VIỆN HÀN LÂM
KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ GIANG
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Văn Độ
Phản biện 1: …………………………………………
…………………………………………
Phản biện 2: …………………………………………
…………………………………………
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội ..... giờ ...... ngày ...... tháng ......
năm ......
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những quan điểm xuyên suốt đường lối và các
chính sách của Đảng và Nhà nước ta là coi con người vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển đất nước, trong đó trẻ em được ví
như măng non, là nguồn hạnh phúc của gia đình, là chủ nhân tương
lai kế tục sự nghiệp phát triển của đất nước.
Tuy nhiên trong những năm gần đây tình hình người dưới 18
tuổi phạm tội đã gia tăng về số lượng và có chiều hướng diễn biến
phức tạp, đòi hỏi phải có những biện pháp xử lý thích hợp, không chỉ
nhằm đảm bảo trật tự an toàn cho cộng đồng mà còn nhằm bảo vệ sự
phát triển bền vững của xã hội trong tương lai.
BLHS năm 2015 được ban hành, trong đó một trong những
nội dung lớn được sửa đổi, bổ sung là hoàn thiện chính sách hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo đảm sự phù hợp với
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường bảo vệ NCTN,
đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội được ghi nhận tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị, đồng thời bảo đảm sự phù hợp với Công ước của Liên hợp
quốc về Quyền trẻ em và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp
đối với NCTN.
Thực tiễn những năm qua cho thấy quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội còn có nhiều bất cập, hạn chế do
nhận thức và áp dụng không thống nhất các quy định của BLHS. Do
đó việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận, phân
tích các quy định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và đánh giá thực tiễn áp dụng trên một
địa bàn cụ thể; qua đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy
1
định pháp luật và nâng cao chất lượng quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực
tiễn.
Vì vậy, học viên đã lựa chọn Đề tài “Quyết định hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn huyện Bến Lức, tỉnh Long An” làm luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, việc nghiên cứu về hình phạt nói chung và
quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội nói riêng ở nước ta đã
có một số công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn
đề này. Những công trình nghiên cứu này đã có những đóng góp mới
về lý thuyết góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, cũng như hoàn
thiện lý luận về quyết định hình phạt, nhất là quyết định hình phạt
đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, có công trình phạm vi nghiên
cứu rộng, trong đó vấn đề quyết định hình phạt đối với NCTN phạm
tội chỉ là một phần trong nội dung nghiên cứu nên chưa được phân
tích sâu cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn; có những công trình
nghiên cứu về quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội nhưng
đã được tiến hành cách đây khá lâu nên giá trị lý luận và thực tiễn
không cao. Đặc biệt cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học
nào được công bố về những nghiên cứu cụ thể, toàn diện về quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bến Lức nói riêng và tỉnh Long
An chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đánh giá thực
trạng của việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
2
tội tại TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Qua đó làm sáng tỏ
những vướng, mắc hạn chế để đưa ra những yêu cầu và giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong phạm vi địa bàn huyện Bến Lức, tỉnh Long An giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về bảo vệ trẻ em, về chính sách hình
sự, đặc biệt là các quan điểm về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội
phạm đối với người dưới 18 tuổi, cũng như đường lối xử lý hình sự
đối với đối tượng này.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: Phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn và tham khảo chuyên
gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Với kết quả nghiên cứu của đề tài có thể góp phần hoàn thiện
pháp luật hình sự nói chung và lý luận về quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với
những người nghiên cứu, học tập liên quan đến người dưới 18 tuổi
phạm tội. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng
3
trong thực tiễn tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu
quả công tác xét xử của Tòa án khi giải quyết các vụ án hình sự do
người dưới 18 tuổi thực hiện tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung Luận văn gồm 03 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Chương 2. Quy định về quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại huyện Bến Lức, tỉnh
Long An.
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Ở nước ta, người được coi là có nhận thức đầy đủ là người từ
18 tuổi trở lên và người dưới 18 tuổi - hay còn gọi là NCTN là
“người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ”. Điều này được ghi nhận trong Bộ luật dân sự,
Bộ luật lao động… Như vậy pháp luật Việt Nam thống nhất xác định
tuổi thành niên là đủ 18 tuổi, người chưa đủ 18 tuổi là NCTN.
BLHS năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ người dưới 18 tuổi
thay cho thuật ngữ NCTN trong BLHS năm 1999, việc đổi mới này
khiến việc xác định và áp dụng pháp luật đối với đối tượng này được
cụ thể, rõ ràng và đồng bộ hơn, nhưng về bản chất thì không thay
đổi.
Tại Điều 8 BLHS năm 1999 định nghĩa “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có
năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý …” Điều 68
BLHS năm 1999 quy định: “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
phải chịu TNHS theo những quy định của Chương này, đồng thời
theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với
những quy định của Chương này”.
Theo tác giả, có thể đưa ra khái niệm về người dưới 18 tuổi
phạm tội như sau: “Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi không ở trong tình trạng không có năng lực
TNHS, cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
BLHS quy định là tội phạm tương ứng với từng độ tuổi”.
5
1.1.2. Những đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội tác
động đến quyết định hình phạt
- Đặc điểm về tâm sinh lý: Đây là độ tuổi chuyển giao từ giai
đoạn là trẻ em sang giai đoạn trưởng thành với nhiều thay đổi về tâm
sinh lý. Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất, tâm sinh lý của
người dưới 18 tuổi cũng có sự thay đổi lớn, họ thường cố gắng khẳng
định sự trưởng thành, vai trò của bản thân đối với mọi người, trong
khi chưa có đủ kiến thức và kinh nghiệm sống như người trưởng
thành. Người dưới 18 tuổi dễ bị người khác kích động, dụ dỗ.
- Đặc điểm về khả năng giáo dục: Có thể nói người dưới 18
tuổi dễ tiếp thu sự giáo dục để trở thành người tốt hơn so với người
đã thành niên. Nếu như sự thiếu chín chắn, thiếu kiến thức và kinh
nghiệm sống có thể dẫn người dưới 18 tuổi đến việc thực hiện xử sự
phạm tội thì đồng thời cũng thể hiện tính chống đối xã hội của những
người ở độ tuổi này khi thực hiện xử sự phạm tội thấp hơn so với
người thành niên trong tình huống tương tự.
- Chính sách của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội: Từ yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo và phân hóa TNHS, đặc
biệt là nguyên tắc “việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi”. Vì vậy TNHS của
người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc thù riêng đó là: Có tính
chất giảm nhẹ hơn so với người phạm tội đã thành niên; được tiến
hành theo thủ tục đặc biệt.
1.2. Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
6
Theo chúng tôi, “Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một
nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án đưa
ra biện pháp TNHS, lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy
định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để
áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội”.
Người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt, BLHS có một
chương riêng về việc áp dụng đối với đối tượng này. Do đó quyết
định hình phạt đối với họ vừa có những đặc điểm của quyết định
hình phạt nói chung vừa có những đặc điểm riêng khác. Chúng ta có
thể coi “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
việc Tòa án theo thủ tục tố tụng nhất định đưa ra biện pháp TNHS
đối với người thực hiện tội phạm khi chưa đủ 18 tuổi trên cơ sở quy
định pháp luật hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, các đặc điểm nhân thân của người dưới 18 tuổi và
những ưu tiên đặc biệt của pháp luật đối với họ”.
1.2.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi
1.2.2.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt chung
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Khi áp
dụng hình phạt đối với người bị kết án Tòa án phải tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định của luật hình sự. Đây là một nguyên tắc vô cùng
quan trọng, vì có thể áp dụng các nguyên tắc khác của chế định quyết
định hình phạt vào thực tiễn xét xử chỉ khi tuân thủ nghiêm chỉnh
nguyên tắc này. Việc áp dụng hình phạt chỉ đối với người thực hiện
hành vi phạm tội đã được quy định cụ thể trong luật. Điều 2 BLHS
hiện hành nước ta ghi rõ: “Chỉ người nào phạm tội đã được luật hình
sự quy định mới phải chịu TNHS”. Khi quyết định hình phạt Tòa án
phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ
7
thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật.
Thứ hai, nguyên tắc nhân đạo: Khi quyết định hình phạt Tòa
án phải cân nhắc lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của người phạm
tội trong một tổng thể thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý.
Điểm nổi bật của nguyên tắc nhân đạo khi quyết định hình phạt thể
hiện ở chỗ BLHS nước ta quy định các biện pháp miễn, giảm TNHS;
hạn chế sự trừng trị, trong mọi trường hợp không cho phép Tòa án
quyết định hình phạt quá mức cần thiết.
Thứ ba, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt: Khi quyết định
hình phạt Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự
và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân nhắc tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS để quyết định đối với
bị cáo một loại và mức hình phạt cụ thể.
Thứ tư, nguyên tắc công bằng: Thể hiện ở chỗ, loại và mức
hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với tội phạm đã thực
hiện và nhân thân người phạm tội. Nghĩa là tội đã phạm càng nghiêm
trọng và trong những điều kiện khác giống nhau, thì hình phạt càng
nghiêm khắc và ngược lại. Mọi người phạm tội đều phải chịu trách
nhiệm một cách bình đẳng trước pháp luật hình sự.
1.2.2.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đặc thù
Khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt chung
nêu trên còn phải tuân thủ một số nguyên tắc riêng đặc thù sau:
Môt là, nguyên tắc giảm nhẹ hình phạt: TNHS nói chung và
hình phạt nói riêng được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội. Tuy nhiên
mức độ giảm nhẹ hình phạt được xác định trong khuôn khổ luật định.
8
Hai là, nguyên tắc coi trọng và đề cao mục tiêu giáo dục, cải
tạo: Những người phạm tội đều có khả năng phục thiện thông qua
con đường giáo dục thích hợp. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
thì có khả năng cải tạo, phục thiện cao hơn vì nhân cách của họ đang
trong quá trình hình thành, dễ cải biến nếu được giáo dục, giúp đỡ.
Ba là, nguyên tắc không áp dụng hình phạt đặc biệt nghiêm
khắc: Xuất phát từ hai nguyên tắc giảm nhẹ và coi trọng mục tiêu
giáo dục nên những hình phạt nghiêm khắc (tù chung thân, tử hình)
không cho người dưới 18 tuổi phạm tội cơ hội được cải tạo, trở thành
người lương thiện, tái hòa nhập công đồng phải được loại bỏ.
Bốn là, nguyên tắc hạn chế việc cách ly NCTN phạm tội khỏi
môi trường sống bình thường của họ: Người dưới 18 tuổi là những
người chưa có khả năng sinh sống độc lập mà còn lệ thuộc vào sự
nuôi dưỡng, chăm sóc, quan tâm của gia đình, nhà trường, cộng đồng
xã hội nơi họ sinh sống; Do vậy cần hạn chế tối đa việc áp dụng hình
phạt cách ly họ khỏi môi trường sống bình thường.
1.2.3. Các căn cứ quyết định hình phạt
1.2.3.1. Các căn cứ chung
- Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS: Khi xét xử
Tòa án căn cứ vào các quy định Phần chung và Phần các tội phạm
của BLHS để quyết định hình phạt đúng đắn. BLHS là căn cứ cơ bản
và thống nhất cho việc quyết định hình phạt và tuân thủ BLHS cũng
chính là tuân thủ một trong những nguyên tắc quyết định hình phạt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội: Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội là
thuộc tính khách quan của một loại tội nhất định, được xác định bởi
tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm, trong đó quan trọng
9
nhất là ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của những quan
hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại, tức là khách thể của tội phạm.
- Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Để hình
phạt đã tuyên tương xứng với hành vi phạm tội, phù hợp khả năng
cải tạo, giáo dục của bị cáo cũng như hoàn cảnh của họ, khi quyết
định hình phạt Tòa án phải căn cứ cả vào nhân thân người phạm tội.
- Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
TNHS: Tòa án phải tuân thủ quy định có tính nguyên tắc, các tình tiết
tăng nặng chỉ là những tình tiết đã được quy định rõ trong luật, còn
các tình tiết giảm nhẹ có thể là những tình tiết được quy định trong
luật, cũng có thể không được quy định cụ thể trong luật nhưng được
Tòa án coi là tình tiết giảm nhẹ và phải nói rõ lý do và ghi rõ trong
bản án.
1.2.3.2. Các căn cứ đặc thù
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi quyết định hình
phạt Tòa án vừa phải tuân theo những căn cứ chung nêu trên vừa
phải tuân theo các căn cứ đặc thù:
- Căn cứ vào nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội.
- Căn cứ vào độ tuổi, tình trạng thể chất, tinh thần và mức
độ nhận thức hành vi của NCTN.
- Căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện sống và điều kiện giáo
dục của NCTN.
10
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI HUYỆN BẾN LỨC - TỈNH LONG AN
2.1. Quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
2.1.1. Quy định về mục đích hình phạt và các biện pháp
TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
2.1.1.1. Mục đích hình phạt
Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà
nước mong muốn đạt được khi quy định và áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội. Mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27
BLHS hiện hành: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm
tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật và quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Đối với hình phạt áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội,
mục đích giáo dục luôn là mục đích chính trong các hình phạt áp
dụng đối với họ. Điều 69 BLHS năm 1999 quy định “Việc xử lý
NCTN phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”.
2.1.1.2. Các biện pháp TNHS áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
* Các biện pháp tư pháp
Theo quy định tại Điều 70 BLHS hiện hành, đối với NCTN
phạm tội Tòa án có thể quyết định áp dụng một trong hai biện pháp
11
tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa là giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và đưa vào trường giáo dưỡng.
BLHS năm 2015 đã sửa đổi quy định ba biện pháp có thể
được cân nhắc áp dụng đối với NCTN được miễn TNHS. Trong đó
hai biện pháp hoàn toàn mới là khiển trách và hòa giải tại cộng đồng;
chuyển biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thành một
trong những biện pháp giám sát, giáo dục khi được miễn TNHS
nhằm tăng khả năng áp dụng các biện pháp có lợi hơn cho NCTN.
* Các hình phạt được áp dụng
Trong trường hợp không có cơ sở để miễn hình phạt hay áp
dụng các biện pháp tư pháp thì Tòa án áp dụng một trong các hình
phạt chính được quy định trong Điều 71 BLHS hiện hành đó là cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. BLHS năm
2015 đã mở rộng khả năng áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý (Điều 100).
2.1.2. Quy định về các căn cứ quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
2.1.2.1. Các quy định của BLHS
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy
định của BLHS tức là căn cứ vào các quy định của Phần chung và
Phần các tội phạm của BLHS. Đối với người dưới 18 tuổi - hay còn
gọi là NCTN là đối tượng đặc biệt, BLHS có một chương riêng
(chương X) về việc áp dụng đối với họ. Nên khi quyết định hình phạt
đối với NCTN phạm tội, Hội đồng xét xử phải dựa vào các quy định
ở Phần chung không trái với quy định tại chương X, đồng thời áp
dụng các quy định đặc thù đối với NCTN. Ngoài ra Tòa án phải căn
cứ vào chế tài của điều luật quy định tội phạm mà bị cáo thực hiện.
12
2.1.2.2. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội ngoài việc
căn cứ vào các quy định của BLHS, Tòa án phải cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan của một loại
tội nhất định, được xác định bởi tổng thể các yếu tố khách quan và
chủ quan của tội phạm, trong đó quan trọng nhất là ý nghĩa, tính
chất, tầm quan trọng và giá trị của quyền, lợi bị hành vi phạm tội
xâm hại, tức là khách thể của tội phạm. Khi quyết định hình phạt cần
lưu ý trong những điều kiện khác giống nhau, hậu quả gây ra càng
nghiêm trọng thì mức độ hình phạt được quyết định càng phải
nghiêm khắc.
2.1.2.3. Nhân thân người phạm tội
Việc nghiên cứu, cân nhắc, đánh giá nhân thân người phạm
tội để làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa trực tiếp đối với việc
quyết định hình phạt như: Tái phạm, phạm tội nhiều lần, động cơ,
mục đích của tội phạm… nhằm làm giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS.
Đồng thời làm rõ nguyên nhân, các điều kiện phạm tội, đạo đức, lối
sống, trình độ văn hóa, các mối quan hệ nói lên mặt tốt, mặt xấu của
người phạm tội. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài những
điểm đã nêu còn cần chú ý những yếu tố như: Độ tuổi, tình trạng thể
chất và mức độ nhận thức; điều kiện sống, điều kiện giáo dục; việc
phạm tội có người thành niên xúi giục hay không.
2.1.2.4. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS
Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là một
trong những căn cứ của việc quyết định hình phạt, tức là một trong
những điều kiện quan trọng của việc cá thể hóa hình phạt. Ý nghĩa
13
của từng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS tùy thuộc vào từng vụ
án cụ thể, từng người phạm tội cụ thể. Các tình tiết tăng nặng chỉ là
những tình tiết đã được quy định rõ trong luật (Điều 48 BLHS), còn
các tình tiết giảm nhẹ có thể là những tình tiết được quy định trong
luật, cũng có thể không được quy định trong luật nhưng được Tòa án
coi là tình tiết giảm nhẹ và phải nói rõ lý do và ghi rõ trong bản án.
2.1.3. Quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Thứ nhất, “việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
công dân có ích cho xã hội…” BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung
theo hướng đề cao nguyên tắc đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người
dưới 18 tuổi khi xử lý hình sự: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi…”
Thứ hai, “NCTN phạm tội có thể được miễn TNHS, nếu
người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục”.
Thứ ba, việc truy cứu TNHS NCTN phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và
phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm
về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Thứ tư, khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng
hình phạt đối với NCTN phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của BLHS. BLHS năm
2015 đã sửa đổi theo hướng khi xét xử người dưới 18 tuổi, Tòa án
trước hết phải cân nhắc để áp dụng việc miễn TNHS và áp dụng một
trong các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc áp dụng biện pháp giáo
14
dục tại trường giáo dưỡng và chỉ áp dụng hình phạt nếu các biện
pháp này không đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
Thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
NCTN phạm tội. Khi áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội cần
hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho
NCTN phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối
với người đã thành niên phạm tội tương tự. Không áp dụng hình phạt
tiền đối với NCTN phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuối đến dưới 16 tuổi.
Đặc biệt không áp dụng hình phạt bổ sung đối với NCTN phạm tội.
Thứ sáu, án đã tuyên đối với NCTN phạm tội khi chưa đủ 16
tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
2.1.4. Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội trong các trường hợp đặc biệt
2.1.4.1. Quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật là trường
hợp đặc biệt của việc quyết định hình phạt khi người phạm tội có các
quy định tại Điều 47 BLHS hiện hành. Trong một số trường hợp
người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhất là các tình tiết giảm
nhẹ đặc biệt của vụ án, dẫn đến khả năng là trong trường hợp đó cho
dù Tòa án có quyết định hình phạt ngang với mức tối thiểu của
khung hình phạt tương xứng trong chế tài lựa chọn, thì vẫn còn quá
nghiêm khắc. Do đó nhà làm luật quy định quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. Quy định này vừa thể hiện tính nhân đạo
vừa đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối
với người phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
2.1.4.2. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội
15
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là
quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo đã phạm từ hai tội trở
lên mà các tội đó chưa được đưa ra xét xử, chưa hết thời hiệu truy
cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng một lần. Khi quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp này Tòa
án phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội tại Điều 50 BLHS hiện hành, đồng thời
phải tuân thủ những quy định riêng đối với NCTN về tổng hợp hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội tại Điều 75 BLHS.
BLHS năm 2015 ban hành đã quy định rõ nguyên tắc tổng
hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và mức phạt cao nhất
áp dụng đối với từng hình phạt cụ thể (Điều 103).
2.1.4.3. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội
đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu TNHS về tội định thực hiện,
người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt,
(Điều 17, Điều 18, BLHS năm 1999). Vì vậy, NCTN từ đủ 16 tuổi
trở lên sẽ phải chịu TNHS về chuẩn bị phạm tội và tội phạm chưa đạt
như người đã thành niên khác. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về hành vi chuẩn bị phạm tội
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và chỉ phải chịu TNHS về
hành vi phạm tội chưa đạt đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. BLHS năm 2015 đã sửa đổi
Điều 17 về chuẩn bị phạm tội, bổ sung thêm Điều 102 về quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An
16
2.2.1. Khái quát tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội trên
địa bàn huyện Bến Lức, tỉnh Long An
Theo thống kê của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An, từ
năm 2011 đến năm 2016 tổng số bị cáo bị Tòa án đưa ra xét xử là
1.107, trong đó số bị cáo là người dưới 18 tuổi là 63. Trung bình mỗi
năm có 10,5 người dưới 18 tuổi bị xét xử, chiếm khoảng 5,9% tổng
số bị cáo bị xét xử.
Qua kết quả nghiên cứu và phân tích các hành vi phạm tội
của người dưới 18 tuổi khá đa dạng. Từ các tội xâm phạm quyền sở
hữu (trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản) cho đến các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
(cố ý gây thương tích, hiếp dâm), các loại tội xâm phạm trật tự công
cộng… Trong số các tội phạm nói trên thì tội trộm cắp có tỷ lệ cao
nhất chiếm 49,20% (31/63 bị cáo) trong tổng số bị cáo là người dưới
18 tuổi phạm tội và hàng năm đều xảy ra. Tiếp theo là tội cướp tài
sản chiếm tỷ lệ 11,11% (7/63 bị cáo) trong tổng số bị cáo là người
dưới 18 tuổi phạm tội. Kế tiếp là tội cố ý gây thương tích cũng có tỷ
lệ 11,11% (7/63 bị cáo) trong tổng số bị cáo là người dưới 18 tuổi
phạm tội. Các tội còn lại chiếm tỷ lệ thấp hơn.
2.2.2. Kết quả quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An
Trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2016 TAND huyện
Bến Lức đã thụ lý và xét xử 52 vụ 63 bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Loại hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
hình phạt tù có thời hạn chiếm 63,49% (40/63 bị cáo) và hình phạt tù
nhưng cho hưởng án treo chiếm 22,22% (14/63 bị cáo); hình phạt cải
tạo không giam giữ chiếm số lượng thấp 14,29% (9/63 bị cáo); hình
phạt cảnh cáo và phạt tiền chưa được áp dụng.
17
Để đánh giá việc quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội qua thực tiễn xét xử tại TAND huyện Bến Lức,
Chúng tôi đã so sánh với việc quyết định hình phạt chung của
TAND huyện Bến Lức, đồng thời tiến hành nghiên cứu hơn 50 bản
án có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Nhìn chung các bản án đều thể
hiện việc quyết định hình phạt là công bằng, nghiêm minh, hợp lý,
đủ sức răn đe và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo áp dụng đúng pháp
luật. Điều này được thể hiện qua số lượng kháng cáo rất thấp 08/63
bị cáo và không có kháng nghị của Viện kiểm sát. Đặc biệt trong 08
bị cáo là người dưới 18 tuổi kháng cáo, cấp phúc thẩm xét xử kết
quả: Giữ nguyên mức hình phạt của cấp sơ thẩm 06 bị cáo, đình chỉ
xét xử phúc thẩm 01 bị cáo và sửa mức hình phạt 01 bị cáo.
2.2.3. Những vướng mắc, hạn chế trong quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Bến
Lức, tỉnh Long An và nguyên nhân
2.2.3.1. Những vướng mắc, hạn chế
Thứ nhất, việc nhận định về nhân thân bị cáo, về xác định
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, chưa phân tích sâu tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà chỉ phân tích
chung chung, dẫn đến có tình trạng quyết định hình phạt chưa
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ hai, hình phạt cải tạo không giam giữ chưa được chú
trọng áp dụng mặc dù có lợi hơn trong việc giáo dục, giúp đỡ người
dưới 18 tuổi sửa chữa sai lầm, tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, hình phạt tù chiếm tỉ lệ cao trong số các hình phạt
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (40/63 bị cáo ≈
63,49%; án treo là 14/63 bị cáo ≈ 22,22%) là chưa phù hợp với
18
đường lối xử lý “khi áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội cần
hạn chế áp dụng hình phạt tù”.
Thứ tư, việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội vẫn còn nghiêm khắc, chưa phản ánh đúng chính sách
hình sự nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi. Thể hiện không có
trường hợp nào Toà án áp dụng biện pháp tư pháp hoặc miễn
TNHS để áp dụng biện pháp xử lý khác.
2.2.3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế
Thứ nhất, pháp luật hình sự còn có những quy định chưa rõ
ràng, chưa có hướng dẫn cụ thể trong việc quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Các quy định về quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, việc áp dụng các tình
tiết “phạm tội đối với trẻ em” hoặc “xúi giục NCTN phạm tội” …
Thứ hai, việc hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS về
người dưới 18 tuổi vẫn còn nhiều hạn chế. Cho đến nay vẫn chưa có
một hướng dẫn riêng về thực hiện chính sách hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, Toà án còn thiếu các Thẩm phán chuyên trách về
NCTN. Đến nay vẫn chưa thiết lập đồng bộ Tòa chuyên trách xét xử
các vụ án do NCTN thực hiện.
Thứ tư, cơ chế giám sát, theo dõi người dưới 18 tuổi phạm
tội chưa được các cơ quan có thẩm quyền đảm bảo thi hành dẫn đến
việc các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đối với NCTN
phạm tội đạt hiệu quả không cao, do đó việc cân nhắc xem xét khi
quyết định hình phạt cũng gặp nhiều khó khăn.
19
Chương 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
- Thứ nhất, yêu cầu của Cải cách tư pháp: Cải cách tư pháp
là chủ trương lớn của Đảng nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, chủ động hội nhập
quốc tế. Trong đó Tòa án được xác định là cơ quan có vai trò quan
trọng, là điểm trung tâm trong tiến trình cải cách tư pháp. Về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định tại Nghị quyết số
49/NQ-TW của Bộ chính trị.
- Thứ hai, yêu cầu bảo vệ quyền con người trong Nhà nước
pháp quyền theo Hiến pháp 2013: Hiến pháp năm 2013 với mục tiêu
quan trọng là tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm chủ quyền Nhân
dân, thực hiện tốt hơn quyền con người. Điều 2 Hiến pháp năm 2013
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân
làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…” Theo Hiến
pháp năm 2013 thì Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp. Sứ mệnh của TAND là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước...
- Thứ ba, yêu cầu của chính sách bảo vệ trẻ em: Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em là đường lối nhất quán, xuyên suốt
20
trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quyền trẻ
em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 cho đến Hiến pháp
năm 2013 quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại Điều 37: “Trẻ em
được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục…”
Luật trẻ em năm 2016 tại Điều 5 quy định “Bảo đảm lợi ích tốt nhất
của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em…” Đặc biệt
ngày 20/02/1990 Việt Nam đã phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền
trẻ em.
3.2. Các giải pháp
3.2.1. Quán triệt và triển khai thực hiện các quy định mới
của BLHS năm 2015
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 có nhiều điểm
mới, đặc biệt các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có
những thay đổi lớn, đánh dấu bước tiến trong nội luật hóa Công ước
quyền trẻ em, cần sớm triển khai thực hiện BLHS năm 2015, bởi lẽ:
Một là, BLHS năm 2015 ghi nhận đầy đủ hơn các nguyên tắc
xử lý NCTN phạm tội được quy định tại Công ước của Liên hiệp
quốc về quyền trẻ em. Đó là nguyên tắc “Việc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
“Khi xét xử Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các
biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo
đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa”.
Hai là, BLHS năm 2015 thu hẹp phạm vi TNHS của người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Ba là, BLHS năm 2015 mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
21
Bốn là, BLHS năm 2015 cụ thể hóa điều kiện miễn TNHS áp
dụng riêng cho từng đối tượng NCTN phạm tội (người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi”.
Năm là, BLHS năm 2015 mở rộng phạm vi không bị coi là
có án tích đối với NCTN phạm tội.
Sáu là, BLHS năm 2015 bổ sung chế định tha tù trước thời
hạn có điều kiện.
Theo chúng tôi, có lẽ cách tốt nhất để quán triệt và triển khai
thi hành BLHS 2015 là Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao nên ban hành Nghị quyết chuyên đề hướng dẫn một cách đầy đủ,
toàn diện và hệ thống việc áp dụng quy định của Chương XII về
những quy định đối với người dưới 18 tuổi thực hiện.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
BLHS năm 2015 được ban hành có nhiều điểm mới, bổ sung
những hạn chế trong BLHS hiện hành. Tác giả đồng tình với những
điểm mới mà BLHS năm 2015 đã sửa đổi bổ sung về TNHS của
người dưới 18 tuổi nói chung và quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi nói riêng. Song bên cạnh đó, vẫn còn có một số vấn đề
tác giả cho rằng cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định
khác của pháp luật, cụ thể:
Một là, quy định hình phạt cảnh cáo thành một điều luật
riêng với các nội dung tương ứng với hai nhóm độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Hai là, bổ sung một quy định riêng về quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nhằm tạo ra sự đồng bộ trong việc xử lý cho đối tượng này.
Ba là, để tăng việc áp dụng các hình phạt không phải là hình
phạt tù, nhà làm luật cần nghiên cứu tăng số lượng các điều khoản có
22
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là hình phạt được áp dụng độc lập
ở trong các tội phạm cụ thể.
Đồng thời, có thể nghiên cứu mở rộng phạm vi áp dụng Điều
54 BLHS 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bằng cách quy
định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không cần nhiều tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51; việc giảm nhẹ không nhất
thiết phải là ở khung liền kề; chuyển sang hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn không chỉ trong trường hợp điều luật chỉ có một khoản hoặc
là khoản nhẹ nhất…
Bốn là, cần đa dạng hóa hình phạt trong BLHS để tạo điều
kiện cho Tòa án có thể phân hóa đối với từng loại tội phạm.
Năm là, bổ sung một quy định riêng đối với gia đình, nhà
trường và các tổ chức có liên quan trong việc thực hiện các biện pháp
tư pháp tại địa phương.
3.2.3. Các giải pháp khác
Thứ nhất, hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết kinh
nghiệm xét xử: Với nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định và
để đảm bảo yêu cầu khách quan của thực tiễn, TAND Tối cao cần
thường xuyên hướng dẫn các Tòa án các cấp áp dụng thống nhất
pháp luật cũng như tổng kết thực tiễn xét xử.
Thứ hai, ban hành án lệ: Hội đồng Thẩm phán TAND Tối
cao cần tiếp tục ban hành án lệ và sớm ban hành án lệ về hình sự
trong đó có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, triển khai thành lập Tòa án gia đình và NCTN: Cho
đến hiện nay TAND tỉnh Long An chưa thành lập Tòa gia đình và
NCTN, trên cả nước mới có TAND thành phố Hồ Chí Minh thành
lập Tòa án này. Cần phải có sự chuẩn bị tốt về nhân sự, cơ sở vật
chất cho triển khai Tòa gia đình và NCTN.
23