội luật gia Việt Nam, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam - Nxb Hồng Đức, năm 2014, tr.279.


Thứ hai, xác minh thu thập chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 91 và Điều 96 BLTTDS năm 2015 thì trong q trình Tịa án
giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho
Tịa án, nếu đương sự khơng giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì
phải chịu hậu quả của việc khơng chứng minh. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật và
dân trí của xã hội chúng ta vẫn cịn nhiều hạn chế nên nhiều đương sự chưa nắm bắt được
các quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh hoặc vì nhiều lý do khách quan họ
khơng thể tự mình thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, thủ tục hịa giải, chuẩn bị xét xử.
“Hòa giải là dàn xếp hai bên không xung đột nhau nữa”27. Với khái niệm thuật ngữ
đơn giản nêu trên hịa giải vẫn có một tính chất khơng thể thay đổi là có một bên trung gian
để giúp các bên dàn xếp, giải quyết xung đột, mâu thuẫn. Trong tố tụng dân sự, hòa giải là
một phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua sự tác động, giúp đỡ của chủ
thể thứ ba đóng vai trò trung gian. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì hịa giải là
ngun tắc cơ bản của việc giải quyết vụ án dân sự, là chế định quan trọng của pháp luật tố
tụng dân sự. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

là rất quan trọng. Nếu việc giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong cùng
vụ án ly hơn thì việc hịa giải trước tiên sẽ giúp cho vợ chồng hàn gắn những rạn nứt về tình
cảm, quay về đồn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình. Quan hệ hơn nhân chính là quan hệ
gốc, nếu hịa giải về hơn nhân thành đồng nghĩa với việc Tịa án khơng phải giải quyết về
vấn đề tài sản. Nếu việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng sau khi vợ
chồng đã ly hơn thì việc hịa giải cũng rất quan trọng, bởi nếu hòa giải thành sẽ giảm được
sự căng thẳng, hận thù lẫn nhau giữa vợ chồng, trong chừng mực nhất định có thể cải thiện
mối quan hệ giữa vợ và chồng, vì khơng giống như những tranh chấp khác, sau khi giải
quyết xong tranh chấp về tài sản thì họ khơng chấm dứt hồn tồn mối quan hệ mà giữa họ
còn rang buộc về con cái.
Tòa án phải tuân thủ theo các ngun tắc tiến hành hịa giải, trình tự theo quy định tại
Điều 205, 210 BLTTDS năm 2015. Thông qua việc tiếp cận, công khai chứng cứ, các
đương sự thực hiện quyền của mình trong đó có việc tranh tụng. Tiếp cận, cơng khai chứng
cứ và hịa giải trong vụ án HN&GĐ nói chung và trong vụ án tranh chấp tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn nói riêng là một thủ tục bắt buộc. Khi Tịa án tiến hành hịa giải, đương
sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên hịa giải để trình bày ý kiến của mình về những nội
dung tranh chấp và đề xuấ những vấn đề cần hòa giải. Sau khi đương sự đã trình bày xong ý
kiến của mình thì Thẩm phán sẽ xác định lại những vấn đề các bên đã thống nhất, vấn đề
chưa thống nhất thì yêu càu đương sự trình bày bổ sung, sau đó Thẩm phán kết luận cuối
cùng. Việc hòa giải phải lập biên bản, có chữ ký của cá bên.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án thì Tịa
án lập biên bản hịa giải thành, biên bản này phải gửi ngay cho các đương sự tham gia hịa
giải. Các đương sự có quyền thay đổi ý kiến về vấn đề thỏa thuận trong thời hạn 7 ngày kể
từ ngày lập biên bản hòa giải thành, hết thời hạn 7 ngày nếu khơng có đương sự nào thay
27

Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 2003, Tr.446.


đổi ý kiến về việc thỏa thuận thì Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

các đương sự. Nội dung hịa giải chỉ có giá trị pháp lý đối với những đương sự có mặt tại
phiên hịa giải. Quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực pháp luật
ngay khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục thẩm phán. Nếu việc hịa giải khơng
thành, Thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thứ tư, xét xử tại phiên tịa.
Nếu Tịa án hịa giải khơng thành, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
những vấn đề đang tranh chấp thì Tịa án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quy trình
Tịa án nhân dân xét xử sơ thẩm các vụ án được quy định tại Điều 35 BLTTDS năm 2015.
2.3. CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN.
2.3.1.
Phong tục tập quán
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với nhiều tập quán tốt đẹp, đa dạng, phong phú,
quy định về việc áp dụng các phong tục tập quán trong pháp luật HN&GĐ thể hiện việc tôn
trọng những tập quán tốt đẹp, đồng thời cũng làm rõ điều kiện để tập quán được áp dụng,
nhấn mạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình, bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật.
Thơng thường, phong tục tập quán về HN&GĐ được áp dụng ở những vùng sâu, vùng
xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ở
đó, Luật HN&GĐ năm 2014 chưa thể thực hiện được một cách đầy đủ, nên cần phải sử
dụng phong tục tập qn. Chính vì vậy, chế định áp dụng phong tục tập quán vẫn được ghi
nhận ở các Luật HN&GĐ.
Theo Luật HN&GĐ năm 2014, tập quán về HN&GĐ được hiểu là các quy tắc xử sự
có nội dung rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HN&GĐ, được lặp đi
lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rải trong một vùng, miền hoặc cộng
đồng28 29. Sau khi kế thừa Luật HN&HĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định:
'“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên khơng có thỏa thuận thì tập qn
tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và
không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng” 8 Quy định này cho thấy việc hạn chế
áp dụng phong tục tập quán lạc hậu, bằng cách đưa ra các điều kiện nhiều hơn trước khi áp

dụng phong tục tập qn.
Hiện nay chúng ta có cả hệ thống chính trị vào cuộc làm công tác phổ biến giáo dục
pháp luật, do đó pháp luật phải được thực hiện một cách thống nhất trong phạm vi cả nước,
kể cả vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; nên đã đến lúc phải đưa các quy
định của Luật HN&GĐ năm 2014 đi vào cuộc sống một cách triệt để, theo hướng chỉ cho
áp dụng tập quán khi pháp luật khơng có quy định và các bên khơng thỏa thuận, nhưng
không trái nguyên tắc chung và điều cấm của Luật.

28
Lê Hằng Vân, Bàn về áp dụng phong tục tập qn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng phối
hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh Quảng Nam, 2015.
29
Theo Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


2.3.2.
Hồn cảnh của gia đình và của vợ chồng
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hơn đó chính là hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng. Đây là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ, chồng khi ly hơn. Có thể
hiểu, hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực
hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng
cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân
thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Phần lớn các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, Tòa án sẽ áp dụng ngun
tắc chia đơi. Tuy nhiên, ngun tắc nào cũng có những ngoại lệ nhất định, nguyên tắc chia
tài sản chung của vợ chồng cũng vậy. Trong một số trường hợp để đảm bảo tính cơng bằng
và hợp lý, cần xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên.
Cần xác định rõ hồn cảnh của gia đình, của vợ và của chồng một cách cụ thể, chính
xác nhất. Để khi phân chia tài sản không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của bất cứ bên nào.

Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc
được ưu tiên nhận lại tài sản để đảm bảo duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù
hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng. Bên cạnh đó, hồn cảnh gia đình
của vợ chồng trước khi ly hơn cũng quyết định đến khối lượng tài sản chung khi tranh chấp.
Thơng thường, các trường hợp hồn cảnh gia đình trước ly hơn khó khăn, tài sản
chung khơng lớn sẽ khiến cho việc giải quyết tranh chấp được diễn ra đơn giản hơn. Ngược
lại, những gia đình có khối lượng tài sản chung lớn, tính chất phức tạp trong việc phân định
cao và thái độ của vợ và chồng khi tranh chấp cũng mang tính quyết liệt hơn dẫn đến việc
giải quyết tranh chấp rất khó khăn.
2.3.3.
Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung
Việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn chịu ảnh hưởng rất lớn từ việc
phân định các đóng góp của vợ chồng và trong quá trình tạo lập tài sản chung. Việc phân
chia tài sản nhằm đảm bảo quyền lợi cho vợ hoặc chồng được hưởng chia phần tài sản xứng
đáng với công sức bỏ ra trong việc tạo dựng.
Có thể hiểu, cơng sức là sức lực, là thời gian mà con người bỏ ra để chăm sóc, ni
dưỡng thành viên trong gia đình; để giữ gìn, bảo quản, duy trì tài sản nên tài sản không bị
hư hỏng, mất mát hoặc để làm tăng giá trị tài sản bằng việc tôn tạo, tu bổ tài sản. Để xem
xét cơng sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, phát triển, giữ gìn, bảo quản,... tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, cần phải xem xét thật khách quan, tồn
diện từ nguồn gốc hình thành tài sản; Giá trị của tài sản để ra công sức quản lý, giữ gìn; Sự
cần thiết và hiệu quả của cơng sức đã bỏ ra.
Tuy nhiên, trên thực tế việc chứng minh công sức của vợ chồng vào việc tạo lập, duy
trì khối tài sản chung là vơ cùng khó. Có rất nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tóm lại thì việc
tính cơng sức có thể được hiểu như sau:
Một là, sự đóng góp về tài sản riêng. Tài sản riêng bao gồm tài sản có trước thời kỳ
hơn nhân, tài sản được tặng cho riêng, tài sản được thừa kế riêng.



Hai là, sự đóng góp thu nhập, lao động của vợ chồng.
Ba là, sự đóng góp cơng việc gia đình và lao động của vợ, chồng.
Khi đã xác định được vai trị về mặt cơng sức của vợ chồng hoặc đối với khối tài sản
chung, tài sản sẽ được chia để đảm bảo tính cơng bằng về cơng trạng và thể hiện sự bình
đẳng về giá trị lao động của cả vợ và chồng. Điều này có nghĩa, người vợ hoặc chồng ở nhà
chăm sóc con, gia đình mà khơng đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với
thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có đóng góp cơng sức nhiều hơn sẽ được chia
nhiều hơn.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng phải đảm bảo cho vợ, chồng đang hoạt động
nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; Vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được
tiếp tục sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần chênh
lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động
nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng, người chưa
thành niên, con đã thành niên nhưng mất NLHVDS.
2.3.4.
Lỗi của mỗi bên trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
Vợ và chồng là quan hệ vừa mang tính pháp lý vừa mang tính xã hội. Mỗi bên tham
gia quan hệ này đều có quyền và nghĩa vụ nhất định. Trường hợp các bên không tuân thủ
các nghĩa vụ của mình nghĩa là vị phạm nguyên tắc làm vợ hoặc chồng đã đượcc pháp luật
và xã hội thừa nhận. Đặc biệt, hậu quả ly hôn bắt nguồn từ lỗi của chồng hoặc vợ sẽ là yếu
tố ảnh hướng đến việc giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hơn theo hướng bất lợi cho người
có lỗi.
Luật HN&GĐ năm 2014, lần đầu tiên đề cập yếu tố lỗi ở các nội dung sau:
Một là, nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều
59 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã ghi nhận một số nguyên tắc rất quan trọng trong việc
phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn là tính đến việc xem xét lỗi của mỗi bên trong
phạm vi quyền, nghĩa vụ vợ chồng. Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 cho phép cả vợ,
chồng đều có quyền u cầu giải quyết ly hơn. Theo đó mỗi bên đều có quyền đơn phương
nộp đơn ra tịa án để yêu cầu giải quyết ly hôn.
Hai là, đối với trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên, Điều 56 Luật HN&GĐ

năm 2014 quy định để được Tòa án thụ lý đơn ly hơn đơn phương thì cần phải có căn cứ ly
hơn, bao gồm: Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
khơng thể kéo đai, mục đích của hơn nhân khơng đạt được.
Tình trạng hôn nhân trầm trọng ở đây được hiểu là: Vợ chồng khơng chung thủy với
nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích
của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại
tình thì được xem là tình trạng hơn nhân trầm trọng, theo Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014,
tòa án có căn cứ để xem xét đơn đơn phương ly hôn, trừ trường hợp tại khoản 3 Điều 51
Luật HN&GĐ năm 2014 “Chồng khơng có quyền u cầu ly hơn trong trường hợp vợ đang
có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.


×