Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thực tiễn trên địa bàn tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.17 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
••

PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

The University

VÕ THỊ THU HÀ

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
•••
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO

•••

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN - THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KON TUM


Kon Tum, tháng 05 năm 2020


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
••

PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM
The University

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
•••


PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO
•••

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN - THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KON TUM

: CHÂU THỊ NGỌC
GVHD
SVTH TUYẾT
: VÕ THỊ THU HÀ
LỚP
: K10LK1
MSSV
:16152380107024


Kon Tum, tháng 05 năm 2020


MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHIẾU NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PHIẾU CHẤM QUÁ TRÌNH THỰC TẬP NĂM 4

5


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
___________J__!_____________

STT
1
2
3
4
5
6
7

DẠNG VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
TAND
VKSND
THQCT
KSĐT
KSXX

DẠNG ĐẦY ĐỦ
Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Tịa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân
Thực hành quyền công tố
Kiểm sát điều tra
Kiểm sát xét xử

6



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Hình 1.1.

Tên bảng
Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước cuả VKSND tỉnh kon tum

Trang
9


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết:
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thân thiết
nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất
kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện
pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến
quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất
định như: Trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự
hay điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu ở mức
độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của con
người là tội phạm và áp dụng đối với người phạm tội một hình phạt, Nhà nước ln thể
hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với loại hành vi này.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước ta đã ban
hành Hiến phápvà các đạo luật khác để ghi nhận, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của cơng
dân, trong đó các quy định của pháp luật hình sự giữ vai trị quan trọng. Theo cách hiểu
hiện nay "Quyền sở hữu là một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định của pháp luật".
Như vậy sau quyền được sống, quyền được tự do thì quyền sở hữu có một vai trị to lớn

đốivới đời sống con người. Tiếp theo các văn bản pháp lý trước đó, Hiến pháp 1992 - văn
bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất đều ghi nhận:
Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chếthị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng.
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sựđã giành hẳn một chương quy
định các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình sự) gồm từ Điều 133 đến Điều
145 trong đó Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự.
Trước đó, trong Bộ luật hình sự1985, vì đề cao sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước nên các
nhà lập pháp thời kỳ này đã tách thành hai chương riêng: Chương các tội xâm phạm tài
sản sở hữu xã hội chủ nghĩa và chương các tội xâm phạm sở hữu của công dân với các đặc
điểm pháp lý hành vikhơng có gì khác nhau, có chăng chỉ khác nhau về mức hình phạt áp
dụng và một vài tình tiết định khung tăng nặng.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quyền sở hữu là một quyền thiêngliêng và được
hiến định. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

8


3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình
trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi
thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.
Quyền sở hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ. Chế độ sở
hữu là một trong những vấn đề quan trọng được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật, trong đó

có biện pháp pháp luật hình sự thể hiện kiên quyết ý chí quyền lực nhà nước trong việc xử
lý các hành vi pháp luật đối với chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là tội xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu đối với tài sản của
người khác, tội phạm này xảy ra khá phổ biến, đây là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có diễn biến phức tạp, xảy ra thường xuyên và ngày càng gia tăng với nhiều thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt. Có những vụ án số giá trị tài sản bị chiếm đoạt có khi lên đến hàng chục
tỉ đồng. Nhiều trường hợp lợi dụng việc giao kết hợp đồng đầu tư, hợp đồng vay vốn hoặc
sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến về vi tính, tin học để làm thẻ tín dụng giả, tìm kiếm
mật mã số tài khoản của người khác, tổ chức trên game trên mạng... nhằm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Từ chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tượng bị xâm hại đều rất đa dạng,
tài sản bị chiếm đoạt có giá trị rất lớn, có những vụ lên đến hàng chục tỷ đồng, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh trật tự của đất nước. Trong
đó, địa bàn tỉnh Kon Tum khơng phải là ngoại lệ.
Kon Tum là một tỉnh nằm ở khu vực Tây Nguyên, là một cửa ngõ quốc tế với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập quốc tế. Cùng với đó là tình trạng
lao động nhập cư tăng đột biến trong thời gian qua, làm cho tình hình an ninh trật tự xã hội
bị tác động lớn. Tình hình tội phạm nhóm xâm phạm sở hữu nói chung, đặc biệt là tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Kon Tum ngày càng gia tăng cả về số vụ
và mức độ hành vi, gây thiệt hại lớn về tài sản của cá nhân và tổ chức xã hội.
Trước tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tác động tiêu cực trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, cũng như trước sự địi hỏi mới của cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Những năm qua cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật của
nước ta, các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh Kon Tum đã tích cực đấu tranh nhằm ngăn
chặn các hành vi xâm phạm sở hữu và cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp của loại tội phạm này, các cơ quan tiến hành tố
tụng của tỉnh Kon Tum đã nỗ lực nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định như: chưa kịp
thời, chưa tồn diện và từ đó mới chỉ đáp ứng phần nào công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới một góc nhìn thực tiễn tại
địa phương khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa trong thực
tiễn áp dụng của công tác định tội danh và quyết định hình phạt, hiệu quả phịng chống tội

phạm nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong Pháp luật hình sự Việt
Nam. Chính vì vậy, tơi đã chọn: “Pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Thực tiễn trên địa bàn tỉnh Kon Tum” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình.

9


2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục tiêu của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và
thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Kon Tum để đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng ngừa loại tội phạm này.
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tơi đặt ra cho mình các
nhiệm vụ sau đây:
a) Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"theo
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 và có sự so sánh tội phạm này với một số tội
phạm khác có liên quan để làm rõ thêm cách nhận biết các dấu hiệu pháp lý của tội
phạm này.
b) Phân tích thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử loại tội này tại tỉnh Kon Tum trong
thời gian vừa qua để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tình hình tội
phạm này.
c) Phân tích làm sáng tỏ tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên cơ sở gắn với đặc điểm của tỉnh Kon Tum đồng thời chỉ ra
những vướng mắc, hạn chế trong việc đấu tranh, phòng, chống tội phạm này tại tỉnh
Kon Tum.
d) Đưa ra các giải pháp đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh
Kon Tum và đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự liên quan đến tội danh này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích tình hình và diễn
biến của tội phạm để rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc đấu tranh
phịng chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Kon Tum, phân tích, nguyên nhân và điều
kiện cũng như các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và diễn biến tội phạm trên địa bàn Kon Tum giai đoạn 2014 - 2020
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn góp phần tích cực làm phong
phú thêm lý luận và cơ sở thực tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Kon Tum.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, đề tài sửa dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể: Phân tích, tổng hợp, nghiên cứu so sánh, thống kê, nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp phân tích và so sánh, phân tích các quy định pháp luật hiện hành.
Phương pháp thống kê các số liệu của kết quả tổng kết hàng năm trong các báo cáo của
ngành TAND và VKSND tỉnh Kon Tum.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khái

10


quát lại tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Kon Tum, nguyên nhân, các giải pháp... Qua
đó, nghiên cứu các tài liệu trên sách báo, giáo trình luật, tạp trí luật học, internet... Phương
pháp nghiên cứu tài liệu.
5. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng, danhmục
tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Kon Tum
Chương 2: Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa
đảo

chiếm
đoạt
tàikiến
sản
Chương
lừa
đảo
3:
chiếm
Thực
đoạt
tiễn
tài
thực
sản
hiện
trên
pháp
địaluật
bàn tỉnh
hình Kon
sự Việt
Tum Nam
một
vềsố
tội
giải
pháp

nghị

hồn
thiện

11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
1.1.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VKSND TỈNH KON
TUM
1.1.1.
Khái quát về tỉnh Kon Tum
Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao Nam Trung Bộ, phía Tây giáp nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia, với chiều dài biên giới khoảng 260
km, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía Đơng giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía Nam giáp tỉnh
Gia Lai; có đường QL14 nối với các tỉnh Tây Nguyên và Quảng Nam, đường 40 đi
Attapeu (Lào). Nằm ở ngã ba Đơng Dương, Kon Tum có điều kiện hình thành các cửa
khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế về phía Tây. Ngồi ra, Kon Tum có vị trí chiến lược hết sức
quan trọng về quốc phịng, bảo vệ môi trường sinh thái. Kon Tum là đầu mối giao lưu kinh
tế của cả vùng duyên hải miền Trung và cả nước.
Kon Tum có tiềm năng về thuỷ điện vào loại lớn nhất cả nước (2.790 MW). Ngoài
các cơng trình thuỷ điện đã và đang xây dựng. Kon Tum cịn có thể xây dựng các cơng
trình thuỷ điện vừa và nhỏ. Hiện nay, có rất nhiều nhà đầu tư đang điều tra, khảo sát các
cơng trình thuỷ điện trên địa bàn. Với việc đầu tư các cơng trình thủy điện hiện nay, trong
tương lai, Kon Tum có thể sẽ là một trung tâm điều phối nguồn điện quan trọng của cả
nước thông qua đường dây 500 KV.
Bên cạnh đó, Kon Tum có diện tích nơng nghiệp và có khả năng nơng - lâm nghiệp
bình qn vào loại cao so với cả nước, đất đai địa hình sinh thái đa dạng, có khả năng hình
thành vùng chun canh cây công nghiệp rộng lớn, nhất là cây nguyên liệu giấy. Kon Tum

cịn là nơi có nhiều cảnh quan thiên nhiên mang nét nguyên sơ, các khu rừng nguyên sinh,
di tích đường mịn Hồ Chí Minh, di tích lịch sử chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh, ngục Kon
Tum, ngục Đắk Glei,... đây là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của VKSND tỉnh Kon Tum
Kon Tum là một tỉnh nằm ở phía bắc cao nguyên Gia Lai - Kon Tum, phần lớn địa
hình thấp từ tây sang đơng, từ bắc xuống nam với diện tích tự nhiên 9.676,5 km 2, dân số
hơn 507.800 người, địa bàn hoạt động rộng, dân cư thưa thớt, điều kiện đi lại cịn khó
khăn có huyện cách thành phố 150km (huyện IaH'Drai), trình độ văn hóa cịn thấp đời
sống nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn, chưa được phát triển. Trước tình hình phát triển
của xã hội cũng như của đất nước, để góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của nhân dân, bảo vệ
trước mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân đều phải được xử lý theo pháp luật. Ngày 21/8/1991 Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao Trần Quyết ký ban hành quyết định số 88/QĐ-VKS-TCCB trên cơ sở
tách từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum về việc thành lập VKSND tỉnh Kon Tum. Trước yêu cầu
đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC), theo lộ trình cải cách tư pháp đến năm 2020. 5 VKSND tỉnh Kon Tum luôn
đổi mới đáp ứng phù hợp với nhiệm vụ, môi trường làm việc, đảm bảo trang thiết bị


phương tiện làm việc đầy đủ, hiện đại, phù hợp cho hoạt động điều tra, đáp ứng với yêu
cầu đổi mới và yêu cầu hội nhập quốc tế như: Đảm bảo về trụ sở làm việc riêng, có phịng
tiếp dân, phòng nghiệp vụ, kho lưu trữ, nhà ở tập thể cho cán bộ, nhà khách; thiết bị kỹ
thuật, công cụ hỗ trợ (máy ghi âm, ghi hình, điện thoại, vi tính, máy in, máy fax...);
phương tiện đi lại để phục vụ cho hoạt động điều tra xác minh, sẵn sàng đáp ứng trong
trường hợp cùng một lúc phải tiến hành điều tra nhiều vụ án, kiểm tra xác minh nhiều tố
giác, tin báo về tội phạm trên nhiều địa bàn khác nhau; có kế hoạch kinh phí dài hạn để
xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động điều tra. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Kon Tum đối với các cơ quan, ban ngành của tỉnh Kon Tum, trong đó có

VKSND tỉnh Kon Tum đã triển khai phòng, chống tội phạm và thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân tiến hành kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố và
xét xử các vụ án hình sự kịp thời và đúng pháp luật, hạn chế các tội phạm xảy ra trên địa
bàn tỉnh Kon Tum. Viện kiển sát nhân dân tỉnh Kon Tum: + Địa chỉ: số 190 đường Trần
Phú, phường Trường Chinh, Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum + Số điện thoại:
0603.864802 + Fax: 0603.862975 + Email:
1.2.
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VKSND
TỈNH KON TUM
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của VKSND tỉnh Kon Tum
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.2.2. Các chức danh tư pháp trong VKSND tỉnh Kon Tum:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các
cấp;
b) Kiểm sát viên: Có 4 ngạch Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân: Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên trung cấp;
Kiểm sát viên sơ cấp;
c) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra;
d) Điều tra viên: có 3 ngạch Điều tra viên: Điều tra viên cao cấp; Điều tra viên trung
cấp; Điều tra viên sơ cấp;
đ) Kiểm tra viên: có 3 ngạch Kiểm tra viên: Kiểm tra viên cao cấp; Kiểm tra viên
chính; Kiểm tra viên.
1.2.3. Cơ cấu tổ chức của VKSND tỉnh Kon Tum
VKSND tỉnh Kon Tum là Cơ quan có dự tốn kinh phí độc lập, có quyết định thành
lập, có con dấu và tài khoản riêng, có biên chế riêng. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát có
Ban lãnh đạo và bộ máy giúp việc. Ban lãnh đạo viện gồm có 01 Viện trưởng, 02 Phó Viện

trưởng.


Bảng 1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước cuả VKSND tỉnh kon tum
Lãnh đạo VKSND tỉnh Kon Tum
21 Đơn vị trực thuộc VKSND tỉnh Kon Tum

Văn phòng tổng họp (ký hiệu là VP)
Phòng Tổ chức cán bộ (ký hiệu là
P15)
Phịng Thống kê tội phạm và Cơng nghệ
thơng tin (ký hiệu là TK)
Phòng THQCT, KSĐT, KSXX sơ
VKSND huyện Đắk Tơ thẩm án hình sự
về An ninh, ma túy và tham nhũng (ký
hiêuhiệu là P1)
Phòng THQCT, KSĐT, KSXX sơ thẩm
án hình sự về Kinh tế, chức vụ và trật tự
xã hội (ký hiệu là P2)
Phịng THQCT, KSXX phúc thẩm án
hình sự (ký hiệu là P7)

VKSND huyện Kon Rẫy
VKSND huyện Đắk Glei

VKSND huyện Đắk Tơ

VKSND huyện Kon Plơng

Phịng kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi

hành án hình sự (ký hiệu là P8)
Phòng kiểm sát giải quyết các vụ án Dân
sự - HNGĐ - HC - KDTM - LĐ và các
việc khác theo quy định pháp luật (ký
hiệu là P9)

VKSND huyện Sa Thầy

VKSND huyện Ngọc Hồ

Phòng kiểm sát thi hành án dân sự (ký
hiên là P1 1 ì
Phịng kiểm sát và giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp (ký hiệu
là P12)
Thanh tra VKSND tỉnh Kon Tum (ký
hiệu là TTr)

VKSND huyện IaH'drai

VKSND huyện Tu Mơ Rông



KẾT CHƯƠNG 1
Sự thành lập của Ngành Kiểm sát đã đánh dấu bước phát triển của việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại địa phương. VKSND có nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND tỉnh Kon

Tum là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của VKSND
tối cao.


CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỘI LỪA ĐẢO TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN
2.1.
KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm xâm phạm quyền sở hữu
phổ biến nhất hiện nay. Theo điều 174, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 có quy
định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đó là: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm
đoạt tài sản của người khác... ”
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối,
đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động khiến người có tài
sản hoặc người có trách nhiệm trơng giữ, quản lý tài sản vì tin nhầm, tưởng giả là thật,
tưởng kẻ gian là người ngay nên tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội.
2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
a. Căn cứ pháp lý.
Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau:
(1) . Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc
một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169,
170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà cịn vi

phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
(2) Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07
năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
(3) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm:


a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều
này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
(4) . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều
này;
c) Lợi dụng hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
(5) . Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
b. Các yếu tố cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
❖ Mặt khách quan của tội phạm.
Về hành vi khách quan: (1) Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng
thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó, người bị hại
khơng biết được có hành vi gian dối.
(2) Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật nhưng
làm cho người bị lừa dối tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra
thơng tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ
viết (viết thư), bằng hành động, bằng hình ảnh.. .hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác
nhau. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của tội phạm rất tinh vi, tội phạm thường thực hiện hành
vi lừa đảo trên các trang mạng xã hội hoặc các trang web, sau khi đã chiếm đoạt được tài
sản, tội phạm sẽ cắt đứt mọi liên hệ với người bị hại và thường người bị hại không biết
hoặc biết những thơng tin khơng chính xác về tội phạm.
Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một
hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối.
Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở
hữu hoặc người quản lý tài sản, không có thủ đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người
phạm tội lại khơng được biểu hiện ra bên ngồi bằng hành vi, cũng chính vì thế mà khi
phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một số quan
điểm cho rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hành vi khách quan là hành vi “gian
dối” và hành vi “chiếm đoạt”, nói như thế cũng khơng phải là khơng có căn cứ. Tuy nhiên,
điều luật quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác... ” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì thủ đoạn
chính là phương thức để đạt mục đích mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối lại bao gồm
nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà người phạm tội thực
hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác.



❖Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi
của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong
muốn hậu quả đó xảy ra.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể,
mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện
thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp
pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì khơng phải là hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phạm khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thực tế việc
chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn cứ vào tài sản thực có, tình
trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của người
phạm tội như thế nào. Thông thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lơ đề, kinh doanh...,
khơng có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.
❖Mặt khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước,
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật,
tiền. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản
của người khác sau khi lừa lấy được tài sản.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất
chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân
thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài
sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện
trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhà làm luật khơng quy định thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt
được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thốt, gây chết
người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết

người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
❖Mặt chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực
trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì khơng phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội này
2.2.
PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ
TỘI PHẠM KHÁC
Qua phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chúng ta thấy


đặc trưng nổi bật của tội lừa đảo là bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Song
trong thực tiễn, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản không phải trường hợp
nào cũng rõ ràng và thống nhất. Nhiều tội phạm cũng có những hành vi gian dối như lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa dối khách hàng .... Vì vậy cần thiết phải phân biệt
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm này. . .
2.2.1. So sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê
tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp
đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc đã
sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản
quy định tại Điều 175 BLHS 2015.
Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có các yếu tố khách thể, mặt chủ quan,
chủ thể của tội phạm so với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cơ bản giống nhau, chỉ khác
nhau ở mặt khách quan. Do vậy chỉ cần phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở mặt khách quan mà chủ yếu là thơng qua hình thức
hợp đồng mà có sự gian dối.
Trước hết, ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mặt khách quan thể hiện ở 2
nhóm hành vi sau:
Một là, vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản đó hoặc đã đến thời hạn trả lại và mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
khơng trả.
Hai là, vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn
đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
Hợp đồng trong tội lạm dụng tín nhiệm là hợp đồng đúng đắn, ngay thẳng. Ở thời
điểm kí kết hợp đồng, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt tài sản. Chỉ sau đó, khi
đến thời hạn nhất định hoặc thời hạn phải trả lại tài sản mới có ý định không trả lại hoặc
sử dụng tài sản vào những mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng chi trả hoặc bỏ
trốn . nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, mục đích chiếm đoạt nảy sinh sau khi đã nhận
được tài sản trên cơ sở hợp đồng.
Để thực hiện ý định chiếm đoạt, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có thể có hành vi gian dối như giả tạo bị mất, đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản. nhưng
hành vi gian dối này chỉ để che giấu hành vi chiếm đoạt. Hành vi gian dối không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để
chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội có thể dùng những thủ đoạn khác như bỏ trốn hay
cố ý chây ỳ, không trả lại tài san...
Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản trước
khi thực hiện việc ký kết hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng thực chất là phương thức để


chiếm đoạt tài sản. Hợp đồng này là hoàn toàn giả tạo nhằm tạo lòng tin để người bị hại
giao tài sản. Khi người phạm tội nhận được tài sản từ hợp đồng cũng là thời điểm tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản hoàn thành. Hành vi ký kết hợp đồng giả tạo là hành vi lừa dối và

hành vi nhận tài sản là hành vi chiếm đoạt được. Hành vi gian dối của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là cơ sở quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội 7 nên
hành vi gian dối là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Như vậy, việc xem xét người đó phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay
lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xem xét đến những căn cứ chứng minh người phạm tội ban
đầu trước khi ký kết hợp đồng đã có ý định chiếm đoạt tài sản hay chưa và đặc biệt hợp
đồng được ký kết là hoàn toàn ngay thẳng hay gian dối. Người phạm tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản dựa vào lịng tin sẵn có của người có tài sản. Cịn người phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì chiếm đoạt tài sản dựa vào lịng tin do hành vi gian dối tạo
ra.
2.2.2. So sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng:
Tội lừa dối khách hàng là hành vi tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, người phạm
tội biết rõ hành vi lừa dối khách hàng của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì vụ lợi
vẫn cố tình thực hiện tội phạm. Được quy định cụ thể trong điều 198 bộ luật hình sự 2015.
Giống nhau:
- Về mặt khách quan: cả hai tội đều thực hiện hành vi phạm tội bằng thủ đoạn gian
dối để chiếm đoạt tài sản.
- Về mặt chủ quan: cả hai tội đều thực hiện do hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người
phạm tội đều thấy trước hành vi của mình là gian dối, trái pháp luật, nguy hiểm; tuy
nhiên người phạm tội mong muốn thực hiện được hành vi của mình để chiếm đoạt
tài sản của người khác
Khách nhau:
- Mơ tả tội phạm: Tội lừa dối khách hàng là hành vi tội phạm được thực hiện do lỗi
cố ý, người phạm tội biết rõ hành vi lừa dối khách hàng của mình là nguy hiểm cho
xã hội nhưng vì vụ lợi vẫn cố tình thực hiện tội phạm cịn tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là tội mà người phạm tội có hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở
hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt
tài sản đó.
- Khách thể: Tội lừa dối khách hàng là trật tự kinh doanh xã hội chủ nghĩa và lợi ích

của người tiêu dung còn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản của
người khác
- Hành vi trong mặt khách quan: Tội lừa dối khách hàng là gian dối trong các lĩnh
vực mua, bán bằng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo mặt hàng để lấy tiền
của khách hàng còn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối làm cho người
có tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà trao tài sản cho người phạm tội
- Chủ thể: Tội lừa dối khách hàng là những người làm nghề mua, bán hàng còn tội
lừa lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào.


- Hình phạt cao nhất: đối với tội lừa dối khách hàng hình phạt cao nhất là phạt tù từ 1
năm đến 5 năm còn ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hình phạt cao nhất là tù chung
thân.
Như vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn so với
tội lừa dối khách hàng. Tuy có nhiều điểm tương đồng, song hai tội danh này lại có nhiều
điểm khác nhau để phân biệt như trên
2.3.
CÁC HÌNH THỨC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI LỪA
ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
2.3.1. Phải chịu hình phạt:
Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất, được thực hiện
trong bản án kết tội của Tòa án, áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong Luật hình sự. Vì vậy trách nhiệm hình sự
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước hết thể hiện qua các khung hình phạt được quy
định trong Bộ luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Điều 174 BLHS 2015 quy định bốn khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản và được sắp xếp theo trật tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc,
đó là khung hình phạt cơ bản, khung tăng nặng thứ nhất, khung tăng nặng thứ hai và
khung tăng nặng thứ ba.
Khung 1: Khoản 1 Điều 174 BLHS 2015 quy định chế tài lựa chọn giữa hình phạt

cải tạo khơng giam giữ và hình phạt tù. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể
bị áp dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm khi thỏa mãn một trong các trường hợp sau: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các
tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS, chưa được
xóa án tích mà cịn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; Tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khi quyết định hình phạt, Tịa án phải căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như các căn cứ pháp lý khác để
đưa ra hình phạt hợp lý, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt
có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 36 BLHS), nếu người phạm
tội có ít hoặc khơng có tình tiết giảm nhẹ thì tùy từng trường hợp cụ thể có thể bị phạt từ 6
tháng đến 03 năm tù.
Khung 2: Quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm áp dụng đối với người phạm
tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có tổ chức; Có tính chất chun nghiệp;
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; Tái phạm nguy
hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ
đoạn xảo quyệt. Trong đó:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức là các
trường hợp: người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
công tác (chức vụ, quyền hạn) của mình trong các cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt


tài sản của người khác; người tuy khơng có chức vụ, quyền hạn của cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội.. .nhưng
đã lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình để lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của người khác.
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn
gian dối có tính chất tinh vi như giả danh một cơ quan, tổ chức nào đó khơng có

thật để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách giả mạo con dấu, giả
mạo đăng ký, bố trí trụ sở làm việc giả để giao dịch, thuê tài sản để rút tiền.
- Phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức, có tính chất chun nghiệp, tái
phạm nguy hiểm, chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng là trường hợp có từ 2 người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội
và có sự thống nhất với nhau về ý chí, có sự câu kết chặt chẽ trong q tình phạm
tội, trong đó có một hoặc một số người thực hành và có thể có người tổ chức, người
xúi giục, người giúp sức; Phạm tội có tính chất chun nghiệp là có từ 5 lần trở lên
phạm tội, trong đó có lần đã bị xét xử nhưng chưa được xóa án tích, hoặc chưa lần
nào vị xét xử và chưa lần phạm tội nào hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của
các lần phạm tội làm nguồn sống chính.
Khung 3: Quy định phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng; Lợi dụng hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Tình tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ
của thiên tai, dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khan của xã hội trong tình
trạng thiên tai, dịch bệnh.
Khung 4: Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân áp dụng
đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Chiếm đoạt tài sản trị giá
500.000.000 đồng trở lên; Lợi dụng hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, trong đó
tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời
gian trước khi nước nhà bị xâm lược cho tới khi hành đọng xâm lược đó được chấm dứt
trên thực tế, cịn tình trạng khẩn cấp về quốc phịng là trạng thái xã hội của đất nước khi có
nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn
nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh, mức độ nguy hiểm của hành vi trong
trường hợp này phụ thuộc vào tính chất của hồn cảnh chiến tranh, tính chất mức độ của
tình trạng khẩn cấp.
Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS là người phạm tội cịn
có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,

cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy so với quy định tại Điều 139 BLHS năm 2009 thì quy định tại Điều 174
BLHS 2015 có một số điểm mới sau đây:
- Thứ nhất, về yếu tố cấu thành tội phạm thì đồng thời với việc bổ sung hai tình tiết


định tội (điểm c và d khoản 1), BLHS không quy định hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của người khác có giá trị dưới 2.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây.
- Thứ hai, bỏ tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”, bổ sung tình tiết “Lợi dụng
thiên tai, dịch bệnh” làm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại khoản.
- Thứ ba, bỏ tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, bổ sung tình tiết “Lợi
dụng hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” làm tình tiết tăng nặng định khung hình
phạt tại khoản.
2.3.2. Các biện pháp tư pháp:
"Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do
các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng
hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt"
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội khơng nằm ngồi mục
đích cải tạo giáo dục họ đồng thời ngăn ngừa khả năng sẽ gây thiệt hại đến các lợi ích
được luật hình sự bảo vệ. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản các biện pháp tư pháp
được áp dụng như sau:
- Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhằm loại bỏ những điều kiện vật
chất của tội phạm, góp phần cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa tội phạm, ổn
định và đảm bảo trật tự xã hội. Vật và tiền trực tiếp liên quan tới tội phạm là vật hoặc tiền
là công cụ, phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm hoặc thông qua việc thực hiện
tội phạm mà có, hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có, hoặc là vật Nhà nước cấm
sản xuất, tàng trữ mua bán.
- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại nhằm khôi phục lại tình trạng sở
hữu ban đầu trước khi tội phạm xảy ra. Đây là biện pháp tư pháp buộc người phạm tội

phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong
trường hợp làm cho tài sản bị chiếm đoạt giảm giá trị thì bên cạnh việc trả lại tài sản còn
phải bồi thường trị giá tài sản bị thiệt hại. Nếu vì lý do nào đó mà tài sản bị chiếm đoạt đã
thất lạc hoặc khơng cịn nữa thì người phạm tội phải bồi thường toàn bộ trị giá tài sản đã
chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong trường hợp người phạm
tội sử dụng trái phép tài sản của người khác vào hành vi phạm tội mà làm hỏng hoặc mất
tài sản đó thì cũng phải buộc sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp.
- Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật hình sự quy định áp dụng
đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, nhằm phòng
ngừa khả năng gây thiệt hại cho xã hội do những người này gây ra. Đối với người phạm
tội khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng khi bị kết án hoặc khi đang chấp hành hình
phạt đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì
Tịa án có thể quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ, sau khi khỏi
bệnh có thể họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
Đây là biện pháp tư pháp mang tính nhân đạo, tạo điều kiện cho người bệnh được chữa
bệnh tại cơ sở chữa bệnh chuyên khoa, trong trường hợp khơng cần thiết có thể giao cho


gia đình hoặc người giám hộ trơng nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người dùng thủ đoạn gian
dối nhằm làm cho người khác tin tưởng để chiếm đoạt tài sản, như vậy khi phạm tội họ
không thể là người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, vì vậy biện
pháp bắt buộc chữa bệnh chỉ do Tòa án áp dụng khi họ bị kết án hoặc khi họ đang chấp
hành hình phạt mà phát sinh bệnh đến mức mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng
điều khiển hành vi. Việc áp dụng biện pháp tư pháp này phải căn cứ vào kết luận của hội
đồng giám định pháp y.
2.3.3. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt:
"Miễn trách nhiệm hình sự là khơng buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình

sự về tội mà người đó đã phạm". "Miễn hình phạt là khơng buộc người phạm tội phải chịu
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước là hình phạt về tội mà người đó đã
thực hiện".
Điều 27, 29, 60, 62 BLHS quy định những trường hợp được miễn trách nhiệm hình
sự và miễn chấp hành hình phạt. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng được áp dụng
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu miễn chấp hành hình phạt theo quy
định của những điều luật trên. Ngoài ra việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cịn được
áp dụng trong trường hợp được đặc xá, đại xá hoặc trước khi hành vi phạm tội bị phát
giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và
điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, hoặc trong
trường hợp do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội khơng
cịn nguy hiểm cho xã hội nữa (Điều 27 BLHS 2015).
Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể
phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự, hành chính, dân sự hoặc
lao động hay biện pháp kỷ luật khác.
2.4.
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI
SẢN TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT
2.4.1. Chuẩn bị phạm tội:
"Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm
đó".
Trong quá trình chuẩn bị phạm tội, đối tượng tác động của tội phạm chưa bị biến đổi
tình trạng ban đầu, quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm chưa bị xâm hại, nhưng việc
chuẩn bị phạm tội là tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, nó hợp thành
một thể thống nhất với hành vi phạm tội, khách thể bị xâm hại như thế nào cũng 12 phụ
thuộc vào quá trình chuẩn bị phạm tội. Do đó có những hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm
tội cũng phải chịu chế tài nghiêm khắc của luật hình sự.
Điều 14 BLHS quy định: “ Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương

tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm..


×