Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện bến lức, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.04 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ GIANG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ GIANG

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bến Lức, tỉnh Long An” là công trình
nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Văn Độ.
Tôi xin cam đoan số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin và tài liệu trích dẫn
trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................................................. 6
1.1. Lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội..... ................................................................ 6
1.2. Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ................. 10
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI HUYỆN BẾN
LỨC - TỈNH LONG AN ........................................................................................ 25
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội............................................................................................................................25

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Tòa án
nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An ........................................................................ 50
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ..... 65
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội ............................................................................................................................... 65
3.2. Các giải pháp ............................................................................................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

NCTN:

Người chưa thành niên

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng số bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tổng số bị cáo đã xét xử ở
huyện Bến Lức từ năm 2011 đến năm 2016 ………………………………………51
Bảng 2.2. Loại tội mà người dưới 18 tuổi đã bị xét xử ở huyện Bến Lức từ năm
2011 đến năm 2016 ………………………………………………………………..51
Bảng 2.3. Kết quả quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở
huyện Bến Lức từ năm 2011 đến năm 2016 …………………………….………..54
Bảng 2.4. Kết quả quyết định hình phạt đối với các bị cáo ở huyện Bến Lức từ
năm 2011 đến năm 2016 ……………………………….………………..……….55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những quan điểm xuyên suốt đường lối và các chính sách của
Đảng và Nhà nước ta là coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển đất nước, trong đó trẻ em được ví như măng non, là nguồn hạnh phúc của gia
đình, là chủ nhân tương lai kế tục sự nghiệp phát triển của đất nước. Báo cáo Chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng khẳng định: “…Bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi
trường để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ; chú trọng bảo vệ
và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu,
vùng xa, vùng có nhiều khó khăn; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em;
nhân rộng các mô hình làm tốt việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng…”
[1, tr.26].
Tuy nhiên trong những năm gần đây tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội
đã gia tăng về số lượng và có chiều hướng diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải có
những biện pháp xử lý thích hợp, không chỉ nhằm đảm bảo trật tự an toàn cho cộng
đồng mà còn nhằm bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội trong tương lai. Trong
khi đó BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 là “một trong những công
cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [19, tr.45] được

ban hành đã lâu, một số quy định của Bộ luật không còn phù hợp với điều kiện phát
triển của đất nước, chưa đáp ứng được yêu cầu của xu thế hội nhập cũng như yêu
cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm dưới 18 tuổi nói riêng.
BLHS năm 2015 đã được ban hành, trong đó một trong những nội dung lớn
được sửa đổi, bổ sung là hoàn thiện chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nhằm bảo đảm sự phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về
tăng cường bảo vệ NCTN, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội được ghi nhận tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị, đồng thời bảo đảm sự phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về
Quyền trẻ em và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về tư pháp đối với NCTN. Theo
1


BLHS năm 2015, chính sách xử lý đối với NCTN phạm tội đã được sửa đổi, bổ
sung nhiều nội dung như nguyên tắc xử lý, phạm vi TNHS của người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi, các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp người dưới 18
tuổi được miễn TNHS, xóa án tích, đặc biệt là các chế định pháp lý về quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình
phạt.
Thực tiễn những năm qua cho thấy quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội còn có nhiều bất cập, hạn chế do nhận thức và áp dụng không
thống nhất các quy định của BLHS. Do đó việc nghiên cứu một cách có hệ thống
các vấn đề lý luận; phân tích các quy định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đánh giá thực tiễn áp dụng trên một địa bàn
cụ thể; qua đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật và
nâng cao chất lượng thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Vì vậy, học viên đã lựa chọn Đề tài “Quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Bến Lức,
tỉnh Long An” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, việc nghiên cứu về hình phạt nói chung và quyết định hình
phạt đối với NCTN phạm tội nói riêng ở nước ta đã có một số công trình khoa học
đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề này hoặc xem xét nó trong tương quan là
một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận hoặc trong một số
luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ luật học như: TS. Hoàng Văn Hùng, “Chương
XVI – TNHS đối với NCTN phạm tội”, trong sách Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên);
PGS.TS. Trần Đình Nhã, “Chương XXIV – TNHS đối với NCTN phạm tội”, trong
sách Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003
(GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên); Luận án tiến sỹ luật học của TS. Dương Tuyết
Miên về “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, 2003; Luận văn thạc
2


sỹ luật học của Ths. Nguyễn Minh Khuê về “quyết định hình phạt đối với NCTN
phạm tội”, 2007 … Ngoài ra còn có một số công trình đăng trên các tạp chí chuyên
ngành khác như: GS.TSKH. Lê Cảm, TS. Đỗ Thị Phượng, tư pháp hình sự đối với
NCTN: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh
luật học, Tạp chí TAND số 20/2004; Ths. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối
với NCTN phạm tội, Tạp chí TAND số 6/2007… Những công trình nghiên cứu trên
đã có những đóng góp mới về lý thuyết góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, cũng
như hoàn thiện lý luận về quyết định hình phạt, nhất là quyết định hình phạt đối với
NCTN phạm tội. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy một số
công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, trong đó vấn đề quyết định hình phạt đối
với NCTN phạm tội chỉ là một phần trong nội dung nghiên cứu nên chưa được phân
tích sâu cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn; có những công trình nghiên cứu về
quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội nhưng đã được tiến hành cách đây khá
lâu nên giá trị lý luận và thực tiễn không cao. Đặc biệt cho đến nay vẫn chưa có
công trình khoa học nào được công bố về những nghiên cứu cụ thể, toàn diện về

quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An. Mặt khác BLHS năm 2015 đã đươc ban hành
trong đó những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có nhiều sửa đổi bổ
sung so với các quy định trong BLHS năm 1999 và các quy định về pháp luật hình
sự trước đây. Chính vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội rất có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phân tích quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng tại TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An; làm sáng tỏ
những vướng mắc, hạn chế để đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội;
- Phân tích các quy định của BLHS hiện hành và so sánh với BLHS năm
2015 liên quan đến quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;
- Đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội tại TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
- Đưa ra những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định hiện hành của pháp luật hình sự
Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nghiên cứu

thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua các số
liệu, báo cáo và các bản án của TAND huyện Bến Lức, TAND tỉnh Long An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp
luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong phạm vi
địa bàn huyện Bến Lức, tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
bảo vệ trẻ em, về chính sách hình sự, đặc biệt là các quan điểm về cải tạo, giáo dục,
phòng ngừa tội phạm đối với người dưới 18 tuổi, cũng như đường lối xử lý hình sự
đối với đối tượng này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: Phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
4


khảo sát thực tiễn và tham khảo chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Với kết quả nghiên cứu của đề tài có thể góp phần hoàn thiện pháp luật hình
sự nói chung và lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với những người
nghiên cứu, học tập liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể được sử dụng trong thực tiễn tiến hành hoạt động áp dụng pháp
luật, nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án khi giải quyết các vụ án hình sự

do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
văn gồm 03 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
Chương 2. Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội và thực tiễn áp dụng tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Không phải từ khi sinh ra con người đã có nhận thức đầy đủ về tự nhiên, xã
hội, về chính mình. Khả năng nhận thức được những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội
không tồn tại một cách bẩm sinh mà là kết quả của quá trình sống, hoạt động giao
tiếp trong môi trường xã hội với một thời gian nhất định. Khi khả năng nhận thức
những yêu cầu, đòi hỏi của con người đạt đến một giới hạn nhất định thì họ mới
hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong đời sống xã hội, mới thấy được những
đòi hỏi của xã hội đối với họ và từ đó mới có thể đánh giá được ý nghĩa xã hội của
hành vi mà mình đã thực hiện. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia, do những điều kiện kinh
tế, xã hội khác nhau nên pháp luật cũng quy định độ tuổi đạt được mức độ nhận
thức đầy đủ khác nhau.
Ở nước ta, người được coi là có nhận thức đầy đủ là người từ 18 tuổi trở lên

và người dưới 18 tuổi - hay còn gọi là NCTN là “người chưa đến tuổi được pháp
luật công nhận với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ” [36]. Điều này được ghi nhận
trong các ngành luật như Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là NCTN”,
và tiếp tục được quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 “NCTN là
người chưa đủ mười tám tuổi”. Ngoài ra Bộ luật lao động năm 2012 tại Điều 161
quy định “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”… Như
vậy pháp luật Việt Nam thống nhất xác định tuổi thành niên là đủ 18 tuổi, người
chưa đủ 18 tuổi là NCTN.
Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ NCTN được sử dụng dưới hai góc độ vừa
là chủ thể của tội phạm vừa là đối tượng tác động của tội phạm. BLHS năm 2015
ban hành đã sử dụng thuật ngữ người dưới 18 tuổi thay cho thuật ngữ NCTN được
sử dụng trong BLHS năm 1999, việc đổi mới này khiến việc xác định và áp dụng
6


pháp luật đối với đối tượng này được cụ thể, rõ ràng và đồng bộ hơn, nhưng về bản
chất thì không thay đổi. Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm, độ tuổi của NCTN
phạm tội được giới hạn hẹp hơn so với độ tuổi của NCTN trong các ngành luật
khác, đó là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Điều 68 BLHS năm 1999 quy
định: “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu TNHS theo những quy định
của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này”. Nhưng tại Điều 12 BLHS năm
1999 đã có sự phân hóa TNHS trong lứa tuổi NCTN:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Để xác định TNHS của người dưới 18 tuổi thì phải xác định được họ đã thực
hiện một trong những hành vi tội phạm được mô tả trong BLHS. Tại Điều 8 BLHS
năm 1999 định nghĩa “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý …”
Như vậy để xác định một người nào đó phải chịu TNHS thì phải xác định đủ các
yếu tố như: sự việc xảy ra có đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm được quy định
trong BLHS; người thực hiện hành vi phạm tội đó phải có năng lực TNHS; sự việc
xảy ra do lỗi của người đó.
Trên cơ sở các lập luận trên, theo tác giả, có thể đưa ra khái niệm về người
dưới 18 tuổi phạm tội như sau: “Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS, cố ý hoặc vô ý
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm tương ứng
với từng độ tuổi”.
1.1.2. Những đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội tác động đến
quyết định hình phạt
- Đặc điểm về tâm sinh lý
So với người thành niên, NCTN nói chung, người đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội nói riêng có các đặc điểm tâm sinh lý xã hội khác biệt nhất định tác
7


động đến việc truy cứu TNHS và quyết định hình phạt đối với họ. Đây là độ tuổi
chuyển giao từ giai đoạn là trẻ em sang giai đoạn trưởng thành với nhiều thay đổi về
tâm sinh lý. Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất, tâm sinh lý của người dưới
18 tuổi cũng có sự thay đổi lớn, họ thường cố gắng khẳng định sự trưởng thành, sự
độc lập cũng như vai trò của bản thân đối với những người xung quanh bằng cả lời
nói và những xử sự cụ thể. Trong khi chưa có đủ kiến thức và kinh nghiệm sống
như người trưởng thành, việc người dưới 18 tuổi cố gắng thể hiện vai trò, bản lĩnh
của bản thân vừa có thể là động lực để các em phấn đấu học tập, rèn luyện nhưng
cũng có thể dẫn đến việc thực hiện hành vi nông nổi, thiếu chín chắn, trong đó có
thể có những hành vi phạm tội.
Người dưới 18 tuổi thường chưa tích lũy đủ kiến thức và kinh nghiệm sống
cần thiết để có thể giải quyết tốt mọi việc theo yêu cầu của xã hội. Tùy theo độ tuổi

cụ thể khi NCTN thực hiện tội phạm là sớm hay muộn trong khoảng từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi mà mức độ tích lũy kiến thức kinh nghiệm sống của họ là khác
nhau, nhưng nhìn chung đây là độ tuổi các em chưa kết thúc chương trình đào tạo ở
bậc phổ thông trung học - là chương trình trang bị những kiến thức nền tảng cho
mỗi cá nhân. Cũng ở trong khoảng thời gian này người dưới 18 tuổi thường là chưa
hòa nhập nhiều vào đời sống xã hội thông qua lao động nên việc tích lũy kinh
nghiệm sống của họ cũng khá hạn chế. Sự thiếu hụt về kiến thức và kinh nghiệm
sống là yếu tố tác động đáng kể đối với khả năng lựa chọn xử sự phù hợp với đời
sống xã hội trong hoàn cảnh cụ thể.
Người dưới 18 tuổi dễ bị người khác kích động, dụ dỗ trong việc thực hiện
các hành vi nói chung, trong đó có thể có những hành vi phạm tội. Chính sự thiếu
chín chắn trong nhận thức và mong muốn khẳng định mình dẫn đến tình trạng
người dưới 18 tuổi không nhận thức được đầy đủ tính nguy hại của hành vi đối với
xã hội cũng như đối với bản thân, từ đó dễ dàng quyết định thực hiện hành vi theo
sự tác động của người khác.
- Đặc điểm về khả năng giáo dục

8


Có thể nói người dưới 18 tuổi dễ tiếp thu sự giáo dục để trở thành người tốt
hơn so với người đã thành niên. Nếu như sự thiếu chín chắn, thiếu kiến thức và kinh
nghiệm sống có thể dẫn người dưới 18 tuổi đến việc thực hiện xử sự phạm tội thì
đồng thời cũng thể hiện tính chống đối xã hội của những người ở độ tuổi này khi
thực hiện xử sự phạm tội thấp hơn so với người thành niên đã chín chắn, có đầy đủ
kiến thức và kinh nghiệm sống trong tình huống tương tự. Chính vì vậy, thông
thường người dưới 18 tuổi nhận ra hành vi mình đã thực hiện là trái với yêu cầu của
xã hội thì khả năng giáo dục để họ trở thành người tuân thủ các yêu cầu của xã hội
cũng cao hơn so với việc giáo dục người đã thành niên phạm tội tương tự. Bên cạnh
đó với lòng tự trọng cao, mong muốn được khẳng định bản thân ở độ tuổi này thì

khả năng tự cải tạo của họ cũng thường khá cao.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội còn thể hiện trách nhiệm giáo dục
các em của gia đình, nhà trường, xã hội. Mọi trẻ em đều cần và có quyền nhận được
sự giáo dục cần thiết của gia đình, nhà trường và xã hội để có thể trở thành công dân
có ích cho xã hội. Do đó, khi người dưới 18 tuổi không nhận được đủ sự quan tâm,
chăm sóc, giáo dục cần thiết từ các chủ thể có liên quan thì khả năng phạm tội của
họ cao hơn so với những người khác.
Bên cạnh những yếu tố nói trên, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần
cân nhắc sự tác động của nó đối với sự phát triển của người dưới 18 tuổi. Ở độ tuổi
này việc một người bị truy cứu TNHS tác động trực tiếp và nặng nề đến tương lai
của người đó. Đây là giai đoạn các em cần tiếp tục học tập rèn luyện để chuẩn bị
bước vào giai đoạn sống tự lập trong xã hội.
- Chính sách của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi phạm tội là nhóm chủ thể đặc biệt so với nhóm chủ thể là
người đủ 18 tuổi trở lên. Từ yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc phân
hóa TNHS, đặc biệt là nguyên tắc “việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” [21]. Do đó việc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội vừa phải tuân thủ quy định về xử lý tội phạm nói chung, vừa phải tuân
thủ những quy định được xây dựng phù hợp với đặc thù của người dưới 18 tuổi
9


phạm tội. Chính vì vậy TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc thù
riêng đó là:
TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội có tính chất giảm nhẹ hơn so với
người phạm tội đã thành niên, tính giảm nhẹ được thể hiện ở chỗ: Về hình phạt
không xử phạt tù chung thân, tử hình. Khi phạt tù có thời hạn thì họ được hưởng
mức phạt tù nhẹ hơn mức áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng;
không áp dụng hình phạt tiền đối với người dưới 16 tuổi phạm tội; không áp dụng
hình phạt bổ sung; án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì

không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; ngoài ra còn có các biện
pháp tư pháp khác (giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng) có
tính chất giáo dục phòng ngừa áp dụng riêng. Về điều kiện áp dụng đối với các chế
định ở phần chung của BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thường là thấp
hơn so với điều kiện áp dụng đối với đã thành niên phạm tội (giảm mức hình phạt
đã tuyên, xoá án tích…)
Việc áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được tiến hành theo
thủ tục đặc biệt, thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của những người tham gia tố
tụng, về điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn; về việc tham gia bắt buộc của
người bào chữa; về sự tham gia của gia đình, nhà trường trong quá trình tố tụng...
1.2. Lý luận về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội.
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những
nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước
hết ở chỗ chỉ Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt. Hiến pháp nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại Điều 102 quy định “TAND là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; còn
Điều 26 BLHS hiện hành quy định: “Hình phạt được quy định trong BLHS và do
Tòa án quyết định”. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước
10


giao cho TAND, nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với người phạm tội,
không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài TAND có quyền áp dụng hình phạt.
Quyết định hình phạt là một hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, do Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật
tự pháp lý nhất định. Nó là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để
quyết định hình phạt Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự

khác nhau và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử. Quyết định hình phạt
là quá trình sử dụng kết quả điều tra, kết quả buộc tội, kết quả thẩm vấn, tranh luận;
là quá trình đối chiếu các tình tiết của một vụ án hình sự cụ thể với các dấu hiệu của
một cấu thành tội phạm cụ thể gắn liền với việc đánh giá con người cụ thể đã thực
hiện tội phạm để xác định loại và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc
cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Loại và mức hình phạt được quyết định áp dụng đối với bị cáo phải được thể
hiện trong bản án kết tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và được công
bố một cách công khai khi tuyên án.
Hình phạt do Tòa án quyết định tùy thuộc vào tình hình cụ thể của vụ án có
thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ, nhưng trong mọi trường hợp bao giờ
cũng bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa rằng, khi
quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên với tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, với các đặc điểm
nhân thân của người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS, với
dư luận xã hội, với ý thức pháp luật. Để bảo đảm sự tương xứng đó khi quyết định
hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã
thực hiện, cân nhắc nhân thân người phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ TNHS. Ngoài đòi hỏi trên, hình phạt được quyết định đối với bị cáo phải
bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do.
Tóm lại, theo chúng tôi, “Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội
dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án đưa ra biện pháp TNHS,
lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều
11


luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong
bản án kết tội”.
Người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt, BLHS có một chương riêng về việc
áp dụng đối với đối tượng này. Vì vậy quyết định hình phạt đối với người dưới 18

tuổi phạm tội là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt. Khác với các
trường hợp quyết định hình phạt thông thường ở chỗ đối tượng áp dụng là người
dưới 18 tuổi - những người chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, luôn
được pháp luật bảo hộ, cho phép hưởng chế độ TNHS giảm nhẹ hơn người đã thành
niên. Do đó quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vừa có những
đặc điểm của quyết định hình phạt nói chung vừa có những đặc điểm riêng khác.
Chúng ta có thể coi “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
việc Tòa án theo thủ tục tố tụng nhất định đưa ra biện pháp TNHS đối với người
thực hiện tội phạm khi chưa đủ 18 tuổi trên cơ sở quy định pháp luật hình sự, tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các đặc điểm nhân thân
của người dưới 18 tuổi và những ưu tiên đặc biệt của pháp luật đối với họ”.
1.2.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
1.2.2.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt chung
Các nguyên tắc của luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn
bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Những nguyên tắc này không
chỉ được tuân thủ khi xây dựng các văn bản pháp luật hình sự mà còn đòi hỏi phải
được triệt để tuân thủ khi áp dụng những văn bản pháp luật này vào thực tế. Quyết
định hình phạt là một giai đoạn quan trọng trong quá trình áp dụng luật hình sự. Do
vậy trong khi quyết định hình phạt đòi hỏi cũng phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc
của luật hình sự. Các nguyên tắc quyết định hình phạt “là những tư tưởng xuất
phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích luật
mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình
sự đối với người phạm tội” [31, tr.387]. Việc quyết định hình phạt cần dựa vào các
nguyên tắc quyết định hình phạt chung: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc cá thể hóa hình phạt; nguyên tắc công bằng.
12


Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Có thể hiểu pháp chế là yêu
cầu thực hiện pháp luật một cách triệt để nhất; đòi hỏi các chủ thể phải đảm bảo

tuân thủ thống nhất và phù hợp với pháp luật, tôn trọng tính tối cao của pháp luật
trong suốt quá trình điều chỉnh pháp luật. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa thể hiện trong quyết định hình phạt là ở chỗ khi áp dụng hình phạt
đối với người bị kết án Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật
hình sự. Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng, vì có thể áp dụng các nguyên
tắc khác của chế định quyết định hình phạt vào thực tiễn xét xử chỉ khi tuân thủ
nghiêm chỉnh nguyên tắc này.
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện trước hết ở chỗ việc áp dụng hình phạt
chỉ đối với người thực hiện hành vi phạm tội đã được quy định cụ thể trong luật.
Điều 2 BLHS hiện hành nước ta ghi rõ: “Chỉ người nào phạm tội đã được luật hình
sự quy định mới phải chịu TNHS”. Để có tiền đề đúng đắn cho việc quyết định hình
phạt, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải định tội danh đúng hành vi
phạm tội của bị cáo.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn biểu hiện ở chỗ: Khi quyết định hình
phạt Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ
thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật.
Một đòi hỏi nữa của nguyên tắc pháp chế là khi tuyên một hình phạt phải có
tính xác định, có căn cứ lập luận và bắt buộc có lý do. Tính xác định của hình phạt
trong bản án buộc tội thể hiện ở chỗ hình phạt được quyết định đối với bị cáo phải
cụ thể về loại hình phạt và thời gian. Như vậy đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và
làm sáng tỏ các tình tiết có trong vụ án làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt,
những tình tiết đó phải là những tình tiết đã được thẩm vấn, được kiểm tra lại trong
quá trình xét xử và được Hội đồng xét xử đánh giá, nhận xét và chỉ rõ lý do của việc
quyết định hình phạt.
Đòi hỏi khác của nguyên tắc pháp chế là tính hợp lý của việc quyết định hình
phạt. Tính hợp lý thể hiện ở chỗ, trong số những phương án giải quyết khác nhau
mà luật cho phép, Tòa án phải lựa chọn một loại và mức hình phạt, một mặt phải
13



đúng luật, mặt khác phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với các tình tiết cụ
thể của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm
nhẹ TNHS.
Thứ hai, nguyên tắc nhân đạo: Nguyên tắc nhân đạo của việc quyết định
hình phạt thể hiện tập trung nhất ở chỗ, khi quyết định hình phạt Tòa án phải cân
nhắc lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của người phạm tội trong một tổng thể
thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải
có thái độ đúng đắn cả với lợi ích của toàn xã hội và Nhà nước, và đối với lợi ích
của bị cáo. Bởi lẽ không thể nói đến nhân đạo được nếu khi quyết định hình phạt mà
quá đề cao lợi ích của Nhà nước, của xã hội mà hạ thấp, xem thường lợi ích của bị
cáo và ngược lại. Điểm nổi bật của nguyên tắc nhân đạo khi quyết định hình phạt
thể hiện ở chỗ BLHS nước ta quy định các biện pháp miễn, giảm TNHS. Luật hình
sự quy định giảm nhẹ TNHS và hình phạt đối với những người phạm tội ít nguy
hiểm cho xã hội và cho những người phạm tội lần đầu, những người thật thà khai
báo, tố giác những người đồng phạm khác, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự
nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra. Đối với những người này khi quyết định hình
phạt tùy theo các tình tiết của vụ án, mức phạt tù và nhân thân người phạm tội, Tòa
án có thể cho bị cáo hưởng án treo. Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật. Ngoài ra khi quyết định hình
phạt Tòa án có thể xem xét một số tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo vì lý do nhân
đạo như người phạm tội là phụ nữ có thai, là người già yếu, người có nhược điểm
về thể chất, tinh thần…
Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Tức là, trong
một vụ án Tòa án có thể tuyên một trong những mức cho phép đối với bị cáo (cần
thiết tối thiểu; mức cao hơn cần thiết tối thiểu; mức tối đa) thì ở góc độ của việc hạn
chế sự trừng trị. Tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết tối thiểu. Trong mọi
trường hợp không cho phép Tòa án quyết định hình phạt quá mức cần thiết.
Thứ ba, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt: Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá
thể hóa hình phạt, khi quyết định hình phạt Tòa án phải căn cứ vào các quy định của
14



pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS để quyết định đối với bị cáo một loại và mức
hình phạt cụ thể tạo điều kiện cho việc đạt được các mục đích của hình phạt.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt được thể hiện rõ
tại Điều 8 BLHS năm 1999. Hình phạt được áp dụng đối với những tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là khác nhau. Người
phạm tội nghiêm trọng trở lên có thể phải chịu hình phạt tù, còn đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng có thể áp dụng một trong những hình phạt từ cảnh cáo, phạt tiền
với tư cách là hình phạt chính, cải tạo không giam giữ cho đến hình phạt tù. Ngoài
ra nội dung của cá thể hóa hình phạt cũng được thể hiện ở các điều luật quy định
các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, tại Điều 3 BLHS năm 1999 quy định: “…
nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn
đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội
dùng thủ đoạn xảo quệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả
nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại gây ra.
Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải thì có thể áp
dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức xã hội hoặc gia
đình giám sát, giáo dục…”
Tư tưởng cá thể hóa hình phạt được thể hiện rất rõ ở việc quy định các chế
tài: Chế tài xác định tương đối và chế tài tùy nghi (lựa chọn). Đa số các chế tài của
các điều luật ở phần các tội phạm quy định khung hình phạt rất rộng và quy định
bằng hai hoặc nhiều loại hình phạt, cho phép Tòa án tùy từng trường hợp cụ thể áp
dụng hình phạt khác đối với bị cáo cho phù hợp.
Thứ tư, nguyên tắc công bằng: Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng

của việc quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ, loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên
15


phải tương xứng với tội phạm đã thực hiện và nhân thân người phạm tội. Nguyên
tắc này đòi hỏi hình phạt đã tuyên phải tương xứng với tội đã phạm, nghĩa là tội đã
phạm càng nghiêm trọng và trong những điều kiện khác giống nhau, thì hình phạt
càng nghiêm khắc và ngược lại. Đồng thời khi quyết định hình phạt còn phải cân
nhắc cả nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án. Vì rằng hình
phạt bao giờ cũng được áp dụng đối với những người phạm tội cụ thể, mà những
người đó luôn có những đặc điểm, tính cách, địa vị không giống nhau trong xã hội.
Mọi người phạm tội đều phải chịu trách nhiệm một cách bình đẳng trước luật hình
sự không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, chính kiến, nghề nghiệp, địa vị xã
hội, tình trạng tài sản… Điều này được khẳng định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 3 BLHS
năm 1999: “Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.
Nguyên tắc công bằng đòi hỏi Tòa án phải thống nhất trong việc đánh giá các
căn cứ của quyết định hình phạt để bảo đảm quyết định hình phạt công bằng đối với
các trường hợp phạm tội có các tình tiết tương đương. Tòa án phải xem xét tất cả
các tình tiết trong vụ án, tránh tình trạng bỏ sót tình tiết nào dẫn đến việc quyết định
hình phạt không thỏa đáng đối với bị cáo.
Nguyên tắc công bằng đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải phản ánh một
cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức của xã hội, phải có đủ
sức thuyết phục mọi người ở tính đúng đắn, tính công bằng của chính sách xét xử
của Nhà nước ta.
1.2.2.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đặc thù
Khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi hay NCTN phạm tội
ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt chung nêu trên còn phải
tuân thủ một số nguyên tắc riêng đặc thù sau:
Môt là, nguyên tắc giảm nhẹ hình phạt: Xuất phát từ quan điểm người dưới

18 tuổi phạm tội là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, chưa có đủ
khả năng để cân nhắc hành vi của mình, thiếu kinh nghiệm xã hội và dễ bị tác động
của môi trường xung quanh. Vì vậy TNHS nói chung và hình phạt nói riêng được
16


áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội giảm nhẹ hơn so với người đã thành
niên phạm tội. Tuy nhiên mức độ giảm nhẹ hình phạt đối với NCTN được xác định
trong khuôn khổ luật định.
Hai là, nguyên tắc coi trọng và đề cao mục tiêu giáo dục, cải tạo: Thấm
nhuần đạo lý của ông cha ta coi cái thiện, cái ác không phải là bản tính vốn sẵn có
của mỗi người từ lúc sinh ra mà về cơ bản tính thiện ác trong mỗi con người được
hình thành từ trong môi trường xã hội. Theo đó phạm tội không phải là cái ác bẩm
sinh của người phạm tội mà được hình thành trong quá trình xã hội của người ấy.
Do không phải là bản chất cố định nên những người phạm tội đều có khả năng phục
thiện thông qua con đường giáo dục thích hợp. Đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thì càng có khả năng cải tạo, phục thiện cao hơn vì nhân cách của họ đang
trong quá trình hình thành, dễ cải biến nếu được giáo dục, giúp đỡ. Mặt khác, người
dưới 18 tuổi là những người trẻ tuổi, tương lai còn dài, khi được phục thiện cũng có
nhiều cơ hội đóng góp cho xã hội hơn so với người đã thành niên. Vì vậy khi quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải đạt mục tiêu giáo dục lên
hàng đầu nhằm cải tạo, giúp đỡ họ trở thành người có ích cho xã hội.
Ba là, nguyên tắc không áp dụng hình phạt đặc biệt nghiêm khắc: Xuất phát
từ hai nguyên tắc giảm nhẹ và coi trọng mục tiêu giáo dục nên những hình phạt
nghiêm khắc không cho người dưới 18 tuổi phạm tội cơ hội được cải tạo, trở thành
người lương thiện, tái hòa nhập công đồng phải được loại bỏ. Vì vậy trong danh
mục những hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không có
hình phạt loại bỏ người phạm tội ra khỏi xã hội như hình phạt tù chung thân, hình
phạt tử hình. Ngoài ra hình phạt tù có thời hạn dài cũng không nên áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội vì nó cũng làm hạn chế cơ hội tái hòa nhập xã hội của

họ.
Bốn là, nguyên tắc hạn chế việc cách ly NCTN phạm tội khỏi môi trường
sống bình thường của họ: Người dưới 18 tuổi là những người chưa có khả năng
sinh sống độc lập mà còn lệ thuộc vào sự nuôi dưỡng, chăm sóc, quan tâm của gia
đình, nhà trường, cộng đồng xã hội nơi họ sinh sống; đây cũng là môi trường cần
17


thiết cho sự phát triển nhân cách bình thường của họ. Do vậy khi lựa chọn biện
pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần hạn chế tối đa việc áp dụng hình phạt
cách ly họ khỏi môi trường sống bình thường, đảm bảo cho họ có thể cải tạo, giáo
dục trong môi trường ngoài xã hội.
Đồng thời việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn
phải tuân thủ nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội được quy định tại Điều 69
BLHS hiện hành như sau:
Thứ nhất, việc xử lý chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ NCTN phạm tội sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Thứ hai, NCTN phạm tội có thể được miễn TNHS, nếu người đó phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ
và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Thứ ba, việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội
được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành
vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội
phạm.
Thứ tư, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì áp dụng một
trong các biện pháp tư pháp được BLHS quy định.
Thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình; không áp dụng hình
phạt bổ sung.
Thứ sáu, không áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Thứ bảy, hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn thì cho
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương
ứng.
Đặc biệt BLHS năm 2015 ban hành tại Điều 91 của Bộ luật đã sửa đổi bổ
sung Điều 69 BLHS năm 1999 theo hướng “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi”; khi xét xử người dưới 18
tuổi, Tòa án trước hết phải cân nhắc để áp dụng việc miễn TNHS và áp dụng một
18


trong các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng và chỉ áp dụng hình phạt nếu các biện pháp này không đảm bảo
hiệu quả phòng ngừa...
1.2.3. Các căn cứ quyết định hình phạt
1.2.3.1. Các căn cứ chung
Căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do
luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Nếu như các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng chỉ đạo, tư
tưởng xuất phát xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài
luật hình sự đối với người thực hiện tội phạm, thì các căn cứ quyết định hình phạt là
những đòi hỏi mà Tòa án phải dựa vào đó để quyết định một hình phạt đúng pháp
luật, công bằng, hợp lý đối với bị cáo. Nghĩa là, khi quyết định hình phạt, Tòa án
một mặt phải tuân theo những tư tưởng chỉ đạo (nguyên tắc) nhất định và mặt khác
phải dựa vào những đòi hỏi (căn cứ) nhất định mới có đầy đủ điều kiện để quyết
định một loại mức hình phạt đúng pháp luật, nhằm đạt được mục đích của hình
phạt.
Để cụ thể hóa những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự vào trong việc quyết
định hình phạt, nhằm bảo đảm cho hình phạt đã tuyên có thể đạt được mục đích đã
đặt ra. BLHS hiện hành đã quy định căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45: “Khi

quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào các quy định của BLHS, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”. Đây là những căn cứ chung, mang tính
bắt buộc đối với Tòa án, cụ thể là thẩm phán trực tiếp xét xử vụ án khi quyết định
hình phạt.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi quyết định hình phạt Tòa án cũng
phải tuân thủ những đòi hỏi quan trọng có tính nguyên tắc trên, đó là:
- Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS: Khi xét xử Tòa án căn cứ
vào các quy định Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS để quyết định hình
19


×