Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Pháp luật về hoạt động đăng ký kết hôn thực tiễn tại ủy ban nhân dân xã đắk cấm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.23 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

The University

XAYAVATH SOMPHANE

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔNTHỰC TIỄN TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐẮK CẤM
Kon Tum, tháng 05 năm 2021


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM
• •____________•_____________________•

The University

XAYAVATH SOMPHANE

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔNTHỰC TIỄN TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐẮK CẤM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: CHÂU THỊ NGỌC TUYẾT
SINH VIÊN THỰC HIỆN : XAYAVATH SOMPHANE LỚP
: K11LK2
MSSV

: 17152380107112

Kon Tum, tháng 05 năm 2021


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm trong khoảng thời gian
thực tập, nghiên cứu đã giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình để em có thể hoàn thành đề tài báo
cáo “Pháp luật về hoạt động đăng ký kết hôn- Thực tiễn tại Ủy ban nhân dân xã Đăk
Cấm”. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Châu Thị Ngọc Tuyết, giảng viên khoa Sự


phạm và Dự bị đại học Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện báo cáo. Em cũng cũng xin gửi lời cảm ơn đến
các anh chị trong cơ quan đã tận tình giúp đỡ em trong suốt q trình thực tập và hồn
thành báo cáo. Đề tài báo cáo chỉ nhằm vào phân tích và hồn thiện, nội dung mang tính
lý thuyết và chủ quan dựa trên những dữ liệu thu thập được nên báo cáo này khơng tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy giáo, cơ giáo
trong hội đồng. Xin chân thành cảm ơn!
Kon Tum, ngày 3 tháng 6 năm 2021
Sinh viên thực hiện

XAYAVATH SOMPHANE


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài .....................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài..............................................................................2
5. Kết cấu đề tài............................................................................................................2
CHƯƠNG 1._TỔNG QUAN VỀ ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM..................3

1.1. LỊCH SỬ HÌNH HÌNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
ĐĂK
CẤM ................................................................................................................................. 3
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM........4
1.3. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM...8
KẾT CHƯƠNG 1.............................................................................................................9
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾT HÔN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN - THỰC TIỄN TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ
ĐĂK CẤM ..................................................................................................................... 10
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾT HÔN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐĂNG KÝ KẾT HÔN ..................................................................................................10
2.1.1. Khái quát về kết hơn .......................................................................................10
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về đăng kí kết hơn.............12
2.1.3. Quy định pháp luật về đăng kí kết hơn ...........................................................19
2.2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
XÃ ĐĂK CẤM ..............................................................................................................23
2.2.1. Tình hình đăng ký kết hôn tại xã Đăk Cấm trong những năm gần đây ...........23
2.2.2. Những thành tựu đạt được trong hoạt động đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân
xã Đăk Cấm ....................................................................................................................24
2.2.3. Những hạn chế trong hoạt động đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đăk
Cấm
......................................................................................................................................... 25
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ KẾT
HÔN TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM ......................................................28
2.3.1. Tăng cường hoàn thiện về thẩm quyền và hồ sơ đăng ký kết hôn ..................28
2.3.2. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho Cán bộ tư
pháp hộ tịch ..................................................................................................................... 29
2.3.3. Tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về đăng
ký kết hôn ........................................................................................................................ 30
KẾT CHƯƠNG 2...........................................................................................................31

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
UBND

Uỷ ban nhân dân

TTHC

Thủ tục hành chính

CBCC

Cán bộ cơng chức


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, đời sống hôn nhân gia đình ln là một vấn đề nhạy
cảm và phức tạp. Lĩnh vực hơn nhân gia đình đã được nhà nước ta quan tâm từ rất lâu thể
hiện qua các văn bản Luật điều chỉnh lĩnh vực này. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
thay thế cho Luật Hơn nhân và Gia đình 2000 đã có những quy định như thế nào về căn cứ
kết hơn.
Để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng vững mạnh, thì trước
tiên, mỗi cá nhân của xã hội phải là những công dân tốt. Như vậy, để thực hiện mục đích

cao cả này, điều quan trọng mà nhà nước phải thực hiện là bằng cách nào để mọi người
được một gia đình hạnh phúc, đây là nhu cầu cơ bản của con người. Ta có thể thấy gia
đình là hệ quả tất yếu của quá trình tìm hiểu và kết hơn. Để có một gia đình hạnh phúc thì
cuộc hơn nhân đó phải được xác lập theo đủng quy định của pháp luật, các bên phải đáp
ứng được tất cả các điều kiện kết hôn và phải đảm bảo quan hệ hơn nhân đó được xác lập
theo trình tự thủ tục do luật định. Việc xác lập quan hệ hôn nhân theo cách truyền thống
của mọi người trong xã hội như theo phong tục cưới mà khơng có đăng ký trước cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho dù quan hệ đó được mọi người cơng nhận nhưng pháp luật
lại không thừa nhận, như thế ảnh hưởng trực tiếp đến những người trong cuộc là điều
khơng tránh khỏi.
Từ tính cấp thiết trên, tác giả chọn đề tài: Pháp luật về hoạt động đăng ký kết hônThực tiễn tại Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Khi chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động đăng ký kết hôn- Thực tiễn tại Ủy ban nhân
dân xã Đăk Cấm” cho báo cáo tốt nghiệp của mình. Tác giả đã hướng đến việc tìm hiểu
hoạt động đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước cụ thể nhằm tìm hiểu sâu hơn về đề tài
của mình. Qua những kiến thức học tập tại nhà trường và thực tiễn giải quyết đăng ký kết
hôn trên thực tế, tác giả có thể vận dụng những hiểu biết của mình để đưa ra những ý kiến
cá nhân góp phần hồn thiện pháp luật về hơn nhân và gia đình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Khi nghiên cứu về đề tài này, tác giả tập trung tìm hiểu về những quy định của pháp
luật về hoạt động đăng ký kết hơn cũng như tìm hiểu thực tế về thủ tục đăng ký kết hôn
giữa công dân Việt Nam với nhau trên lãnh thổ Việt Nam tại Ủy ban nhân dân xã Đăk
Cấm. Từ đó, rút ra những điểm hạn chế cũng như thiếu sót trong q trình đăng ký kết
hơn. Đồng thời, đưa ra những ý kiến của cá nhân người viết, bên cạnh đó cũng học tập và
rút ra những kinh nghiệm cho cá nhân nhằm phục vụ tốt cho công việc sau này.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động đăng ký kết hôn tại UBND xã Đăk Cấm từ năm
2018 đến năm 2020.

1



4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp nghiên cứu và phân tích luật viết, đồng thời kết hợp
với các phương pháp như quy nạp, diễn dịch, phương pháp thu thập tài liệu, quá trình tìm
hiểu thực tế, phương pháp phân tích tổng hợp nhằm xử lý thơng tin, số liệu đã thu thập
được.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài được kết
cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm và
một số giải pháp.

2


CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN VỀ ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM
1.1. LỊCH SỬ HÌNH HÌNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
ĐĂK CẤM
Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm có địa chỉ: Thơn 8, xã Đăk Cấm, thành phố Kon Tum,
tỉnh Kon Tum.
Số điện thoại 02603865075.
Email:
UBND xã Đăk Cấm được thành lập tháng 8 năm 1976.
Vị trí địa lý: Xã Đăk Cấm nằm cách trung tâm thành phố Kon Tum 4 km về phía
Bắc, có địa giới hành chính: Phía Đơng giáp xã Đăk T're, huyện Kon Rẫy và xã Đăk Blà,
thành phố Kon Tum; phía Tây giáp xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum; phía Nam giáp

phường Duy Tân và phường Trường Chinh, thành phố Kon Tum; phía Bắc giáp xã Ngok
Wang và xã Ngok Réo, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum.
- Tổng diện tích tự nhiên của xã là 4.364,72 ha, trong đó:
+ Đất nơng nghiệp: 3.084,73 ha;
+ Đất phi nông nghiệp: 802,76 ha, trong đó: Đất ở: 216,86 ha; đất chuyên dùng:
444,02 ha; đất tơn giáo, tín ngưỡng: 0,12 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa: 5,22 ha; đất sông
suối và mặt nước chuyên dùng: 136,54 ha.
+ Đất chưa sử dụng: 47,23 ha.
- Dân số, lao động: Tổng quy mơ dân số tồn xã: 2.135 hộ, 8.677 người, trong đó:
+ Chia theo giới tính: Nam 4.514 người, chiếm 52,02%; nữ 4.163 người, chiếm
47,98%;
+ Chia theo dân tộc: Kinh 6.592 người, chiếm 75,97%; dân tộc thiểu số 2.580 người,
chiếm 24,03%.
- Mật độ dân số: 4.001 người/km2.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,8%.
- Tổng số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động tính đến ngày
31/12/2012: 4.391 người, trong đó:
+ Lao động phi nông nghiệp: 2.298 người, chiếm 52,33%;
+ Lao động nông nghiệp: 2.093 người, chiếm 47,67%.
Ơng Phạm Ngọc Quang - Phó Chủ tịch UBND xã Đăk Cấm cho biết: Mục tiêu về
đích nơng thơn mới vào tháng 6/2021 để chào mừng Đại hội Đảng bộ xã và Đại hội Đảng
bộ thành phố Kon Tum nhiệm kỳ 2020 - 2025 là nhiệm vụ hết sức khó khăn, khơng chỉ địi
hỏi sự quyết tâm cao và sự chung sức, đồng lòng của tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân
mà còn phải có sự quan tâm, đầu tư, hỗ trợ từ các cấp, các ngành, các nhà hảo tâm, doanh
nghiệp. Với tiêu chí số 2 về giao thơng, xã đang cần tập trung đầu tư 9.847 mét đường,
trong đó đường trục thơn là 1.992 mét, đường ngõ xóm 3.651 mét và đường nội đồng
3.612 mét với kinh phí dự kiến khoảng trên 10,3 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách nhà nước là
6,343 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 3,967 tỷ đồng.
Đối với tiêu chí số 9 về nhà ở dân cư, hiện nay trên địa bàn xã còn 12 nhà tạm dột



nát tại thôn 1, thôn 5 và thôn 7. Tổng nhu cầu kinh phí để xóa 12 nhà tạm là 720 triệu
đồng (bình quân mỗi nhà 60 triệu đồng). Hiện nay, UBND xã đang phối hợp với các ban,
ngành thực hiện các chương trình xóa nhà tạm khu dân cư, đề xuất với UBMTTQVN
thành phố Kon Tum tăng cường công tác huy động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
đóng chân trên địa bàn thành phố Kon Tum hỗ trợ kinh phí để xóa nhà tạm cho các hộ gia
đình chính sách và hộ nghèo, tuy nhiên việc huy động gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì
vậy, tiêu chí về nhà ở khó đạt trong tháng 6/2021.
Đối với tiêu chí số 15 về y tế, trong đó chỉ tiêu của mục 15.1 về tỷ lệ người dân tham
gia bảo hiểm y tế, hiện nay trên địa bàn xã có 4.893/5.849 thẻ BHYT, chiếm tỷ lệ 83,6%.
Hiện, xã còn thiếu 80 thẻ BHYT nữa để đạt tỷ lệ theo quy định là đạt từ 85% trở lên. Chỉ
tiêu này, xã đang huy động các đại lý bán BHYT tự nguyện trên địa bàn xã, cán bộ công
chức và các mạnh thường quân tham gia đóng góp mua thẻ BHYT cho các gia đình khó
khăn và các hộ đồng bào DTTS chưa có thẻ BHYT. Đối với tiêu chí số 18 về hệ thống
chính trị và tiếp cận pháp luật, Đảng bộ xã Đăk Cấm đang phấn đấu đạt trong sạch vững
mạnh trong năm 2021.
Thời gian để UBND xã Đăk Cấm hoàn thành mục tiêu đạt chuẩn nơng thơn mới
khơng cịn nhiều. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Đăk Cấm đang đứng trước rất
nhiều khó khăn do tình hình dịch bệnh Covid-19, hạn hán, giá mủ cao su xuống thấp, đời
sống người dân gặp nhiều khó khăn nên việc huy động người dân đóng góp tiền để xây
dựng nơng thơn mới cũng gặp khó khăn. Vì vậy, để cán đích đúng hẹn, ngoài sự nỗ lực, cố
gắng, quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và sự chung sức của người dân, Đăk Cấm rất
cần sự quan tâm, ủng hộ của các cấp, các ngành, sự chung tay của các doanh nghiệp.
Từ ngày thành lập Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm đến nay, qua nhiều giai đoạn lịch
sử, xã Đăk Cấm đã trải qua những giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc
riêng và ngày càng phát triển; để có được những thành quả đó, một phần là do nỗ lực phấn
đấu của cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn, một phần rất quan trọng là xã đã
tranh thủ được sự lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương quan tâm chỉ đạo về tinh thần,
về cơ sở, vật chất, trang thiết bị, tạo điều kiện cho xã tồn tại và phát triển. Xã ln giữ mối
quan hệ đồn kết và giúp đỡ nhau với các xã để phối hợp cùng nhau xây dựng xã ngày

càng phát triển vững mạnh.
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM 7 • •
Cấp xã là một đơn vị hành chính nhà nước cấp thấp nhất ở địa phương, bao gồm các
tên gọi là xã, phường hoặc thị trấn. Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, là cơ quan hành chính nhà nước thuộc nhánh quyền lực hành pháp tại địa
phương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Chức năng của UBND xã Đăk Cấm
Chức năng chính của Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm đó là quản lý hành chính nhà
nước trên địa bàn xã trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và an ninh quốc phịng theo các chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và theo sự phân công chỉ đạo thực
hiện của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Qua đó, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo
đảm quyền và nghĩa vụ cơng dân, góp phần xây dựng đời sống vật chất và tinh thần trong


sáng, vững mạnh cho người dân.
Các chức năng cụ thể bao gồm:
- Tổ chức và hướng dẫn cho nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội trên địa bàn thực hiện tốt các chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước. Tạo điều kiện cho nhân dân làm ăn và phát triển kinh tế địa phương, nắm bắt rõ các
tâm tư, nguyện vọng của người dân để nhanh chóng giải quyết hoặc phản ánh lên cấp trên.
- Kiểm tra và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của đảng và nhà
nước tại các cơ quan, tổ chức ở địa phương.
- Tổ chức thực hiện tốt các kế hoạch về kinh tế xã hội và kế hoạch ngân sách xã
được Ủy ban nhân dân cấp huyện giao hằng năm. Xây dựng dự tốn ngân sách năm sau
trình UBND huyện phê duyệt.
Nhiệm vụ của UBND xã Đăk Cấm
UBND xã Đăk Cấm có các nhiệm vụ sau đây:
Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm thực hiện những nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
1. Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân

cùng cấp thơng qua để trình Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch
đó;
2. Lập dự tốn thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa
phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; dự tốn điều chỉnh ngân sách
địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp
trên trực tiếp;
3. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp
trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã, thị trấn và báo cáo về ngân
sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
4. Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu
cơng ích ở địa phương; xây dựng và quản lý các cơng trình công cộng, đường giao thông,
trụ sở, trường học, trạm y tế, cơng trình điện, nước theo quy định của pháp luật;
5. Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các cơng
trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện. Việc quản lý các
khoản đóng góp này phải cơng khai, có kiểm tra, kiểm sốt và bảo đảm sử dụng đúng mục
đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu thủ công
nghiệp, Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án khuyến
khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất và hướng
dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy
hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh dịch đối với cây trồng và vật ni;
2. Tổ chức việc xây dựng các cơng trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ, bảo vệ
đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp


thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương;
3. Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn theo quy định của
pháp luật;

4. Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền thống ở
địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ để phát triển các ngành,
nghề mới.
Trong lĩnh lực xây dựng, giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thực hiện việc xây dựng, tu sửa đường giao thông trong xã theo phân
cấp;
2. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ ở điểm dân cư
nông thôn theo quy định của pháp luật, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về xây dựng và
xử lý vi phạm pháp luật theo thẩm quyền do pháp luật quy định;
3. Tổ chức việc bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm đường giao thông và
các công trình cơ sở hạ tầng khác ở địa phương theo quy định của pháp luật;
4. Huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng đường giao thông,
cầu, cống trong xã theo quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá và thể dục thể thao, Uỷ ban nhân dân
xã Đăk Cấm thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với
trường học huy động trẻ em vào lớp một đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc
văn hoá, thực hiện xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi;
2. Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo,
trường mầm non ở địa phương; phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp trên quản lý trường tiểu
học, trường trung học cơ sở trên địa bàn;
3. Tổ chức thực hiện các chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hố gia đình
được giao; vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh; phịng, chống các dịch bệnh;
4. Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao; tổ chức
các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hố và danh
lam thắng cảnh ở địa phương theo quy định của pháp luật;
5. Thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ,
những người và gia đình có cơng với nước theo quy định của pháp luật;
6. Tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo; vận động nhân dân giúp đỡ các gia

đình khó khăn, người già cơ đơn, người tàn tật, trẻ mồ cơi khơng nơi nương tựa; tổ chức
các hình thức ni dưỡng, chăm sóc các đối tượng chính sách ở địa phương theo quy định
của pháp luật;
7. Quản lý, bảo vệ, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; quy hoạch, quản lý nghĩa địa ở địa
phương.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thi hành pháp luật ở
địa phương, Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục xây dựng quốc phòng toàn dân, xây dựng làng xã


chiến đấu trong khu vực phòng thủ địa phương;
2. Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch; đăng ký, quản
lý quân nhân dự bị động viên; tổ chức thực hiện việc xây dựng, huấn luyện, sử dụng lực
lượng dân quân tự vệ ở địa phương;
3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; xây dựng phong
trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh; thực hiện biện pháp phòng ngừa và
chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương;
4. Quản lý hộ khẩu; tổ chức việc đăng ký tạm trú, quản lý việc đi lại của người nước
ngoài ở địa phương.
Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo, Uỷ ban nhân dân xã
Đăk Cấm có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, chính
sách tơn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định
của pháp luật.
Trong việc thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân xã Đăk Cấm thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm pháp luật và
tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật;
2. Tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo
thẩm quyền;
3. Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thi hành

án theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện các quyết định về xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật.
Trong năm 2021, Đảng ủy, UBND xã Đăk Cấm tiếp tục quan tâm thực hiện tốt công
tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC), đáp ứng nguyện vọng của tổ chức, cá nhân. Kết
quả lấy ý kiến khảo sát gần đây cho thấy người dân đã bày tỏ sự hài lòng cao về thái độ
phục vụ và cách thức giải quyết các loại TTHC của cán bộ, công chức (CBCC) tại bộ phận
“một cửa” của UBND xã.
Từ sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, cơng tác cải cách hành chính (CCHC) ở
xã Đăk Cấm trong thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tốt. Bộ phận “một cửa” của xã đã
được nâng cấp đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu giải quyết TTHC cho tổ chức, cá nhân.
Ông Nguyễn Yên- Chủ tịch UBND xã Đăk Cấm cho biết để tạo sự hài lòng cho người dân,
UBND xã đã xây dựng kế hoạch cải cách TTHC bài bản, xác định rõ trách nhiệm của từng
bộ phận, từng cán bộ phụ trách. Trong kế hoạch chung, UBND xã đã mạnh dạn cải cách
TTHC gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận
“một cửa” theo mơ hình “Một cửa, một cửa liên thơng hiện đại”. Từ đó, đã nâng cao chất
lượng phục vụ, cơng tác giải quyết TTHC, bảo đảm nhanh chóng, thuận tiện, tạo sự hài
lòng cho người dân.
Cùng với việc xây dựng hệ thống bộ phận “một cửa” hiện đại, UBND xã Đăk Cấm
sẽ chú trọng thực hiện hiệu quả mơ hình “Chính quyền, cơng sở thân thiện” theo phương
châm “5 biết, 3 thể hiện” gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh. Từng CBCC phấn đấu thực hiện với mục tiêu xây dựng chính quyền gần


dân, trọng dân, hiểu dân, thân thiện với nhân dân. Song song đó, UBND xã Đăk Cấm cịn
chú trọng cơng tác tuyên truyền cải cách TTHC; đẩy mạnh triển khai thực hiện chương
trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2015-2025 theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP của
Chính phủ, bảo đảm hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ CCHC thành phố trong giai đoạn
II (2020-2025).
1.3. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK CẤM
Để quản lý điều hành mọi hoạt động đời soomhs kinh tế - xã hội diễn ra thuận lợi và

tuân thủ đúng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà Nước. Thực hiện
theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Nghị định số 121/2003/NĐ - CP
ngày 21/10/2003 của chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phương, thị trấn và Nghị 114/2003/NĐ - CP ngày 10/10/2003 của chính phủ về cán bộ,
coongn chức xã, phương, thị trấn. Tại kỳ hợp đầu tiên của Hội đồng nhân dân xã khóa
2016 - 2021 đã bầu ra 3 ủy viên của UBND xã bao gồm:
- Chủ tịch: Phụ trách chung và phụ trách khối nội chính
- Phó Chủ tịch: Phụ trách Nơng - Lâm - Ngư nghệp, văn hóa - xã hội và các lĩnh vực
xã hội khác.
Ngoài ra của bộ máy của UBND xã Đắk Cấm có các cán bộ chun mơn, các đơn vị
sự nghiệp, đơn vị thuộc ngành dọc để giúp UBND thực hiện cchucws năng quản lý nhà
nước tại địa phương.
Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đăk
Cấm:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm là người đứng đầu Ủy ban nhân dân, lãnh
đạo và điều hành mọi công việc của Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình theo quy định tại Điều 36 Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015; đồng thời cùng Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của
Ủy ban nhân dân trước Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện.
Lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân
dân xã;
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân xã; thực hiện các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an tồn
xã hội, đấu tranh, phịng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng,
chống quan liêu, tham nhũng; tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan,
tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp
pháp khác của công dân; thực hiện các biện pháp quản lý dân cư trên địa bàn xã theo quy
định của pháp luật;
Thực hiện nhiệm vụ phụ trách quản lý tài chính, địa chính, nội chính theo quy định

của pháp luật, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền.
Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân xã
Đăk Cấm:
Tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển nông


nghiệp nông thôn theo khối công việc (Y tế, giáo dục và văn hoá - xã hội...) của Uỷ ban
nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và những công việc do Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân ủy nhiệm khi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đi vắng. Quản lý hành chính tại cơng sở,
giám sát đội ngũ cán bộ và công chức cấp xã trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch ủy ban nhân dân giao.

KẾT CHƯƠNG 1
Đăk Cấm là vùng đất thuận lợi, một xã có vị trí ảnh hưởng đến sự phát triển của
Thành phố Kon Tum. Trong thời gian qua, xã Đăk Cấm đã và đang được Tỉnh, Thành phố
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch khu dân cư như hệ thống điện, nước sạch,
trường học, trạm y tế, đường được nhựa hố. Do đó, tốc độ đơ thị hố và bộ mặt địa
phương ngày càng đổi thay nhanh chóng.
Chương 1, tác giả trình bày, đánh giá về tổng quan của Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm
cụ thể như: Lịch sử hình hình và phát triển của Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm; Chức năng,
nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã Đăk Cấm; Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân
xã Đăk Cấm.


CHƯƠNG 2.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾT HÔN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐĂNG KÝ KẾT HÔN - THỰC TIỄN TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ ĐĂK
CẤM
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾT HÔN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐĂNG KÝ KẾT HƠN

2.1.1. Khái qt về kết hơn
a. Khái niệm
Trên thực tế, có nhiều cách hiểu khác nhau về hôn nhân. Hôn nhân thường là sự kết
hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ được gọi là vợ. Hôn
nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp
pháp. Hôn nhân thường là kết quả của tình yêu nam nữ.
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Luật Hơn nhân gia đình năm 2014, khái niệm hôn nhân được
hiểu là: Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn.
Trên cơ sở khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình hiện hành, hơn nhân được xem là
kết quả của tình yêu, là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một
người phụ nữ được gọi là vợ. Đây là sự kết hợp giữa nam và nữ về tình cảm, xã hội, giới
tính, tơn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông
và phụ nữ, cho phép nam nữ sống chung với nhau đồng thời đặt ra các quy định về quyền
lợi và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau. Trên thực tế, lễ cưới hỏi thường được xem là sự
kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu của hôn nhân. Tuy nhiên, về mặt luật pháp, hôn nhân
bắt đầu từ việc đăng ký kết hôn, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo
quy định pháp luật khi đủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền.
Đồng thời, theo quy định Điều 36 Hiến pháp 2013, hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, tiến bộ, là chế độ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau.
Các quốc gia trên thế giới tồn tại nhiều kiểu hôn nhân khác nhau như hôn nhân một vợ
một chồng, hôn nhân nhiều vợ nhiều chồng, hôn nhân đa thê, hôn nhân đồng tính, nam nữ
sống chung như vợ chồng,... Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ công nhận chế độ
hôn nhân một vợ một chồng. Đối với hôn nhân giữa những người cùng giới tính, mặc dù
khơng cấm nhưng Nhà nước vẫn khơng thừa nhận hơn nhân đồng giới.
Mục đích cơ bản nhất và quan trọng nhất của hôn nhân là việc sinh sản, nuôi dưỡng
và giáo dục con cái của vợ chồng. Hơn nhân góp phần duy trì nịi giống, đảm bảo tương lai
tồn tại của cả một dân tộc.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Kết hơn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ
chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 và đăng
kí kết hơn được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Kết hơn được

xem như một giao dịch pháp lý được tiến hành một cách long trọng, giao dịch này khi xác
lập phải tuân theo các quy định nghiêm ngặt của pháp luật về kết hôn. Trước khi xác lập
một quan hệ hôn nhân, các điều kiện về nội dung của việc kết hôn phải được cơ quan Nhà
nước kiểm tra một cách chặt chẽ thông qua các thủ tục về đăng kí kết hơn.


Việc xác định các điều kiện về kết hơn có ý nghĩa rất quan trọng. Trong khung cảnh
Luật Việt Nam quy định thì các điều kiện về kết hơn là những nguyên tắc mang tính mệnh
lệnh, bắt buộc phải tuân theo những điều kiện đó. Việc khơng tn thủ theo các quy định
về điều kiện kết hơn, thì hơn nhân đó bị coi là trái pháp luật và có thể bị hủy, quan hệ hôn
nhân sẽ không được thừa nhận. Vì thế, sẽ khơng làm phát sinh các hệ quả pháp lý của
quan hệ hôn nhân.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có điều khoản nào nêu lên khái
niệm về đăng kí kết hơn. Dù Luật khơng có định nghĩa về đăng kí kết hơn nhưng ta có thể
hiểu: Đăng kí kết hơn là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận sự kiện kết hơn
vào sổ đăng kí kết hơn và trao cho mỗi bên nam, nữ một bản chính Giấy chứng nhận kết
hơn. Việc kết hôn sẽ thực hiện theo nghi thức được thể hiện trong các quy định về kết hôn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014: “Hai bên nam, nữ nộp
tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt
khi đăng ký kết hơn”. Sự có mặt của họ khi đăng ký kết hơn là bắt buộc, vì chỉ khi có mặt
của họ mới biết được sự tự nguyện kết hơn có được đảm bảo hay không và sự tự nguyện
này phải được thể hiện trước sự có mặt người đại diện của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về đăng ký kết hơn. Chỉ khi như vậy, thì pháp luật mới có đủ căn cứ để xác định và
bảo vệ quyền, nghĩa vụ của vợ; chồng và các thành viên trong gia đình.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 như sau: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hơn theo
quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì
khơng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Quan hệ hôn nhân phát sinh khi
việc kết hôn này phải được tiến hành tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đăng ký kết
hơn theo một trình tự, thủ tục do Luật quy định. Những trường hợp mà việc đăng ký kết
hôn khơng do Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thì khơng có giá trị pháp lý và

các bên sẽ khơng được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Tổ chức kết hơn có sự chứng kiến của
nhiều người nhưng khơng đăng kí kết hơn theo quy định của pháp luật, kết hơn theo phong
tục, tập qn có sự đồng ý của trưởng làng, già làng,...
Để phát sinh quan hệ giữa vợ và chồng thì các bên phải có điều kiện để kết hơn theo
quy định của pháp luật. Ngồi việc đảm bảo các điều kiện kết hơn, thì việc đăng ký kết
hơn phải tiến hành theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
b. Đặc điểm của kết hôn
- Kết hôn là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ - là hôn nhân một vợ
một chồng.
- Kết hôn là sự liên kết trên cơ sở tự nguyện của hai bên nam nữ: Hai bên nam nữ có
quyền tự mình quyết định việc kết hôn, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối và cũng
không bị cản trở. Sau khi kết hôn, việc duy trì hay chấm dứt quan hệ hơn nhân dựa trên sự
tự nguyện của mỗi bên vợ, chồng.
- Các bên tham gia quan hệ hôn nhân phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Khi
kết hôn, các bên phải tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Khi
chấm dứt hôn nhân (do ly hôn, do vợ hoặc chồng chết, do vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên
bố là đã chết) phải dựa trên những căn cứ pháp lý được pháp luật quy định.


2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về đăng ký kết hôn
Luật cổ và luật tục
Ở nước ta dưới thời phong kiến trước đây, pháp luật của Nhà nước phong kiến quy
định về trình tự; thủ tục đăng ký kết hôn rất hạn chế. Trong luật cổ phong kiến Việt Nam
có nhiều tục lệ đính hơn, cuộc hơn nhân có giá trị pháp lý sau lễ đính hơn, sau khi nhà gái
nhận sính lễ của nhà hỏi cưới. Pháp luật hơn nhân và gia đình thời phong kiến quy định
hạn chế cũng bởi vì trong giai đoạn này quyền tự do kết hôn không được nhắc đến. Áp
dụng theo đường lối Nho giáo của phong kiến phương Đơng thì hơn nhân trong thời kì này
phải được thực hiện theo nguyên tắc “BẢNG 2: ĐƠN GIÁ khơng tự nguyện, một chồng
nhiều vợ, vợ chồng khơng bình đẳng.”
Các chế định về hơn nhân và gia đình trong Luật cổ được quy định chủ yếu trong hai

Bộ luật đó là Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Trong hai Luật này em sẽ tìm hiểu
về thủ tục kết hơn hay cịn gọi là nghi thức kết hôn cũng như một số đặc điểm nổi bật về
hôn nhân trong thời kỳ này.
Nghi thức kết hơn trong thịi kỳ này phải được thực hiện trang trọng, phải thông qua
bốn lễ, vói lễ vật theo luật định. Ngày 23 tháng chạp năm Mậu Tuất vua Lê Thánh Tông đã
quy định về việc kết hơn phải qua bốn lễ đó là Nghị hôn (nhờ mối lái bàn định), Định thân
(đem lễ vật vấn danh đến nhà gái), Nạp trưng (đem đủ sính lễ dẫn cưới đến nhà gái), Thân
nghinh (đón dâu). Lễ vật đem đến nhà gái được quy định khác nhau đối với quan viên và
thường dân.
Điều 314 Bộ luật Hồng Đức quy định ai muốn cưới vợ thì phải đưa sính lễ đến nhà
cha mẹ đàng gái, trong trường hợp cha mẹ nhà gái chết hết thì đem đến nhà người trưởng
tộc hay trưởng làng để xin cưới. Việc đính hơn thơng qua nạp trưng sính lễ có giá trị pháp
lý ràng buộc trách nhiệm của hai bên trong việc hứa hơn. Ngồi ra ở Điều 314 cịn quy
định nếu thành hơn cẩu thả thì bị biếm một tư và phải nộp tiền tạ còn gọi là tiền xin lồi cho
bên đàng gái theo luật sang hèn. Còn nếu thành hơn mà cha mẹ chết hết thì phải nộp tiền tạ
lồi ấy cho người trưởng tộc hay trưởng làng, ngồi ra, người con gái cịn bị đánh 50 roi.
Bộ luật Hồng Đức chú trọng về mặt hình thức đó là việc bên muốn cưới vợ phải đưa sính
lễ và đây là thủ tục bắt buộc.
Ngoài ra Điều 315 còn quy định nếu đã gả con gái mà nhận đồ sính lễ rồi, ví dụ như:
các món vàng vịng, tiền bạc, lụa, heo, rượu mà lại thôi không chịu gả nữa thì bị đánh 80
trượng. Trong xã hội phong kiến này, việc nhà gái đồng ý gả và đã nhận các món sính lễ
mà trả lại thì danh dự bên hỏi cưới sẽ bị tổn thất. Nếu đem gả cho người đã có vợ thì xử đồ
làm khao đinh. Khơng biết thì sẽ khơng bị tội, con gái ấy phải gả cho người hỏi cưới
trước, nếu người hỏi cưới trước khơng cưới thì phải đền sính lễ gấp đơi cho nhà gái, người
con gái ấy sẽ được gả cho người hỏi cưới sau, nểu đàng trai khơng cưới thì bị phạt 80
trượng và bị mất sính lễ. Điều 94 Bộ luật Gia Long cũng quy định tương tự.
Con gái hứa gả nhưng chưa làm lễ cưới, nếu người con trai có ác tật hay phạm tội
nào đó, hoặc chơi bời lêu lổng, phá gia sản thì người con gái được phép báo lên quan ti để
trả đồ lễ cưới. Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội thì khỏi phải trả đồ lễ. Nếu làm



trái luật này thì đánh 80 trượng được quy định tại Điều 322 Bộ luật Hồng Đức. Trường
hợp đôi nam nữ tự ý chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng qua lễ nghi theo luật
định thì họ được coi như “cẩu hợp ” khi đó người con trai phải nộp tiền tạ lỗi cho cha mẹ
người con gái, đồng thời người con gái phải bị phạt 50 roi, như thế cuộc hôn nhân của họ
mới xem là hợp pháp và được xã hội chấp nhận. Neu người con trai và người con gái
thông dâm trước với nhau “tiền dâm hậu thủ ” thì người con trai sẽ bị luận tội đồ và bị
đánh 80 trượng, người con gái sẽ bị đánh 50 roi và không được xem là hôn nhân họp pháp.
Trong giai đoạn này, pháp luật nhà nước phong kiến đã phản ánh chân thật và sâu sắc
xã hội lúc bấy giờ, trong bộ luật này, thông qua những thủ tục kết hôn cho thấy nhà làm
luật đã xem trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ. Sự bình đẳng giữa vợ chồng được
thể hiện một cách rõ nét như Điều 322. Ngoài ra, trong hơn nhân người phụ nữ cũng có thể
u cầu xin ly hôn trong trường hợp người chồng không chăm nom, săn sóc vợ trong năm
năm hoặc một năm nếu vợ đã có con. Điều 108 Bộ luật Gia Long quy định nếu chồng mất
tích hoặc bỏ trốn ba năm thì người vợ được trình quan xin phép được cải giá. Chồng được
lấy vợ lẽ và có thể lấy nàng hầu đối với các gia đình giàu có, quan lại, nhưng nếu lấy nàng
hầu và quá say đắm với nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì bị phạt được quy định tại Điều 309
Bộ luật Hồng Đức. Luật Gia Long cũng quy định phạt cả gian phu, dâm phụ nhưng có một
điều bất cơng là cho phép người chồng có quyền gả bán vợ (đã phạt gian) cho người khác
được quy định tại Điều 320 Bộ luật Hồng Đức.
Ngoài ra, quyền bình đắng giữa vợ và chồng thể hiện khá rõ nét trong việc phân chia
tài sản. Điều 375 Luật Hồng Đức quy định người vợ góa được hưởng hoa lợi suốt đời đối
với phần tài sản được chia từ tài sản mà chồng được thừa kế, đối với tài sản do vợ chồng
làm ra thì được chia đơi, vợ được một phần làm của riêng, phần của chồng được chia ra
làm ba, một để lo cho phần tể tự và mộ phàn, hai phần để lại cho vợ hưởng hoa lợi. Nếu
vợ chết hay tái giá thì hai phần này đưa về lo cho tế tự và mộ phần của chồng.
Bên cạnh đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long cũng có quy định về các trường
hợp mà người chồng được quyền bỏ vợ, phụ vợ, trả về gia đình vợ, đó là: khơng có con,
dâm đảng, không phụng sự bố mẹ chồng, lắm lời, trộm cắp, ghen tuông, bị ác tội. Luật
cũng quy định các trường hợp mà chồng khơng được bỏ vợ đó là: khi vợ đã để tang bố mẹ

chồng ba năm; khi lấy nhau, vợ chồng nghèo, sau đó giàu có; khi lấy nhau, vợ cịn bà con,
họ hàng, nay vợ khơng cịn bà con họ hàng nào để trở về. Vì thế, dù vợ có phạm vào một
trong các điều thất xuất mà người vợ nằm trong ba trường họp người chồng khơng thể bỏ,
nếu người chồng cố tình bỏ vợ thì bị phạt 60 trượng.
Về việc thuận tình ly hơn, Bộ luật Gia Long quy định nếu vợ, chồng không cùng
sống vui vẻ, hòa thuận mà cả hai muốn ly dị thì họ có thể bỏ nhau mà khơng bị pháp luật
buộc tội.
Nhìn chung, qua các quy định về hơn nhân, người phụ nữ Việt Nam cũng như người
phụ nữ phương Đơng ln phải sống khép mình trong các quan điểm và lễ nghĩa khắt khe
của phong kiến. Trong Bộ luật Hồng Đức có những điều luật sáng tạo nhằm tạo điều kiện
cho người phụ nữ được một phần nào đó chủ động trong việc kết hôn, trong thời gian
chung sống với chồng cũng như trong việc ly hôn. Luật nhà Lê luôn tạo điều kiện nâng


cao sự bình đẳng giữa nam và nữ trong cái xã hội lúc nào cũng theo quan niệm “trọng nam
khinh nữ”.
Pháp luật về hơn nhân và gia đình ở nước ta thời xưa đại bộ phận chịu ảnh hưởng
của nền văn hóa và pháp luật phương Bắc, trong q trình tiếp thu các nhà làm luật đã biết
kế thừa có chọn lọc và có nhiều sáng tạo. Đồng thời nó cũng đi sâu vào đời sống người
dân qua quá trình áp dụng lâu dài và một bộ phận nào đó nó đã trở thành phong tục tập
quán của nước ta. Qua các thời kỳ sau, pháp luật lại có sự thay đổi do xã hội thay đồi,
pháp luật thời trước đó khơng cịn hiệu lực thi hành, nhưng nó vẫn được mọi người làm
theo trong cách xử sự. Pháp luật nhà nước Pháp thuộc và các chế độ sau này vẫn dựa vào
Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long và các tục lệ để giải quyết các vấn đề phát sinh trong
lĩnh vực hơn nhân và gia đình.
Luật cận đại
Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta. Nam kỳ là thuộc địa của
Pháp, Trung kỳ và Bắc kỳ nằm dưới sự bảo hộ của Pháp. Trong thời kỳ này, các văn bản
luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình chủ yếu là nhà
nước thực dân phong kiến ban hành nhằm tăng cường bộ máy cai trị của chúng trên đất

nước chúng ta. Song song đó, nhà nước thực dân phong kiến vẫn tiếp tục duy trì một phần
pháp luật của nhà nước phong kiến trước đó. Vì thể, chế độ hơn nhân và gia đình cũng
thay đổi theo vừa thể hiện bản chất Tây phương theo Pháp vừa giữ lại những luật lệ của lễ
giáo phong kiến trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình.
Pháp luật hơn nhân và gia đình thời Pháp thuộc bao gồm ba Bộ luật dân sự lần lượt
ra đời ở ba kỳ. Ớ Nam kỳ và ba thành phố được gọi là nhượng địa bao gồm Hà Nội, Hải
Phịng, Đà Nang thì có Bộ Dân luật giản yếu (Precis de la legislation civile annamite). Bộ
luật này phỏng theo Bộ luật dân sự của Pháp năm 1804, tuy nhiên, Bộ luật này có nhiều
thiếu sót trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình, nên chủ yếu là áp dụng đến tục lệ, Bộ luật
Hồng Đức, Bộ luật Gia Long. Bộ Dân luật Bắc hay còn gọi là Bộ dân luật thi hành tại các
tòa Nam án Bắc kỳ ban hành năm 1931. Chế định hơn nhân và gia đình nằm trong quyển
thứ nhất được biên soạn năm 1917. Bộ luật Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật thường được gọi
tắt là Bộ luật Trung kỳ ban hành năm 1936 đến năm 1939, ở bộ luật này các chế định về
hơn nhân và gia đình có một số thay đổi nhưng cơ bản nó cũng gần giống như Bộ Dân luật
Bắc.
Quan hệ hôn nhân thời Pháp thuộc là quan hệ hôn nhân được xác lập theo ngun tắc
khơng có sự tự ngun hồn tồn, quan hệ hơn nhân một chồng nhưng người chồng có thể
có nhiều vợ, vợ chồng khơng bình đăng. Cả ba bộ luật thời Pháp thuộc đều công nhận một
chồng nhưng nhiều vợ. Một người đàn ơng có thể có một vợ cả và sau đó có thể cưới thêm
nhiều vợ lẽ, nhưng khi cưới vợ lẽ thì phải có vợ cả và phải được sự đồng ý cùa người vợ
cả. Đây là chế độ hơn nhân gia đình theo thời qn chủ phong kiến của nước ta trước đây
pha lẫn một phần pháp luật của phương Tây, cụ thể là nước Pháp.
Nghi thức kết hôn trong thời kỳ này được tiến hành hai bước.
Thứ nhất, phải làm lễ hỏi (ước hôn). Lễ hỏi được tiến hành là thời điểm ữao nhận
sính lễ. Lễ hỏi cưới chỉ có giá trị pháp lý khi nào mà cha mẹ người con trai đã đưa lễ vật


đến nhà của cha mẹ người con gái một cách long trọng. Sau đó, hai bên định ngày cưới
trong một thời gian nhất định. Bộ Dân luật Trung quy định, từ ngày làm lễ hỏi đến ngày
làm lễ cưới thì khơng được q 6 tháng, trừ khi có lý do chính đáng mà khơng tiến hành lễ

cưới được, ví dụ như: đau ốm hay gia đình có tang.
Nghi thức kết hôn ở nước ta vào thời kỳ này chưa thống nhất bởi phần nào chịu ảnh
hưởng của tục lệ phong kiến và chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương Tây. Theo Dân
luật giản yếu thì khơng cơng nhận lễ hỏi có giá trị pháp lý, tức lễ hỏi sẽ không thể hiện
được sự ràng buộc giữa hai bên nam và nữ, sau đó hai bên phải làm giá thú.
Thứ hai, phải làm lễ cưới hay cịn gọi là hơn lễ. Hôn lễ phải được tiến hành theo
phong tục tập quán của chế độ quân chủ phong kiến trước đây. Ngồi ra, cần phải khai báo
với chính quyền nơi nhà trai và nhà gái cư trú để làm các thủ tục về công bố để mọi người
biết về quan hệ hôn nhân giữa hai người này. Trong 8 ngày phải làm thủ tục cơng bố, sau
đó phải đăng ký vào sổ hộ tịch hay còn gọi là bộ giá thủ.
Điểm nổi bật trong nghi thức kết hôn khi chịu ảnh hưởng của pháp luật phương Tây
là hai bên muốn kết hơn thì phải đen chính quyền địa phương làm thủ tục đăng ký kểt hơn
hay cịn gọi là làm giấy hôn thú. Ớ Việt Nam, đây là lần đầu tiên mà việc kết hôn phải
thông qua thủ tục đăng ký tại chính quyền.
Dân luật giản yếu quy định có hai cách thức kết hơn. Đó là khi kết hơn thì bắt buộc
phải tiến hành hôn lễ theo tục lệ hay cịn gọi là hình thức kết hơn theo kiểu Việt Nam.
Trong khi đó việc kết hơn mà thủ tục kểt hơn khơng cần tiến hành theo tục lệ hay cịn gọi
là kết hôn theo kiểu Pháp (do ảnh hưởng bởi pháp luật nước Pháp).
Theo Dân luật giản yếu, sau khi hai bên đã định ngày cưới, hai người chù hôn phải
thông báo cho người tiến hành đăng ký vào sổ hộ tịch (viên hộ lại) cùa địa phương nơi nhà
trai và nhà gái cư trú, sau đó họ sẽ khai một số thông tin về tên, tuổi, nơi ở, cha mẹ, người
chủ hôn và người mai mối để viên hộ lại niêm yết và treo trước phòng hộ tịch và công bố
trong thời hạn 8 ngày. Làm xong tất cả các thù tục đăng ký này mới tiến hành làm lễ kết
hơn (cử hành hơn lễ). Sau đó hai vợ chồng cùng cha mẹ, người chù hôn, người mai mối
đến phòng hộ tịch để khai với viên hộ lại và họ phải cùng ký tên vào sổ giá thú.
Thủ tục đăng ký kết hơn như trên thì bắt buộc phải tiến hành lễ cưới theo tục lệ, bởi
khơng có lễ cưới theo tục lệ thì khơng thể lập hơn thú được. Nhưng nếu chỉ có lễ cưới thơi
thì cũng khơng thể chứng minh được việc kết hôn được thực hiện đúng pháp luật. Có thể
nói giấy hơn thú là cơ sở để cơng nhận tính họp pháp của hơn nhân, nếu khơng có giấy hơn
thú thì quan hệ vợ chồng chua thiết lập.

Tuy nhiên, Dân luật giản yểu cũng thừa nhận trong truờng họp nếu các nghi lễ theo
phong tục nhu tiến hành lễ cuới khơng đuợc diễn ra thì cuộc hôn nhân giữa nam và nữ
cũng đuợc công nhận. Điều này chỉ đúng trong trường hợp khi hai người chủ hôn báo cho
viên hộ lại về một số chi tiết liên quan đến nam nữ, viên hộ tịch sẽ niêm yết và công bố
trong thời hạn 8 ngày. Giá thú sẽ được làm trước mặt viên hộ lại của địa phương nơi cư trú
của bên nam hoặc bên nữ. Viên hộ tịch đọc những thông tin liên quan đến hai bên nam nữ
trước mặt họ cũng như trước mặt những người thân của họ tại phòng hộ tịch, sau đó viên
hộ lại hỏi cả lần lượt cả nam và nữ có đồng ý lấy nhau khơng. Neu cả hai người trả lời


đồng ý thì viên hộ lại tuyên bố họ là vợ chồng.
Dân luật giản yếu năm 1884 ở Nam kỳ khi tiến hành thủ tục kết hôn, mà hôn lễ được
tiến hành có làm lễ nghi theo tục lệ hay khơng, hay chỉ đăng ký với chính quyền khi đã
cơng khai họp pháp thì nó cũng được mọi người áp dụng. Tuy luật quy định hai trường
họp như thế nhưng ở Nam Kỳ thì trên thực tế người dân chỉ áp dụng thủ tục kết hôn theo
kiểu Việt Nam, tức việc kết hôn phải tiến hành theo tục lệ mà xưa nay Việt Nam áp dụng.
Cịn hình thức kết hơn theo kiểu Pháp thường ít được áp dụng, bởi pháp luật Việt Nam chỉ
mới bị ảnh hưởng trong khoảng thời gian khơng gọi là dài; do đó, nó khó có thể làm thay
đổi cách sống trong xã hội người Việt Nam.
Trong khi đó, ở Bắc kỳ và Trung kỳ theo Điều 91 của Dân luật Bắc và Dân luật
Trung thì quan hệ hôn nhân được thiết lập khi hai bên nam nữ khai báo đăng ký kểt hôn.
Đây là điều kiện bắt buộc và là cơ sở để xác định họ có phải là vợ chồng hay khơng.
Từ thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp tiến hành đô hộ nước ta, sau đó cho ra đời ba bộ
luật ở ba miền Bắc - Trung - Nam. Tuy ở mồi miền đều có bộ luật riêng để áp dụng, nhưng
ta có thể thấy điểm giống nhau trong ba bộ luật này ở nghi thức kết hơn. Ảnh hưởng của
nền văn hóa phương Tây, điều kiện để cuộc hơn nhân có giá trị pháp lý là phải đăng ký với
chính quyền địa phương. Thủ tục đăng ký này được xem là điểm mới trong quan hệ hơn
nhân và gia đình cùa nước ta cho tới thời diêm bấy giờ. Sau này pháp luật Việt Nam cũng
kế thừa điểm này để hoàn thiện hơn trong hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình.
Bên cạnh những điểm khác biệt về nghi thức kết hôn giữa luật quân chủ phong kiến

và luật nước ta thời Pháp thuộc, thì luật nước ta trong giai đoạn này cịn có một số quy
định mà luật trước đó khơng có quy định cũng khơng có đề cập đến.
Đe quan hệ hơn nhân phát sinh, thì luật trong giai đoạn này quy định phải có sự ưng
thuận của cả hai bên nam nữ. Một phần nào đó đơi nam nữ có thể thể hiện ý chí của mình
về cuộc hôn nhân này. Quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam nữ sẽ không đuợc chấp nhận
nếu cả hai nguời này thể hiện rõ ràng sự không ung thuận. Điều 76 Dân luật Bắc quy định:
“kết hơn phải có hai bên nam nữ bằng lòng mới được”, Điều 76 Dân luật Trung quy định:
“trước khi làm chứng thư giả thú, hương bộ phải xét qua hai bên đều thuận tình nhau mới
được Đây cũng là điểm tiến bộ của pháp luật về hơn nhân và gia đình cho tới thời điểm
bấy giờ. Điều này cũng thể hiện phần nào quyền tự do của con nguời trong quan hệ hôn
nhân. Tuy nhiên, nó chỉ giới hạn ở một mức độ nào đó, cũng dễ hiếu bởi ữong giai đoạn
này thực dân Pháp đã tiến hành đơ hộ nuớc ta thì khơng có lý do gì thực dân Pháp lại mở
rộng quyền tự do cho nguời dân Việt Nam. Cụ thể của việc giới hạn này là bên cạnh sự
ung thuận của hai bên nam, nữ thì phải có sự ung thuận của cha, mẹ thì hơn nhân mới
thành. Ớ Dân luật Bắc, Dân luật Trung quy định: “nếu cha mẹ khơng cùng quan điêm về
cuộc hơn nhân của con thì sẽ theo ỷ kiến của cha, nếu khơng cịn cha thì theo ý kiến của
ơng bà nội, nếu cũng khơng cịn ơng bà nội mà người con trai hoặc con gái này chưa đủ 21
tuổi thì theo ý kiến của người giám hộ”. Còn riêng Dân luật giản yếu quy định: “nếu
khơng cịn ơng bà nội thì hỏi ỷ kiến của chủ bác, nếu khơng cịn chú bác thì hỏi ỷ kiến của
các anh, nếu cũng khơng cịn anh mà hai người nam hoặc nữ này chưa đủ 21 tuổi thì phải
hỏi ỷ kiến của hội đồng gia tộc”. Nếu người muốn kết hơn đã thành niên thì chỉ hỏi ý kiến


của những nguời nói trên, khơng càn có sự ung thuận cũng sẽ thành hôn đuợc mà không bị
pháp luật ngăn cấm. Nguời phụ nữ góa chồng muốn kết hơn với người khác thì cũng phải
có sự đồng ý của cha mẹ chồng trong trường hợp còn sống chung với cha mẹ chồng, hoặc
cha mẹ ruột nếu đã về nhà cha mẹ ruột.
Điểm mới trong các bộ luật ở thời kỳ này đối với quan hệ hôn nhân và gia đình là có
quy định cụ thể về độ tuổi kết hơn trong khi đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long
khơng có quy định rõ ràng. Dân luật Bắc, Dân luật Trung và Dân luật giản yếu ở Nam Kỳ

quy định độ tuổi kết hôn ở nam là 16 tuổi, nữ là 14 tuổi. Ngoài ra, trong trường họp người
con gái chưa có chồng mà đã có thai, Dân luật Bắc và Dân luật Trung quy định tối thiểu
thì nữ phải đủ 12 tuổi, nam phải đù 15 tuổi.
Trong thời kỳ hôn nhân, luật đặt ra những quy định về các nghĩa vụ của chồng và vợ
khi chung sống cùng nhau. Các ví dụ điển hình như: vợ chồng có nghĩa vụ làm cho gia
đình hưng thịnh, chung sống với nhau ở một nơi, vợ chồng phải để tang cho nhau. Tuy
nhiên, ở ba bộ luật quy định chung thủy là nghĩa vụ của vợ, đối với chồng thì khơng bắt
buộc, vợ có nghĩa vụ phục tùng chồng. Trong khi đó luật chỉ quy định các quyền của
chồng mà khơng có đề cập đến quyền của vợ như: chồng có quyền lựa chọn chỗ ở, kiểm
sót hành vi của vợ, đại diện cho vợ, trừ trường hợp vợ phạm tội hình sự, chồng được hành
các quyền giống như quyền của cha mẹ đối với con...
Trong trường họp vợ chồng không thể sống chung với nhau được nữa nhưng có ly
hơn thì họ có thể làm thủ tục ly thân. Đây là điểm mới trong luật về hôn nhân và gia đình
thời pháp thuộc. Dân luật giản yếu quy định: “trong trường hợp có thế xin ly hơn được, vợ
chồng cũng có thể xin ly thân”. Trong Dân luật Bắc và Dân luật Trung thì chưa có quy
định rõ ràng, nhưng chế định về ly thân cũng được áp dụng thơng qua án lệ xét xử, họ có
thể sống riêng vói nhau trong trường họp khơng thể sống chung, Tịa án sẽ có quyền xét
xử trong trường họp này. Ngồi ra, Tịa án cũng giải quyết các vấn đề liên quan đến nghĩa
vụ chăm sóc và cấp dưỡng cho con.
Có thể nói, chế độ hơn nhân và gia đình nước ta thời kỳ này là công cụ pháp lý mà
thực dân Pháp dùng để cai trị xã hội, dựa trên các tục lệ, tập quán mà nhà nước quân chủ
phong kiến trước đây đã áp dụng và theo Bộ luật dân sự Pháp.
Luật hiện đại
Sau cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngay khi ra đời, Nhà nước ta đã tiến hành nghiên cứu
để ban hành một hệ thống pháp mới để điều chỉnh lại các quan hệ xã hội, trong đó có quan
hệ Hơn nhân và gia đình mà trước đây người dân đã bị chế độ xã hội cũ áp đặt. Đây được
xem là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu mà Nhà nước ta phải thực hiện. Nhiệm vụ này được
đặt ra không những phục vụ cho đời sống nhân dân mà còn nhằm củng cố, bảo vệ và đẩy
mạnh vai trò của Đảng. Nhìn thấy được vai trị của gia đình (là cái nôi nuôi dưỡng con

người), là nền tảng của xã hội, nhà nước ta đã ban hành các văn bản điều chỉnh trong lĩnh
vực hơn nhân và gia đình nói riêng nhằm cải thiện đời sống người dân, khơng cịn bó hẹp
trong những tập tục phong kiến lạc hậu, phù hợp với việc xây dựng và bảo vệ nước Việt
Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Hệ thống pháp luật về Hơn nhân và gia đình cũng được hồn


thiện hơn so với trước đây, đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng cho người dân đặt
biệt là người phụ nữ Việt Nam.
Việc xóa bỏ chế độ Hơn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu khơng phải là vấn đề
đơn giản. Cần có thời gian bởi chúng ta không thể chỉ ban hành luật bằng mệnh lệnh bắt
buộc. Những phong tục, tập quán lạc hậu của thời kỳ phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức
của người dân, việc xóa bỏ những phong tục, tập quán đã được coi là “phép nước ” này
cần phải nhẫn nại. Tuy nước ta đã giành thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng Tám,
nhưng nước ta chưa ban hành một văn bản nào để điều chỉnh các quan hệ về Hôn nhân và
gia đình, vì trong thời gian ngắn khó có thê đưa ra một văn bản pháp luật phù hợp với xã
hội mới này, mà trong giai đoạn này nhà nước chỉ vận động người dân xóa bỏ những hủ
tục phong kiến lạc hậu trong quan hệ Hôn nhân và gia đình.
Năm 1950, Nhà nước ta mới ban hành hai sắc lệnh để điều chỉnh quan hệ Hôn nhân
và gia đình. Đó là sắc lệnh 97 - SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật và sắc lệnh 159 - SL ngày 17/11/1950 các điều khoản về ly hôn.
Tuy hai sắc lệnh này không đề cập đến thủ tục kết hôn, nhưng đã thể hiện nhiều sự
thay đối theo hướng tích cực trong quan hệ Hơn nhân và gia đình, sắc lệnh 97 - SL ngày
22/5/1950 có quy định về việc xóa bỏ việc cấm kết hôn ừong thời kỳ chịu tang, Điều 3 sắc
lệnh quy định: “trong thời kị' tang chế vẫn có thể lẩy vợ, lẩy chồng được”. Điều 2 quy
định: “người con đã thành niên khơng bắt buộc phải có cha me bằng lịng mới được kết
hơn”. Ngồi ra sắc lệnh này còn quy định: “người đàn bà ly dị có thê lẩy chồng khác ngay
sau khi có án tuyên ly dị, nếu chứng minh rằng mình khơng có thai hoặc đương cỏ thai.
Vợ chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình được quy định tại Điều 5. Người đàn bà có
chồng, có tồn năng lực về mặt hộ được quy định tại Điều 6 sắc lệnh 159 - SL ngày
17/11/1950 đã công nhận nguyên tắc tự do hôn nhân, đó là quyền tự do kết hơn và tự kết

hôn và tự do ly hôn. Điều 2 sắc lệnh quy định: “Tịa án có quyền cho phép vợ hoặc chồng
ly hơn trong các trường hợp ngoại tình, một bên can án phát giam, một bên bị điên hoặc
mắc bệnh khó chữa, một bên bỏ nhà đi quá hai năm mà khơng có lý do, vợ chồng có tính
tình khơng hợp đến nơi khơng thê sống chung”. Ngồi ra, sắc lệnh cịn quy định: “vợ
chồng cổ thể xin thuận tình ly hôn Điều này đã thể hiện quyền tự do người dân trong việc
quyết định vấn đề hôn nhân cùa mình. Quy định trong sắc lệnh này cịn nhằm bảo vệ
người phụ nữ đặc biệt là người phụ nữ đang mang thai, điều này được quy định tại Điều 5:
“nếu người vợ có thai thì vợ hay chồng cỏ thể xin tịa hỗn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc
ly hôn.”
Như vậy, sự ra đời của hai sắc lệnh này đã thúc đẩy q trình xóa bỏ chế độ Hơn
nhân và gia đình của chế độ phong kiển lạc hậu, đã góp phần giải phóng người phụ nữ ra
khỏi chế độ bất bình đẳng, góp phàn đẩy mạnh cơng bằng xã hội. Tuy nhiên, do hai sắc
lệnh này ra đời trong hoàn cảnh đất nước mới ra đời chưa bao lâu, nên những quy định
trên cũng còn nhiều hạn chế nhất định, chưa thể xóa bỏ chế độ Hơn nhân và gia đình
phong kiến một cách triệt để.
Mọi nghi thức kết hơn khác khơng có giá trị về mặt pháp lý. Do đó, pháp luật
nghiêm cấm chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (ngoại hôn). Trong


trường họp phát hiện được có cặp vợ, chồng chung sống với nhau nhưng khơng làm hơn
thú thì họ phải làm các thủ tục kết hôn đã được luật quy định trong thời hạn 2 tháng và
phải đáp ứng đủ các điều kiện về kết hôn. Nếu họ không đủ điều kiện để kết hơn thì tùy
trường họp mà xử lý. Ngoại hơn trong giai đoạn này thì khơng chấp nhận, nếu hai người
nam nữ đã ngoại hơn thì có thể bị xử lý về mặt hình sự về tội phạm gian, tội loạn luân hay
tội ngoại hôn.
Về thủ tục kết hôn, cũng giống như các quy định trước đây. Khi đăng kí kết hơn thì
đơi nam nữ đến Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú của một trong hai người. Khi đó
chính quyền địa phương hoặc thủ trưởng cơ quan đang thực hiện việc đăng kí kết hôn sẽ
xem xét các vấn đề liên quan, nếu không có vấn đề thì Ủy ban nhân dân tiến hành đăng kí
kết hơn cho họ và Cấp giấy chứng nhận đăng kí kết hơn. Về thủ tục cấp giấy chứng nhận

đăng kí kết hơn, thì đơi nam nữ phải cùng đến. Chủ tịch hoặc một cán bộ thực hiện việc
đăng kí kết hơn sẽ cấp giấy kết hơn cho họ. Đây là thủ tục hành chính bắt buộc về mặt
pháp lý. Sau khi nhận giấy kết hơn thì quan hệ vợ chồng đã được hình thành, việc tổ chức
hay khơng tổ chức lễ cưới thì khơng bắt buộc. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của phong tục
trước đây, hầu như mọi cặp vợ chồng đều tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống.
Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn
khá đơn giản, đã hạn chế được những phong tục cổ truyền rườm rà không cần thiết, phù
hợp với sự thay đổi trong cách sống của người dân và phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Như vậy, theo sự thay đổi của xã hội, các quan hệ Hôn nhân và gia đình cũng thay
đổi theo nhằm đáp ứng cho cuộc sống của mọi người dân. Hệ thống pháp luật về Hơn nhân
và gia đình nước ta ngày càng hồn thiện, nó là cơng cụ để nhà nước ta thực hiện quyền
quản lý xã hội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, thúc đẩy xã hội
phát triển.
2.1.3. Quy định pháp luật về đăng ký kết hôn
a. Chủ thể trong hoạt động đăng ký kết hôn
Căn cứ theo quy định tại Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về
điều kiện kết hơn, theo đó, nam, nữ kết hơn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
Như vậy, Nam nữ có đủ điều kiện kết hơn khi đáp ứng được các điều kiện sau đây:
Một là, nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
Hai là, việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
Ba là, không bị mất năng lực hành vi dân sự;
Bốn là, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn:
- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở
kết hôn;
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với
người đang có chồng, có vợ;
- Kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dịng máu về trực
hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
- Kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với



con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế
với con riêng của chồng;
Bên cạnh đó, quan hệ hơn nhân giữa những người cùng giới tính hiện nay Nhà nước
không thừa nhận.
Như vậy, trong trường hợp này của bạn, trước hết bạn và bạn trai bạn phải đáp ứng
được ba điều kiện để kết hôn là về độ tuổi, về năng lực hành vi dân sự và hai bạn phải tự
nguyện kết hôn mà không bị ai ép buộc. Điều kiện cuối cùng là hai bạn kết hôn mà không
thuộc điều cấm nào của pháp luật. Cụ thể:
Theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha
dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.”
Dẫn chiếu đến khoản 17, khoản 18 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
Những người cùng dịng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống,
trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.
Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm
cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là
đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.
Thứ nhất, có thể thấy, bạn và bạn trai bạn không phải là những người có cùng dịng
máu trực hệ.
Thứ hai, trong trường hợp của bạn, phạm vi ba đời có thể xác định như sau:
- Đời thứ nhất: ông bà cụ ngoại của bạn, là cha, mẹ sinh ra bà ngoại của bạn và cụ
nội của ông bạn trai bạn.
- Đời thứ hai: bà ngoại của bạn và cụ nội của bạn trai bạn.
- Đời thứ ba: mẹ bạn và ông nội bạn trai bạn.
- Đời thứ tư: bạn và bố bạn trai bạn.
- Đời thứ năm: bạn trai bạn và con của bạn (giả sử bạn có con).

b. Hồ sơ đăng ký kết hôn
Bước 1: Chuẩn bị giấy tờ
Kết hôn trong nước
Theo Điều 10 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ cần
chuẩn bị các giấy tờ sau:
- Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu;
- Chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thẻ Căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán
ảnh. Lưu ý, những loại giấy tờ này đều phải đang còn thời hạn sử dụng;
- Giấy xác nhận tình trạng hơn nhân do UBND cấp xã nơi cư trú cấp.
- Quyết định hoặc bản án ly hơn của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nếu trước đó đã
từng kết hơn và ly hơn.
Kết hơn có yếu tố nước ngồi
Nếu việc kết hơn có yếu tố nước ngồi thì căn cứ theo Điều 30 Nghị định 123/2015,


×