Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.44 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM
The University

NGUYỄN VĂN HÀ

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
TRÁCH NHIỆM HÌNH Sự CỦA NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

KonTum, tháng 6 năm 2020

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM


• •__________•__________________•
The University

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
TRÁCH NHIỆM HÌNH Sự CỦA NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH Sự
VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: CHÂU THỊ NGỌC TUYẾT SINH
VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN VĂN HÀ
LỚP
: K10LK1
MÃ SỐ SINH VIÊN
: 16152380107023


KonTum, tháng 6 năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp là một yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên ngành Luật, khoa Sư
Phạm - Luật Phân Hiệu Đại Học Đà Nẵng trước khi kết thúc năm 04 học tại trường. Đây
là một giai đoạn hết sức quan trọng, giúp sinh viên chúng em có thể củng cố kiến thức và
tiếp cận với thực tiễn.
Được sự quan tâm khoa Sư Phạm - Luật Phân Hiệu Đại Học Đà Nẵng đã tổ chức


cho sinh viên thực tập từ ngày 10 tháng 02 năm 2020 đến ngày 10 tháng 05 năm 2020.
Dưới sự sắp xếp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, em được bố trí thực tập tại
phịng thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, quá trình thực tập
đã thu về cho mình nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình thực tập tại đây.
Thời gian thực tập không phải là dài nhưng đã giúp em biết thêm được nhiều điều bổ
ích, tích lũy cho mình được một phần nào đó kiến thức thực tế khi được tiếp xúc, quan sát
trực tiếp, thử tham gia làm những công việc mà các cán bộ cơng chức đang thực hiện tại
Cơ quan, từ đó hiểu được về “Chức năng và thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân”,
giúp em hồn thiện thêm cho mình về kiến thức lý luận đã được học trên ghế nhà trường.
Để hoàn thành chuyên đề thực tập năm ba này, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới các Thầy, Cô giáo của Trường Phân Hiệu Đại Học Đà Nẵng đã hết lòng truyền dạy
cho em những kiến thức quý báu trong 04 năm qua.
Nhân đây em cũng xin chân thành cảm ơn Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
phịng tổ chức cán bộ, Trưởng phịng và tồn thể các anh chị trong Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Pleiku, đặc biệt các anh chị kiểm sát viên, chuyên viên đã hướng dẫn, tận tình
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp em hoàn thành kỳ thực tập này.
Trong q trình thực tập, vì chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên trong bài báo cáo
khó tránh khỏi sai sót. Kính mong nhận được sự góp ý và nhận xét từ phía thầy cơ để em
có được những kinh nghiệm bổ ích và áp dụng thực hiện hiệu quả trong tương lai.
Sinh viên th ực hiện



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài: .....................................................................................................1
2........................................................................................................................................ M
ục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................................2
3........................................................................................................................................ Đ
ối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................................2
4........................................................................................................................................ Ph
ương pháp luận và phương pháp nghiên cứu...............................................................3
5........................................................................................................................................ Bố
cục ................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP.PLEIKU,
TỈNH GIA LAI.................................................................................................................4
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển:..........................................................................4
1.2 Thẩm quyền và chức năng: ...................................................................................4
1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý:..........................................................................................4
1.4 Thẩm quyền và chức năng: ...................................................................................5
1.5 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước: ............................5
1.6 Cơ sở vật chất và kỹ thuật: ....................................................................................9
CHƯƠNG II.QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI. ...........................................................................9
2.1 Lý luận chung về tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện...............................9
2.1.1 Đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi ...................................................9
2.1.2 Khái niệm và đặc điểm của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ............11
2.2.2. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi............................15
2.2.3. Về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội .
16
2.2.4. Về các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm

tội trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự .......................................................17
2.2.5. Về biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
18
2.2.6. Về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,
tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án,
tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích..................................................................20
CHƯƠNG 3.THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI. TẠI ĐỊA BÀN TP PLEIKU, GIA LAI KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN..........................................................................................22
3.1 Thực trạng tội phạm do người dưới 18 tuổi trên đại bàn Tp.Pleiku:.................22
3.1.1 Cơ cấu tình hình tội phạm trên địa bàn Tp.Pleiku do người dưới 18 tuổi thực
hiện:
22
1


3.1.2 Tình hình tội phạm trên địa bàn Tp.Pleiku do người dưới 18 tuổi thực hiện.....23
3.1.3 Đặc điểm nhân thân người phạm tội : ..............................................................24
3.1.4 Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hình thành tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực
hiện:.................................................................................................................................. 26
3.2. Dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành
phố Pleiku trong thời gian tới:.....................................................................................31
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành phố Pleiku ...............................32
3.3.1 Gắn liền sự phát triển kinh tế với phát triển nhân tố con người.......................32
3.3.2 Xây dựng các chuẩn mực văn hóa - xã hội khu đơ thị: ...................................34
3.3.3 Phát huy sức mạnh và sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong phòng ngừa tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện: ..........................................................................35
3.4. Một số kiến nghị ..................................................................................................38
KẾT LUẬN....................................................................................................................41

TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội nước ta khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày
28 tháng 11 năm 2013 đang ngày càng đi sâu vào thực tế cuộc sống với những quy định
làm nền tảng cho những văn bản pháp luật khác, đáp ứng được bối cảnh nước ta đang
trong q trình đẩy mạnh cơng cuộc hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa, diễn ra trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực, trong đó lĩnh vực pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng
cũng được Nhà nước xem là một trọng tâm trong tiến trình cải cách, đổi mới, là một trong
những yêu cầu bức bách của việc hoàn thiện bộ máy Nhà nước, phục vụ tốt nhất cho cơng
cuộc đổi mới đất nước.
Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) (sau đây gọi là BLHS
năm 1999)đã có những tác động tích cực đối với cơng tác phịng, chống tội phạm, bảo vệ
và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền
con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên cạnh những tích cực,
những thành tựu đạt được thì kinh tế thị trường đã phát sinh những mặt trái, trong đó là
tình hình và tỷ lệ tội phạm gia tăng cả về mức độ lẫn tính chất nguy hiểm của hành vi
phạm tội, nổi lên là loại tội phạm do pháp nhân thực hiện như tội phạm trong lĩnh vực kinh
tế, tội phạm môi trường... gây ra những thiệt hại lớn cho đất nước, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến trật tự - an ninh xã hội nhưng chưa được quy định trong BLHS như là một tội
phạm.
Thành phố Pleiku được chia thành 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm
14 phường: Chi Lăng, Diên Hồng, Đống Đa, Hoa Lư, Hội Phú, Hội Thương, Ia Kring, Phù
Đổng, Tây Sơn, Thắng Lợi, Thống Nhất, Trà Bá, Yên Đỗ, Yên Thế và 8 xã: An Phú, Biển

Hồ, Chư Á, Diên Phú, Gào, Ia Kênh, Tân Sơn, Trà Đa. Năm 1971 thời Việt Nam Cộng hịa
tỉnh lỵ Pleiku có 34.867 cư dân.[3] Đến 31-2-2010 thì dân số đạt 214.710 người. Bao gồm
28 dân tộc đang sinh sống; người Kinh chiếm đa số (87,5%), còn lại là các dân tộc khác,
chủ yếu là các dân tộc Gia Rai và Ba Na (12,5%). Số người trong độ tuổi lao động khoảng
261.482 người chiếm 57% dân số.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhanh, đến năm 2008 đạt 1,12%. Kết quả trên đã
góp phần tích cực cho cơng tác xố đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho nhân dân.
Các đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu trong các làng như làng Plei Ốp
(P. Hoa Lư), Làng Kép (P. Đống Đa), Làng Brúk Ngol (P. Yên Thế), và một số làng khác.
Theo kết quả tổng điều tra dân số 2019, tồn đơ thị có 254.802 dân số có hộ khẩu thường
trú, trong đó thành thị có 191.684 người, nơng thơn có trên 63.118 người, có 129.000 nam
và 125.265 nữ. Tính cả dân số quy đổi có khoảng 504.984 người.
Do có nhiều thuận lợi về điều kiện kinh tế - xã hội cũng như hạ tầng kỹ thuật,
làm cho thành phố Pleiku đang ngày càng phát triển nhanh chóng đuổi kịp các thành
phố bạn. Tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng ở các nước đang phát
1


triển, trong đó có Việt Nam nói riêng và thành phố Pleiku nói chung là một những vấn đề
nóng bỏng và là một trong những vấn đề đang được xã hội quan tâm. Trong những năm
gần đây, ở Việt Nam tình trạng tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng
ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội. Thủ đoạn phạm tội của các đối
tượng này khơng cịn đơn giản do bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đã có sự tính tốn, chuẩn bị
kỹ càng và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm
cao. Số lượng các vụ án tăng nhanh, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra, cùng với
tính chất phức tạp của từng vụ án là những thủ đoạn tinh vi, do đó tính nguy hiểm ngày
càng cao để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm
xôn xao dư luận xã hội. Việc gia tăng các vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội
không chỉ tăng về số lượng các bị cáo, mà tuổi đời cũng được trẻ hố, có nhiều vụ án các

bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có
khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù chung thân hoặc tử hình như tội: “Cố ý gây thương
tích”, “Giết người”, “Cướp tài sản”, “Trộm cắp tài sản”.
Trong bối cảnh như vậy, tôi lựa chọn đề tài “ Trách nhiệm hình sự của người dưới 18
tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam ” để làm báo cáo thực tập tốt nghiệp.
2.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá về mặt lý luận, thực trạng pháp
luật và thực tiễn việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trên cơ sở
đó tìm ra những vướng mắc, bất cập để đề xuất những giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp
luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại. Để đạt được mục tiêu đề ra đề tài lần lượt thực hiện các
nội dung:
Một là, làm rõ các khái niệm, đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Hai là, nghiên cứu khung pháp luật điều chỉnh trách nhiệm hình sự, những yếu tố tác
động đến việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bốn là, đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách
nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và quy định pháp luật hiện hành các quy định
của pháp luật về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật
hình sự việt nam từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Pleiku.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số dấu hiệu pháp lý, nội dung cơ bản theo quy
định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. Và tìm hiểu nghiên cứu qua thực tiễn thực hiện
trên địa bàn thành phố Pleiku giai đoạn 2016-2019.

2


4.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Để giải quyết được vấn đề đặt ra thì đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đường lối, chính sách phát triển kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về trách
nhiệm pháp lý của người dưới 18 tuổi phạm tội; những bất cập trong các quy định của
pháp luật hiện hành về trách nhiệm dân sự của người dưới 18 tuổi phạm tội. Phân tích
thực tiễn, tổng hợp tài liệu đưa ra những nhận định về trách nhiệm hình sự và xử lý đối với
các hành vi vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội. Phương pháp này được
sử dụng xuyên suốt luận văn.
- Phương pháp thống kê: Nhằm thống kê số liệu về trách nhiệm hình sự, dân sự và
hành chính của người dưới 18 tuổi phạm tội; thống kê các văn bản pháp luật điều chỉnh
trách nhiệm pháp lý của người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Các phương pháp nghiên cứu khác: Phương pháp diễn dịch để chứng minh những
quy định của pháp luật đối với vấn đề pháp lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;
phương pháp quy nạp: được sử dụng để đưa ra các giải pháp trên cơ sở phân tích từ thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người dưới 18

tuổi phạm tội.
5.

Bố cục

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục từ viết tắt,
nội dung đề tài gồm 03 chương:
Chương I: Giới thiệu chung về viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, Gia Lai.
Chương II: Quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi

phạm tội.
Chương III: Thực trạng áp dụng quy định về trách nhiệm hình sự tại địa bàn
thành phố Pleiku, Gia Lai kiến nghị hoàn thiện.
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP.PLEIKU,
TỈNH GIA LAI.
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển:
Thành phố Pleiku là đơ thị phía bắc Tây Ngun, có địa giới hành chính:
Phía đơng giáp huyện Đak Đoa, Phía tây giáp huyện Ia Grai, Phía nam giáp huyện
Chư Prơng, Phía bắc giáp huyện Chư Păh. Pleiku nằm trên trục giao thông giữa quốc lộ 14,
quốc lộ 19 nối thông suốt cả nước, gần ngã ba Đông Dương, nằm trên cung đường Hồ Chí
Minh, và trong vùng tam giác tăng trưởng các tỉnh lân cận, cũng như các quốc gia láng
giềng như Campuchia, Lào. Tổng diện tích tự nhiên là 26.166,36 ha, là trung tâm kinh tế,
3


chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh Gia Lai. Pleiku nằm trên độ cao trung bình 700m - 800
m; ngã ba Hàm Rồng hay ngã ba Quốc lộ 14 và Quốc lộ 19 (phía Nam của thành phố
Pleiku) có độ cao là 785m. Trước tình hình phát triển của xã hội cũng như của đất nước, để
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
tài sản, danh dự và nhân phẩm của nhân dân, bảo vệ trước mọi hành vi xâm phạm của lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý
theo pháp luật. Trước tình đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku được thành lập theo
quyết định số 88/QĐ-VKS-TCCB ngày 21/8/1991, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao Trần Quyết ký ban hành trên cơ sở tách từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum.
Viện kiển sát nhân dân thành phố Pleiku:
+ Địa chỉ: số 60 Lý Thái Tổ, Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
+ Số điện thoại: 3824427
+ Email:
1.2 Thẩm quyền và chức năng:
Sự thành lập của Ngành Kiểm sát đã đánh dấu bước phát triển của việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại địa phương, Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện kiểm
sát nhân dân thành phố PLeiku là Cơ quan chuyên môn nghiệp vụ hoạt động dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai.
1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý:
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku là Cơ quan có dự tốn kinh phí độc lập, có
quyết định thành lập, có con dấu và tài khoản riêng, có biên chế riêng. Cơ cấu tổ chức của
Viện kiểm sát có Ban lãnh đạo và bộ máy giúp việc. Ban lãnh đạo viện gồm có 01 Viện
trưởng, 03 Phó Viện trưởng. Dưới mỗi phó viện trưởng có các bộ máy giúp việc là kiểm
sát viên và chuyên viên, kiểm sát về hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh lao động,
kiểm sát tạm giữ tạm giam, thi hành án hình sự , dân sự.
1.4 Thẩm quyền và chức năng:
Sự thành lập của Ngành Kiểm sát đã đánh dấu bước phát triển của việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại địa phương, Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.5 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước:
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập trong Hiến pháp. Vị trí của Viện
kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể
hiện thơng qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
4


nói riêng.
Ở nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện
kiểm sát quân sự là các cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu sự
giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, hoặc trước
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội khơng họp.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm
sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực,
Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương đều
do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
- Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng
VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo

thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất., góp phần bảo vệ cơng lý, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
5


chỉnh và thống nhất.
Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bằng các công tác sau đây:
1. Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố;
2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
3. Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn truy tố tội phạm;
4. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự;
5. Điều tra một số loại tội phạm;
6. Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền
công tố.
Căn cứ Điều 27 Luật tổ chức Viện Kiểm Sát nhân dân năm 2014 quy định nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự,hơn nhân và gia đình, kinh doanh,thương mại, lao động và những việc khác
theo quy định của pháp luật.
1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc.
3. Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định.
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân
về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật.
5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
6. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
7. Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến
nghị, u cầu Tịa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.
8. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ Điều 28 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
1. Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tòa
án.
2. Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và
cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.
3. Kiểm sát hồ sơ về thi hành án.
4. Tham gia phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc xét
miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.
5. Kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành
án.
6



6. Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành
viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án thực hiện các việc sau
đây:
a) Ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật;
b) Thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật;
c) Tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
d) Cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án.
Yêu cầu quy định tại các điểm a, b và d khoản này phải được thực hiện ngay; yêu cầu
quy định tại điểm c khoản này phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu.
7. Kiến nghị Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành
viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thi hành án.
8. Kháng nghị quyết định của Tòa án, quyết định, hành vi của Thủ trưởng, Chấp
hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới theo quy định của pháp luật;
yêu cầu đình chỉ việc thi hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật
trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành
án hành chính theo quy định của pháp luật.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện
kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt
động tư pháp. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông qua các hoạt động kiểm sát cụ thể như sau:
Thứ nhất, công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, bao gồm các hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thứ hai, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, bao gồm các hoạt động: Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án
nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới
chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.

Thứ ba, kiểm sát việc giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh tế, lao động, các vụ án hành chính và những việc khác theo quy định của
pháp luật.
Thứ tư, kiểm sát thi hành án, bao gồm các hoạt động: Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và
cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định về hình sự, dân sự đã có hiệu
lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật
Thứ năm kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù, bao gồm các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị
và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
7


hành án phạt tù.
*Những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân
Điều 109 Hiến pháp năm 2013, quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng
các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.”
Điều 7 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng
các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của
Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ
quyết định trái pháp luật của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới.
2. Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm
sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và quyết
định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về các vụ án, vụ việc trước khi Viện
trưởng quyết định theo quy định tại các Điều 43, 45, 47, 53 và 55 của Luật này”.
Như vậy, tất cả các Viện kiểm sát nhân dân từ trung ương tới địa phương là một hệ
thống thống nhất, mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự
lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Ở các cấp Viện kiểm sát từ trung ương đến Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện
kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và
quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về các vụ án, vụ việc trước khi
Viện trưởng quyết định
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành bảo đảm cho
các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả thực hành
quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp.
1.6 Cơ sở vật chất và kỹ thuật:
Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
VKSNDTC, theo lộ trình cải cách tư pháp đến năm 2020. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon
Tum luôn đổi mới đáp ứng phù hợp với nhiệm vụ, môi trường làm việc, đảm bảo trang
thiết bị phương tiện làm việc đầy đủ, hiện đại, phù hợp cho hoạt động điều tra, đáp ứng với
yêu cầu đổi mới và yêu cầu hội nhập quốc tế như: Đảm bảo về trụ sở làm việc riêng, có
phịng tiếp dân, phịng nghiệp vụ, kho lưu trữ, nhà ở tập thể cho cán bộ, nhà khách; thiết bị
8


kỹ thuật, công cụ hỗ trợ (máy ghi âm, ghi hình, điện thoại, vi tính, máy in, máy fax...);
phương tiện đi lại để phục vụ cho hoạt động điều tra xác minh, sẵn sàng đáp ứng trong
trường hợp cùng một lúc phải tiến hành điều tra nhiều vụ án, kiểm tra xác minh nhiều tố
giác, tin báo về tội phạm trên nhiều địa bàn khác nhau; có kế hoạch kinh phí dài hạn để

xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động điều tra.
KẾT CHƯƠNG I
Qua chương I, tôi đã giới thiệu một cách cụ thể về thành phố Pleiku, đồng thời tổng
quan lại đơn vị thực tập của mình đó là Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku. Khái
quát một cách cụ thể từ các chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu và tổ chức; và các thành tựu đạt
được trong công tác xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku.
Từ đó, đã làm nguồn tài liệu hữu ích giúp tác giả có thể dễ dàng tiếp cận và nghiên
cứu đề tài của mình. Hơn gì hết tác giả đã có cái nhìn rõ hơn đối với pháp nhân thương mại
phạm tội, trong phạm vi chương II và II của đề tài, tôi sẽ đưa ra những vấn đề lý luận và
pháp luật về tội trộm cắp tài sản như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, các quy định của
pháp luật Việt Nam về pháp nhân thương mại phạm tội bằng nguồn tài liệu mà mình
nghiên cứu và tìm kiếm. Bên cạnh đó, tác giả đi vào phân tích về lịch sử phát triển các quy
định của pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội.
Qua đó ta thấy được có sự phát triển trong nhận thức, trong tư duy của các nhà làm
luật, của khoa học pháp lý nói chung và sự phát triển của các quy phạm pháp luật về trách
nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội.

CHƯƠNG II
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI.
2.1 Lý luận chung về tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
2.1.1 Đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi
* Về trạng thái xúc cả m
Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lý lẫn tâm lý,
ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất
cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người dưới
18 tuổi. Người dưới 18 tuổi có tâm lý thiếu ổn định, xốc nổi, thích độc lập và thích khẳng
định mình. Điều này dẫn đến thái độ sống khơng đúng đắn và những hành vi xấu của họ.
Vì vậy nếu chúng ta khơng kịp uốn nắn, đó sẽ là nguyên nhân dẫn tới tội phạm. Những
người thất bại trong việc xử lý những xung đột với cha mẹ, với thầy cô, với bạn bè trong

lớp, trong trường (nhất là bạn khác giới) có thể bỏ nhà đi lang thang, có thể bỏ lớp, bỏ
trường gia nhập vào các nhóm bạn xấu... rồi trở thành tội phạm.
* Về nhu cầu độc lập
Những phát triển mạnh mẽ về thể chất và sự hoàn thiện cơ bản của các chức năng
sinh lý làm cho người dưới 18 tuổi có ấn tượng sâu sắc rằng “mình khơng cịn là trẻ con
nữa”. Đặc điểm tâm sinh lý nổi bật, đặc trưng nhất mà ta thường thấy ở lứa tuổi này là sự
9


biểu hiện nhu cầu độc lập. Nhu cầu độc lập là mong muốn tự hành động, tự đưa ra quyết
định theo cách phù hợp với nhận thức của bản thân hơn là để thỏa mãn địi hỏi của xã hội,
mơi trường hay của người khác. Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành
động và tự đưa ra quyết định theo ý kiến riêng mà khơng muốn bị ảnh hưởng bởi người
khác. Sự hình thành và phát triển nhu cầu độc lập ở lứa tuổi dưới 18 tuổi là sự phát triển
tâm lý có tính chất tất yếu của những người dưới 18 tuổi. Họ muốn tự khẳng định những
phát triển của mình về nhân cách trên con đường trở thành người lớn. Trong nhiều lĩnh vực
của cuộc sống, họ không muốn phụ thuộc vào người lớn, trước hết là cha mẹ, ông bà và
những người khác. Họ muốn suy nghĩ và hành động theo cách thức riêng của mình.
Nhu cầu độc lập của người dưới 18 tuổi thể hiện trước hết trong hoạt động học tập,
trong giao tiếp với bạn bè và người lớn ở gia đình, nhà trường và ngồi xã hội, trong ăn
mặc, trong quan hệ bạn bè, trong thưởng thức nghệ thuật hay thể thao... Trong học tập, họ
muốn tự quyết định thời gian và cách thức học của mình. Trong giao tiếp, người dưới 18
tuổi muốn được người khác tôn trọng, nhất là những người lớn tuổi. Họ thường hành động
theo cách thức mà họ cho là thể hiện được cái tôi độc lập, cái tôi đã trưởng thành của mình.
Trong ăn mặc người dưới 18 tuổi thường có xu hướng chạy theo cái mới, những mốt được
du nhập từ bên ngoài hoặc cách thức ăn mặc của người lớn. Trong quan hệ bạn bè, con trai
thường muốn khẳng định sức mạnh của mình, do vậy, chỉ cần va chạm nhỏ là có thể dẫn
tới hành vi bạo lực, đơi khi rất nguy hiểm.
* Về nhận thức pháp luật
Người dưới 18 tuổi là những người có ít kinh nghiệm trong cuộc sống, đặc biệt là khả

năng nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy những người dưới 18 tuổi
còn rất non nớt về kiến thức xã hội và ý thức pháp luật. Nhận thức và quan niệm về pháp
luật chưa hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của họ. Vì thế, họ
thường có thái độ thờ ơ, lãnh đạm đối với các quy định của pháp luật.
* Về nhu cầu khám phá cái mới
Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của người dưới 18 tuổi. Họ
muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám phá cuộc sống xã hội xung quanh mình. Họ muốn
tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm sống, các kiến thức của những người lớn tuổi và cả những
bạn bè cùng lứa tuổi. Trong bối cảnh các phương tiện thông tin đại chúng phát triển mạnh
mẽ và hiện đại như ngày nay thì khao khát hiểu biết của họ không chỉ trong phạm vi cuộc
sống xung quanh mình, phạm vi của đất nước mình mà cịn khám phá cuộc sống của các
quốc gia khác. Khám phá cuộc sống giúp họ nâng cao hiểu biết, nhận thức của mình. Điều
đáng lưu ý là họ khơng chỉ có nhu cầu khám phá cái mới mà cịn tìm tịi, thử nghiệm cái
mới, trong đó có cả những cái thiếu lành mạnh, trái với các chuẩn mực xã hội. Đây là
nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của những người dưới 18 tuổi.
2.1.2 Khái niệm và đặc điểm của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
* Khái niệm tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
- Khái niệm người dưới 18 tuổi — người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định chung của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì:
1
0


người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, không phân biệt giới tính, thành phần dân
tộc; trong lĩnh vực pháp luật hình sự việc áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội chỉ xem xét ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; độ tuổi xem xét
về năng lực trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm tội trong một
số tội phạm cụ thể; Khái niệm người chưa thành niên còn được đề cập trong Hiến Pháp
năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Lao động năm 2012, Luật trẻ em năm 2016;

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và
một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới mười tám tuổi và quy định riêng những chế định
pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực.
Theo pháp luật hình sự nước Cơng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, người
chưa thành niên phạm tội là người có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội; đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan
hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy
định trong Bộ luật Hình sự vì chỉ có Bộ luật Hình sự mới được quy định tội phạm; chủ thể
có hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có năng lực trách nhiệm hình sự (loại trừ khơng đủ
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khơng có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều
12, Điều 21 của Bộ luật Hình sự) và người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là
người có lỗi; là thái độ tâm lý của người chưa thành niên đối với hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức có lỗi cố ý hoặc vơ ý.
Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289,
290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Bộ luật Hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 dành chương XII quy định đối với người chưa
thành niên phạm tội. Điều 90, Chương XII Bộ luật Hình sự ghi rõ: “Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương
này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của
Chương này. ”.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự trong các
trường hợp:
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.

+ Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong BLHS.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và theo quy định của Bộ luật Hình sự họ
11


phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi và lỗi của mình.
- Khái niệm tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
• •r•
o


Tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện có những đặc điểm riêng so với tội phạm
do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trước hết là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên không phải mọi
trường hợp người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội
phạm đều làm phát sinh trách nhiệm hình sự đối với họ. Tội phạm chỉ xuất hiện khi vấn đề
trách nhiệm hình sự được đặt ra.
Khái niệm tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện không đồng nhất với khái niệm
người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt
(người dưới 18 tuổi) thực hiện hành vi phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự cịn khái
niệm tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra là khái niệm dùng để chỉ những tội phạm được
thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người dưới 18 tuổi).
Như vậy, tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện bởi người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và theo quy định của Bộ luật Hình
sự người đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
* Đặc điểm của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện

•í•

O


Người dưới 18 tuổi là những người đang ở lứa tuổi phát triển về mọi mặt. Đây là lứa
tuổi chưa có đủ khả năng nhận thức, chưa có đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá
trình nhận thức bị hạn chế; chủ quan nơng cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các
sự việc, hiện tượng, dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trường sống. Mặt khác ở lứa tuổi
này các em đang tị mị, tìm hiểu thế giới xung quanh, ham thích khai thác cái mới lạ; do
đó sự tác động của thế giới khách quan tác động ngược trở lại là điều tất yếu, tác động trực
tiếp đến sự phát triển tâm lý, nhận thức của người dưới 18 tuổi. Vậy việc quan tâm, bảo vệ,
chăm sóc của gia đình, nhà trường là hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy đa số người
dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm thường là những người có trình độ văn hóa thấp, ít hiểu
biết về đạo đức, pháp luật, thường có quan niệm sai lệch về nghĩa vụ và trách nhiệm của
cơng dân, nên thường có những phản ứng sai lệch hoặc các hành vi vi phạm pháp luật.
Nhiều trường hợp người dưới 18 tuổi không ý thức được việc làm của mình là phạm tội,
bởi vậy khi hiểu ra họ rất hối hận về việc làm của mình và lúc đó mới biết đó là hành vi
phạm tội. Do vậy, chúng ta cần phải nhận biết các đặc điểm cụ thể về tội phạm do người
dưới 18 tuổi gây ra để có cơ sở phịng ngừa:
+ Trước hết chúng ta phải xác định được độ tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bởi người dưới 18 tuổi là những người đang ở lứa tuổi phát triển về mọi mặt. Đây là lứa
tuổi chưa có đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá trình nhận thức bị hạn chế; chủ
quan nơng cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự việc, hiện tượng, dễ bị tác
động bởi các yếu tố của môi trường sống. Do đó dễ bị bắt chước, làm theo, dễ bị lơi kéo
vào các môi trường sống tiêu cực. Hơn nữa với đặc điểm tâm lý ở người dưới 18 tuổi, các
1
2


em dễ bị xúc động và hiếu động, có tính hiếu thắng, thích mạo hiểm và ln tỏ ra mình là
người can đảm, dũng cảm, không chịu thua kém bất cứ ai, xem thường các nội quy, yêu

cầu đặt ra của gia đình, nhà trường và xã hội. Những đặc điểm này có quan hệ chặt chẽ với
những nguyên nhân, điều kiện thực hiện tội phạm của người dưới 18 tuổi.
+ Đối với những người dưới 18 tuổi gây ra các hành vi tội phạm nó cũng mang nhiều
đặc điểm riêng biệt so với các lứa tuổi khác. Theo báo cáo Bộ Công an về tổng kết Đề án 4
cho thấy: song song với loại tội, nhóm tội, tính chất táo bạo của việc thực hiện hành vi
phạm tội ở người dưới 18 tuổi còn thể hiện cả ý thức phạm tội là có sự chuẩn bị trước;
phạm tội có tổ chức hoặc có dấu hiệu phạm tội theo phe nhóm (2 người trở lên) và có
người cầm đầu, tổ chức hoặc chỉ huy các nhóm để thực hiện tội phạm. Địa bàn gây án
thường xảy ra phổ biến ở các thành phố, thị xã, thị trấn, nhất là các thành phố lớn. ở mỗi
địa bàn khác nhau, tội phạm được thực hiện cũng có những đặc trưng khác nhau, nếu như
ở các vùng nông thôn và miền núi, tội phạm chủ yếu và phổ biến là trộm cắp tài sản, cố ý
gây thương tích và một số tội ít nghiêm trọng khác, thì ở các đơ thị, thành phố, ngồi
những tội trên, các tội rất đặc trưng cịn là lừa đảo, cướp, cướp giật, gây rối trật tự công
cộng và chống người thi hành công vụ. Khi thực hiện tội phạm thường là ở những chỗ
đông người như các hội hè, các chợ, bến tàu, bến xe, nhà ga, cơng viên, rạp hát...Đối tượng
xâm hại tập trung chủ
Chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội xuất hiện và tồn tại gắn liền với
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam. Với sự cân nhắc nhiều yếu
tố khác nhau liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội có những khác biệt đáng kể so với người đã thành niên phạm tội. Sự khác biệt
này trước hết được thể hiện trong các quy định về trách nhiệm hình sự của người dưới 18
tuổi phạm tội, trong đó quan trọng nhất là quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới
18 tuổi phạm tội. Cụ thể, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới
18 tuổi và chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở
thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi
phạm tội của người dưới 18 tuổi, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác
định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Phù hợp với sự thiếu hụt và non nớt về kiến

thức, kinh nghiệm sống của người dưới 18 tuổi cũng như gắn liền với trách nhiệm của toàn
xã hội trong việc giáo dục người dưới 18 tuổi, nguyên tắc này hướng đến trọng tâm của
việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, giúp đỡ để họ trở thành người có ích
cho xã hội. Đây là nguyên tắc chung, bao trùm và chi phối nội dung các nguyên tắc còn lại
trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính nhân đạo của hệ thống pháp luật
hình sự nước ta và nó hồn tồn phù hợp với tinh thần của các cơng ước quốc tế về tư pháp
người dưới 18 tuổi. Nguyên tắc này nhằm mục đích bảo vệ quyền của người dưới 18 tuổi
và vì lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi. Đây được coi là nguyên tắc cốt lõi của tất cả
1
3


các hoạt động liên quan đến người dưới 18 tuổi. Điều này đã được ghi nhận tại Điều 3 của
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Các cơ quan có thẩm quyền ưu tiên xem xét áp dụng các biện pháp thay thế xử lý
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm khiển trách, hòa giải tại cộng đồng,
giám sát, giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên
tắc quan trọng trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đó là phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của các em. Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa
tuổi, tạo mơi trường phát triển bình thường cho người dưới 18 tuổi phạm tội là vô cùng
quan trọng. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngồi hệ thống
tư pháp chính thức, mang tính răn đe, giáo dục xã hội (xử lý chuyển hướng) để áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi mang lại hiệu quả mong muốn và đó là một biện pháp tiến bộ mà hệ
thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên đang khuyến khích áp dụng (tại Điều
40 (3)(b) Công ước quốc tế về Quyền trẻ em đã thể hiện điều này).
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp
cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc
thứ nhất nhằm hạn chế tình trạng trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ cần áp dụng
biện pháp xử lý khác nhưng lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự và đặc biệt là bị áp dụng

hình phạt. Quy định này địi hỏi sự cân nhắc kỹ của người áp dụng pháp luật khi quyết
định hình thức và biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm hạn chế tác động tiêu
cực của chế tài hình sự, đặc biệt là hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Những
trường hợp mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng như nhân thân người phạm
tội thể hiện cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt hay biện pháp tư
pháp thì Tịa án vẫn phải lựa chọn biện pháp này.
Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét
thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp xử lý chuyển
hướng hoặc việc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng khơng bảo đảm
mục đích giáo dục, phịng ngừa.
Khơng xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong hệ thống hình phạt ở nước ta, đây là hai hình phạt thể hiện tính trừng trị cao nhất:
Một hình phạt mang tính chất là tước tự do suốt đời và một hình phạt tước quyền sống của
người bị kết án. Với tính chất đó, các hình phạt này chỉ được áp dụng trong những trường
hợp hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội cho thấy người đó khó hoặc khơng cịn
khả năng cải tạo, giáo dục. Những hình phạt này trái với đường lối xử lý chung đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi
xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe, phịng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án
nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng và trong thời
gian thích hợp ngắn nhất. Quy định này phù hợp với đánh giá về sự thiếu hoàn thiện trong
1
4


nhận thức và kinh nghiệm sống của người dưới 18 tuổi và cũng là biểu hiện của đường lối
xử lý khoan hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm hạn chế tác động tiêu cực của
môi trường trại giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời, quy định này cũng là
sự thể chế hóa các nguyên tắc cơ bản của tư pháp hình sự người dưới 18 tuổi được ghi

nhận trong Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, theo đó, khơng có trẻ em nào bị tước quyền
tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện ở bất kỳ giai đoạn nào của q trình tư pháp
người dưới 18 tuổi.
Khơng áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội.
Người trong độ tuổi này thường chưa tham gia lao động để có tài sản nên việc hiểu đúng
giá trị tài sản đối với cuộc sống cịn hạn chế. Việc áp dụng hình phạt tiền đối với họ có thể
khơng phát huy được hiệu quả giáo dục, cải tạo của loại hình phạt này.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các hình phạt
được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ là các hình phạt chính. Quy định này
phù hợp với nguyên tắc tiết chế hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi thì khơng tính để xác định tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm. Quy định này thể hiện tính khoan hồng cao hơn trong xử lý hình sự
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội so với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
2.2.2. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi.
Tinh thần xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải thể hiện sâu sắc tính nhân
đạo, vì vậy, tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252,
265, 266,286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Trong tương quan so sánh
với Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi
trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” thì Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) đã thu hẹp phạm vi các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, theo đó người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại 28 điều luật. Việc quy định này thể hiện rõ chính sách hình sự khoan

hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích
giáo dục họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã
hội.
2.2.3.
Về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi ở giai đoạn chuẩn bị phạm


9
9

•1 •
1
5


tội
Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ
trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2
Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112,
113,114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302,
303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123,
Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thu hẹp phạm vi
các tội phạm mà người dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Thay vì người dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng, một tội đặc

biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự, thì hiện nay người 18 tuổi chuẩn bị phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội đối với các tội phạm
quy định tại 25 điều luật của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bên
cạnh đó, đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội giết người hoặc tội
cướp tài sản thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngồi ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định theo
hướng mở rộng phạm vi loại tội phạm mà người dưới 18 tuổi có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, điều đó có nghĩa người dưới 18 tuổi khơng chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự đối với việc chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng mà có thể cịn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với việc chuẩn bị phạm tội
ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng. Quy định này nhằm thể chể hóa nguyên tắc mọi
hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, cơng minh theo đúng
pháp luật, đồng thời, đáp ứng thực tiễn cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm trong
những năm sắp tới.
2.2.4.
Về các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự
Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội đó là phải bảo đảm các lợi ích tốt nhất của các em. Vì vậy, việc lựa
chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, tạo mơi trường phát triển bình
thường cho người dưới 18 tuổi phạm tội là vô cùng quan trọng. Trong nhiều trường hợp,
việc áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống tư pháp chính thức, mang tính răn
đe, giáo dục xã hội (xử lý chuyển hướng) để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi mang lại
hiệu quả mong muốn và đó là một địi hỏi của Cơng ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em
và các chuẩn mực quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên. Cách thức xử lý không viện
dẫn đến các thủ tục tố tụng chính thức đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đang được sử
dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, đã và đang đem lại nhiều hiệu quả trong
1
6



việc giáo dục và phòng ngừa tội phạm vị thành niên cũng như đảm bảo lợi ích cộng đồng.
Có thể khẳng định, Khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) được xem là định hướng ban đầu cho việc xử lý chuyển hướng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, tạo cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét miễn trách
nhiệm hình sự và giao người dưới 18 tuổi cho gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo
dục. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định rõ ràng, cụ thể đã cản trở việc áp dụng xử lý
chuyển hướng trong thực tiễn. Ngoài ra, thực tiễn xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo
quy định tại Khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng như các chế tài không giam
giữ thiếu bài bản, không hiệu quả do thiếu các dịch vụ hỗ trợ và các nguồn nhân lực tại
cộng đồng hạn chế. Đồng thời, việc đa dạng hóa các biện pháp xử lý chuyển hướng là cần
thiết nhằm tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền được lựa chọn biện pháp xử lý chuyển
hướng phù hợp nhất đối với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý rằng,
biện pháp xử lý chuyển hướng được xem xét áp dụng với từng trường hợp cụ thể phải phù
hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
nhu cầu của người dưới 18 tuổi phạm tội và điều kiện cũng như các loại dịch vụ hỗ trợ tại
địa phương nơi người dưới 18 tuổi phạm tội cư trú như tham vấn, kèm cặp, tập huấn kỹ
năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội đang có chiều hướng
gia tăng và diễn biến phức tạp, tỷ lệ tái phạm tương đối cao, thực tiễn áp dụng những quy
định về tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, xã
hội, văn hóa, đối ngoại hiện nay và trước những yêu cầu hội nhập quốc tế theo hướng bảo
vệ tốt hơn nữa cho người dưới 18 tuổi phạm tội, hệ thống tư pháp hình sự của Việt Nam đã
bộc lộ một số hạn chế nhất định như các biện pháp thay thế xử lý chính thức chưa được
quan tâm, các quy định chưa thực sự bảo đảm vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tính thân
thiện trong quy trình tố tụng cũng như yêu cầu của các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ trẻ
em... Những bất cập này đặt ra yêu cầu phải xem xét, nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ
sung kịp thời hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung, pháp luật liên
quan đến hệ thống xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng mà trong đó việc xây dựng

một hệ thống các biện pháp chuyển hướng và quy trình xử lý chuyển hướng cụ thể đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là hết sức cần thiết nhằm bảo vệ tốt hơn lợi ích của người
dưới 18 tuổi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cũng như đảm bảo thực thi các nghĩa vụ quốc
tế của Việt Nam.
Trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nguyên tắc áp dụng
xử lý chuyển hướng được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 91, theo đó:
“2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp
dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
1
7


a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ
luật này.
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại
khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142,
144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này.
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trị khơng đáng kể trong vụ án”.
Đồng thời, các biện pháp xử lý chuyển hướng được quy định từ Điều 92 đến Điều
95, Mục 2, Chương XII với tên gọi: “Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong
trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự”. Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) về những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là đã
thể chế hóa bằng các quy định cụ thể về nguyên tắc, điều kiện, căn cứ, phạm vi, thủ tục áp
dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bước đầu tạo
ra nền tảng pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài thủ tục tố tụng hình sự
chính thức đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, huy động được đông đảo các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, công dân tham gia vào công tác cảm hóa, giáo dục người dưới 18

tuổi phạm tội nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh,
trở thành cơng dân có ích cho xã hội, thực hiện có hiệu quả phương châm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng và thực thi pháp
luật theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
2.2.5.
Về biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định biện pháp tư pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng tại Điều 96 đảm bảo nguyên tắc chỉ áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng
các biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không
đảm bảo hiệu quả giáo dục, phịng ngừa. Theo đó, Tịa án có thể áp dụng biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu
thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của
người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. Người được
giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, học
nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường. Đồng thời, để khuyến
khích người dưới 18 tuổi tích cực chấp hành biện pháp này và có nhiều tiến bộ thì theo đề
nghị của Trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý giáo dục, Tịa án có thể quyết
định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng nếu người dưới 18 tuổi đã chấp
hành được một phần hai thời hạn.
Với tư cách là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định
trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do Tòa án quyết định áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người dưới
1
8


18 tuổi. Hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ có thể là cảnh cáo, phạt

tiền, cải tạo khơng giam giữ, tù có thời hạn với căn cứ, phạm vi, điều kiện áp dụng có sự
thay đổi đáng kể trong sự so sánh với quy định của của Bộ luật Hình sự năm 1999. Cụ thể:
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu
nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. Đồng thời, hình
phạt tiền khơng chỉ được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng mà
còn được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng rất nghiêm trọng.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định cụ thể việc áp
dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ. Trước đây, trong Bộ luật Hình sự năm 1999, hình
phạt cải tạo khơng giam giữ chỉ áp dụng đối với trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
phạm tội nghiêm trọng thì nay quy định cả đối với cả trường hợp phạm tội rất nghiêm
trọng (Điều 100 Bộ luật Hình sự năm 2015): “Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp
dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ỷ hoặc
phạm tội ỉt nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phạm tội rất nghiêm trọng”.
Việc quy định như trên nhằm thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo hướng giảm hình phạt tù,
mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội
phạm và chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Việt Nam hiện nay.
2.2.6. Về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt, tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích.
Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa có quy định đặc thù về vấn đề quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với người dưới 18 tuổi, do đó
dẫn đến sự khơng thống nhất trong q trình áp dụng. Một số nơi vận dụng quy định tại
các Điều 17, 18, 52 Bộ luật Hình sự 1999 để áp dụng, một số nơi cho rằng khơng có cơ sở
pháp lý để quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
đối với người dưới 18 tuổi. Để giải quyết vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, cùng với
việc sửa đổi Điều 17 về chuẩn bị phạm tội, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) đã bổ sung 01 điều (Điều 102) về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với người dưới 18 tuổi. Theo đó: Mức hình phạt cao
nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội khơng q một phần
ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội
trong điều luật được áp dụng. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định trong
khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng. Mức hình
phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt
1
9


khơng q một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100, Điều 101 và mức hình phạt
cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không
quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các Điều 99, 100 và 101 của Bộ luật Hình sự
năm 2015.
Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 1999 chỉ mới quy định về tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội (Điều 75) mà chưa có quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Tại Điều 103 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) quy định việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội,
Điều 104 quy định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đã cụ thể hơn quy định trước đây,
thay cụm từ “tội nặng nhất” theo quy định cũ thành quy định “mức hình phạt Tịa án
tun nặng hơn...”.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung chế định tha tù
trước thời hạn có điều kiện. Đây là biện pháp trả tự do sớm có điều kiện áp dụng đối với
người đang chấp hành hình phạt tù để họ được cải tạo, sửa chữa lỗi lầm với sự giúp đỡ và
giám sát của gia đình, các cơ quan, đoàn thể xã hội. Điều 106 quy định: “Người dưới 18
tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều kiện sau đây: a)
Phạm tội lần đầu; b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; c) Đã chấp hành được một

phần ba thời hạn phạt tù; d) Có nơi cư trú rõ ràng”.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã hoàn thiện chế định xóa
án tích đối với người dưới 18 tuổi. Tại Điều 107 quy định:
“1. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là khơng có án tích, nếu thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;
c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành
xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi
hành bản án, người đó khơng thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 06 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) 01 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm”.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định rõ việc không
coi một người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc người từ đủ 16 tuổi nhưng dưới 18 tuổi
phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do vô ý hay người dưới 18 tuổi
bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là có án tích. Trong Bộ luật
2
0


×