Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hiện trạng và giải pháp của việc học và dạy văn trong nhà trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.06 KB, 8 trang )

Trung tâm Văn học và
Ngôn ngữ học, Viện Khoa
học xã hội vùng Nam Bộ
Điện thoại: 0903 883 823
Email:

TS. NGUYỄN VĂN KHA

HIỆN TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP CỦA
VIỆC HỌC VÀ
DẠY VĂN TRONG
NHÀ
TRƢỜNG
HIỆN NAY
(Từ kết quả khảo sát
ở các tỉnh Đồng bằng
sơng Cửu Long)

TĨM TẮT
Kết quả khảo sát về hiện trạng đời sống văn học Đồng bằng sông Cửu Long cho
biết, hiện nay học sinh và phụ huynh học sinh ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
khơng thích học văn. Từ kết quả khảo sát và tình hình thực tế ở một số trƣờng phổ
thông và địa phƣơng Đồng bằng sông Cửu Long, bài viết đề xuất giải pháp cho việc học
và dạy văn.
Từ khố: học và dạy văn, đồng bằng sơng Cửu Long
ABSTRACT
The status quo and solutions to Literature learning and teaching in schools
(based on the result from surveys in Mekong Delta region)
The result from surveys carried out in Mekong Delta region shows that the local
students and their parents are not interested in the idea of learning Literature and


Language arts. Predicated on the result and the practical situation in some regional high
schools, the article suggests measures for teaching and learning the subject of Literature
and Language arts.
Key words: Teaching and learning Literature and Language arts, Mekong Delta
region
1.
Việc dạy Văn là việc của nhà trƣờng, điều này ai cũng rõ. Môn Văn đƣợc đƣa
vào làm mơn học chính trong nhà trƣờng phổ thơng vừa đáp ứng yêu cầu về tri thức
(“Văn học là nhân học”) vừa gắn với truyền thống văn chƣơng của dân tộc Việt Nam.
802


Sự sa sút của việc dạy Văn và học Văn trong nhà trƣờng đã dẫn đến sự khuyết
hãm về tri thức khoa học nhân văn của thế hệ trẻ đƣợc đào tạo trong nhà trƣờng. Đây sẽ
là một thiếu hụt không bù đắp nổi, làm yếu đi nguồn nhân lực của đất nƣớc trong thực tế
đào tạo nguồn nhân lực của nƣớc ta hiện nay.
Kết quả khảo sát về hiện trạng đời sống văn học Đồng bằng sông Cửu Long[1]
của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa, Viện Phát triển bền vững
vùng Nam Bộ[2], thăm dò bằng bảng hỏi với 828 ngƣời tại 4 địa phƣơng ở tiểu vùng
ĐBSCL, bao gồm Bến Tre, An Giang, Kiên Giang và TP Cần Thơ cho biết: hỏi chuyện
58 học sinh trung học cơ sở (THCS) và 106 học sinh trung học phổ thơng (THPT), chỉ
có 13 học sinh THCS (22,4%) và 31 học sinh THPT (29,2%) thích thú đọc thêm các tác
phẩm văn học. Số học sinh có đọc thêm tác phẩm văn học nhƣng đọc rất ít chiếm tỉ lệ
36,2 % (THCS) và 47, 2% ( THPT). 6,9% học sinh THCS khơng quan tâm đến tác
phẩm văn học ngồi chƣơng trình (xem Bảng 1. a,b). Sở thích đọc truyện tranh của các
em qua tham dò với con số đáng lƣu ý: 14/58 (THCS – 24,1%) và 13/106 (THPT –
12,3%). Các em càng lớn càng ít đọc truyện tranh, đọc tác phẩm văn học tăng lên.
Trong tƣơng quan chung giữa đọc tác phẩm văn học với niềm say mê (thích thú
khi đọc) với việc có đọc nhƣng chỉ đọc ít (không say mê, hứng thú), giữa đọc sách văn
học và đọc truyện tranh, số liệu thống kê cho thấy học sinh BSCL ít say mê đọc sách

văn học.
Ít đọc sách văn học khơng phải các em khơng có thì giờ. Số em cho biết, muốn
đọc nhƣng khơng có thì giờ chỉ chiếm 7,5 đến 10,3%. Nguyên nhân chính yếu nhất là
học sinh khơng thích học Văn. Cơ Loan, giáo viên dạy Văn ở trƣờng THCS xã Cẩm Sơn
(huyện Mỏ cày, tỉnh Bến Tre) cũng có một nhận xét tƣơng tự. Theo cơ Loan, học sinh ở
địa phƣơng khơng thích học Văn. Thời gian rỗi, học sinh thƣờng vào mạng internet. Bố
mẹ học sinh cũng khơng thích cho con học Văn[3]. Họ đầu tƣ cho con học các môn tự
nhiên để sau này theo học các ngành kỹ thuật kiếm đƣợc nhiều tiền. Từ quan niệm của
các bậc phụ huynh, đến tác động của môi trƣờng, dẫn đến việc dạy và học Văn thiếu
sinh khí.
Hệ quả là kết quả học tập của học sinh ĐBSCL về môn Văn thấp. Kết quả thi tốt
nghiệp năm học 2008 – 2009 ở một số trƣờng ở khu vực ĐBSCL nhƣ Đồng Tháp, An
Giang đã phản ánh trung thực tình trạng học văn của học sinh khu vực này.
Bảng 1: Mơn Văn có giúp tìm đọc tác phẩm ngồi chƣơng trình?
a. Học sinh THCS
Giới tính

803

Total


Nam

Việc học mơn
văn có giúp em
tìm đọc các tp
vh

Nữ


n %

n%

n%

725.0%

620.0%

13

22.4%

Có đọc thêm
nhƣng rất ít

932.1%

1
40.0%

21

36.2%

Chỉ đọc thêm
truyện tranh


725.0%

723.3%

14

24.1%

Muốn đọc
nhƣng khơng có
thì giờ

310.7%

310.0%

6

10.3%

Khơng quan
tâm đến tp vh
ngồi chƣơng
trình

27.1%

2 6.7%

4


6.9%

2
100.0%

3
100.0%

58

100.0%

thích thú đọc
thêm các tác
phẩm văn hoc

Total
8

2

0

Nguồn: Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ (2008 – 2010), Hiện trạng đời sống văn học Đồng bằng
sông Cửu Long (đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ).

b. Học sinh THPT
Giới tính
Nam


Nữ
%

Việc học mơn
văn có giúp em
tìm đọc tp vh

Thích thú đọc
thêm tp vh

4

1
28.6%

804

Total
%
%

7

1
29.8%

31

29.2%



Có đọc thêm tp
vh nhƣng rất ít

2
46.9%

27

47.4%

50

47.2%

Chỉ đọc thêm
truyện tranh

816.3%

5

8.8%

13

12.3%

Muốn đọc

nhƣng khơng có
thì giờ

2 4.1%

6

10.5%

8

7.5%

Khơng quan
tâm đến tp vh
ngồi chƣơng
trình

2 4.1%

2

3.5%

4

3.8%

4
100.0%


57

100.0%

106

100.0%

3

Total
9

Nguồn: Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ (2008 – 2010), Hiện trạng đời sống văn học
Đồng bằng sông Cửu Long (đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ).

Việc chán học Văn, thậm chí coi thƣờng mơn Văn trong nhà trƣờng hiện nay đã
dẫn đến một hậu quả không hiếm gặp là, có ngƣời đã tốt nghiệp đại học mà viết Văn
cịn sai lỗi chính tả, viết câu cịn sai. Thậm chí có những sinh viên học ngành tự nhiên,
khi làm khóa luận tốt nghiệp lại khơng viết nổi lời cảm ơn ở trang đầu của khóa luận.
Thậm chí viết đơn xin làm khóa luận lại thành lời cảm ơn thầy giáo đã giúp mình hồn
thành khóa luận.
Tình hình dạy và học Văn sa sút nhƣ trên nhƣng hiện nay nhà trƣờng vẫn chƣa
có giải pháp hữu hiệu để lấy lại sinh khí cho mơn học, mang lại hứng thú cho ngƣời học
về môn học vốn gắn với truyền thống trọng văn chƣơng của dân tộc Việt Nam.
Lạ thật! Trong khi ai cũng nhận thấy là môn Văn dẫu không thể làm cho ngƣời
ta kiếm nhiều tiền, nhƣng ai cũng thấy “Văn” (trong nghĩa rộng) đƣợc ứng dụng rất phổ
biến. Dẫu xã hội hiện đại mọi thủ tục văn bản đã đƣợc đơn giản hóa, có các biểu mẫu
làm sẵn nhƣng ai cũng thấy rằng để thăng tiến trong xã hội, không thể “mù tịt” về

“Văn”. Từ yêu cầu thực tế đơn giản nhất là soạn thảo một văn bản cũng cần sự sáng sủa
rõ ràng về văn vẻ, đến kiến thức khoa học kỹ thuật cũng cần sự diễn đạt của câu chữ,
của “Văn”. Và hiểu nhƣ thế thì “Văn” đâu phải khơng cần thiết cho con ngƣời trong
hoàn cảnh kinh tế thị trƣờng?
2.
805


Nền kinh tế thị trƣờng tạo ra sự cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa
(trong đó có hàng hóa là sản phẩm văn hóa nghệ thuật). Giữa biển thông tin của thị trƣờng
sách văn học, sự quảng bá của đội ngũ thầy cơ giáo, trong đó các thầy cô giáo dạy Văn,
những ngƣời đƣợc đào tạo tử tế, có hiểu biết căn bản về văn chƣơng là một kênh quảng bá
rất đáng tin cậy. Trong cuộc điều tra về tình hình thƣởng thức văn học của cơng chúng
ĐBSCL, hỏi chuyện 828 ngƣời về nguồn ảnh hƣởng để bản thân tìm đến với văn học, có
đến 45,5% ngƣời đƣợc hỏi cho rằng thầy cô giáo là nhân tố chủ yếu truyền cho họ tình yêu
văn học.
Đây là một thơng in rất đáng lạc quan trong tình hình thƣởng thức và tiếp nhận văn
học trong cơ chế thị trƣờng.
Hiểu nhƣ thế, trong tình hình phức tạp của thị hiếu tiếp nhận văn học của cơng
chúng, trong đó có học sinh các bậc học ở trƣờng phổ thơng, vai trị của ngƣời giáo viên
dạy Văn hết sức quan trọng. Trong thời gian thực hiện đề tài, chúng tơi đã có dịp tiếp xúc
với nhiều giáo viên từ cấp 2 đến cấp 3. Điều nhận đƣợc trƣớc tiên từ tâm sự của những
ngƣời đứng trên bục giảng để giữ ngọn lửa tình yêu văn chƣơng cho học sinh là sự đam mê,
tâm huyết với văn chƣơng. Có ngƣời là hội viên câu lạc bộ (CLB) văn học trong nhà trƣờng
phổ thông, có ngƣời tốt nghiệp cao đẳng rồi tự học để lấy bằng cử nhân văn chƣơng, có
ngƣời là hội viên hội văn học nghệ thuật ở địa phƣơng. Đồng lƣơng nhà giáo eo hẹp nhƣng
họ vẫn dành dụm tiền để mua sách văn học, hoặc đi học thêm qua các khóa đào tạo (nhƣ
đào tạo từ xa của Đại học Huế, chƣơng trình đào tạo thạc sĩ của các trƣờng đại học tại
TP.Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đại học Vinh,…). Chí tiến thủ trong nghề nghiệp của các giáo
viên dạy Văn ở ĐBSCL đã nói lên một điều: trong hịan cảnh mới, ngƣời giáo viên dạy Văn

vẫn là ngƣời chiến sĩ tiên phong trên măt trận văn hóa.
Ý thức đƣợc sức mạnh của văn chƣơng trong việc bồi dƣỡng tâm hồn, tình cảm, xây
dựng nhân cách con ngƣời Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
với thế giới, càng thấy quý trọng những con ngƣời thầm lặng đứng trên bục giảng hơm nay
để nói về văn chƣơng, đánh thức tình cảm lành mạnh, trong sáng của học sinh trƣớc những
quan hệ đời sống dễ bề cuốn hút tuổi trẻ chạy theo thị hiều tầm thƣờng, thiển cận.
Tình hình dạy và học Văn vừa qua ở khu vực ĐBSCL và một số nơi khác trong cả
nƣớc có sa sút (kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ thông tháng 7 năm 2009 ở các địa phƣơng nhƣ
Đồng Tháp, An Giang đã chứng tỏ điều này) là một vấn đề cần báo động về dạy và học
Văn.
Một tình trạng đáng buồn là việc dạy Văn, học Văn hiện nay trong nhà trƣờng
chỉ một mình giáo viên Văn chèo chống, khơng có sự phối hợp với các bộ mơn khác, lại
càng khơng tìm đƣợc sự ủng hộ của bên ngoài xã hội.
3.
806


Một vùng đất giàu tiềm năng văn chƣơng nhƣ ĐBSCL khơng thể nói là học sinh
khơng có năng lực học Văn. Vậy thì hƣớng giải quyết cho vấn đề dạy và học Văn hiện
nay nhƣ thế nào? Đây là vấn đề vƣợt quá khả năng của tác giả bài viết, nếu khơng nói là
“lực bất tịng tâm”.
Tác giả thử đề xuất giải pháp cho sự bế tắc của việc dạy và học Văn ở trƣờng
phổ thông. Theo chúng tôi, phải xã hội hóa mơn Văn. Nếu nhƣ mơn Lịch sử ở trƣờng
phổ thơng cần đựợc chấn hƣng thì mơn Văn trong nhà trƣờng hiện nay cần phải đƣợc xã
hội hóa.
- Việc xã hội hóa mơn học này, thứ nhất, khơng nên bó hẹp việc học Văn chỉ ở
việc giảng dạy trên lớp. Quá chú trọng việc giảng dạy trên lớp dẫn đến nhồi nhét kiến
thức sách vở. Cho nên cần đa dạng hóa hình thức học (sinh hoạt CLB, sáng tác, giao lƣu
với nhà văn…). Cách làm này ở trƣờng phổ thông đã áp dụng nhƣng chƣa phát huy hiệu
quả trong thực tế.

- Thứ hai, nhƣ trên đã trình bày thì dạy Văn (theo nghĩa rộng) khơng chỉ dạy về
tri thức văn chƣơng mà dạy cả cách diễn đạt, dạy về hành văn,… để ngƣời học biết cách
diễn đạt hay, sinh động về điều mình muốn nói. Hiểu theo nghĩa này thì học Văn là học
suốt đời. Bởi vì cuộc sống cần giao tiếp, cần diễn đạt để hiểu nhau, để nắm thơng tin thì
Văn là phƣơng tiện ln ln đồng hành cùng cuộc sống con ngƣời. Các cụ nói “văn ơn
võ luyện” cũng có cách hiểu là nhƣ thế. Hiểu nhƣ thế thì khơng nên phó thác việc dạy
Văn, rèn về văn chƣơng cho thầy cô giáo dạy môn Văn mà các giáo viên trong nhà
trƣờng, cả xã hội đều phải có ý thức rèn giũa về Văn cho con em của mình. Ngƣời giáo
viên trong nhà trƣờng phải ý thức đƣợc rằng nếu học sinh tốt nghiệp phổ thông mà
không viết nổi một bức thƣ cho bạn, hay khơng viết đƣợc một lá đơn xin việc thì đó là
lỗi của nhà trƣờng chứ không chỉ là lỗi của giáo viên phụ trách bộ mơn Văn. Vì sao vậy,
bởi vì ngƣời khơng biết cách diễn đạt tình cảm của mình, nguyện vọng của mình trong
một bức thƣ hay một lá đơn thì họ cũng khơng biết cách diễn đạt phần lý thuyết để giải
một bài Tốn, khơng thể trình bày rõ ràng kiến thức về các môn học nhƣ Sinh vật, Lịch
sử, Địa lý… Thế thì tại sao họ lại tốt nghiệp đƣợc[4]?
Từ thực tế trên đây, rõ ràng để học sinh học tốt môn Văn rất cần sự nghiêm khắc
của giáo viên trong nhà trƣờng với các lỗi về văn phạm của học sinh.
- Thứ ba, chƣơng trình văn học ở trƣờng phổ thơng hiện nay đã có một phần
chƣơng trình dành cho Văn học địa phƣơng. Nếu biết vận dụng tốt chƣơng trình này thì
đây là nơi nhà trƣờng có dịp xã hội hóa mơn Văn. Thực tế hiện nay, có Sở Giáo dục
triển khai chƣơng trình này chỉ phó thác cho giáo viên phụ trách bộ môn, để mặc họ
muốn dạy ai (tác giả), dạy thế nào (cách trình bày) thì dạy. Trong khi ở mỗi địa phƣơng
hiện nay có một Hội Văn học nghệ thuật, lực lƣợng sáng tác văn học rất đông đảo. Sở
807


Giáo dục cần đặt vấn đề dạy Văn học địa phƣơng với Phân hội Văn học để phối hợp,
cùng nghĩ cách làm, tạo hứng thú cho học sinh từ hoạt động này
Trong dịp đi thực tế ở thị xã Châu Đốc (tỉnh An Giang), chúng tôi đƣợc nghe kể
lại cách làm của Trƣờng THPT Thủ Khoa Nghĩa về việc xã hội hóa mơn Văn trong nhà

trƣờng rất hay. Từ hoạt động sáng tác, sinh hoạt văn học ở một CLB (lúc đầu do một vài
giáo viên trong trƣờng khởi xƣớng), phong trào sáng tác và hoạt động văn học (diễn
kịch, ngâm thơ…) do CLB của trƣờng phát động đã tạo hứng thú về việc học môn Văn
cho học sinh trong tồn trƣờng. Học sinh tham gia CLB văn học đơng đảo, cổ vũ lẫn
nhau, tạo ra khơng khí sơi nổi, thích thú trong sáng tác và các sinh họat văn học. Không
chỉ thầy cô giáo dạy Văn thăm gia sáng tác và sinh hoạt trong CLB văn học mà còn có
sự tham gia của các thầy cơ giáo bộ mơn khác trong nhà trƣờng. Cách làm của giáo viên
và học sinh Trƣờng THPT Thủ Khoa Nghĩa làm cho khơng khí học tập và sáng tác văn
học đƣợc lan rộng. Học sinh cũng nhƣ giáo viên khơng cịn coi thƣờng mơn Văn. Câu
lạc bộ của trƣờng đƣợc sự ủng hộ của Phân hội Văn học nghệ thuật thị xã Châu Đốc,
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh An Giang. Chính giải thƣởng Thủ Khoa Nghĩa của Hội
Văn học nghệ thuật tỉnh An Giang bây giờ đƣợc bắt đầu từ giải thƣởng của CLB văn
học Trƣờng THPT Thủ Khoa Nghĩa.
Môn Văn trong Trƣờng THPT Thủ khoa Nghĩa với hoạt động nhƣ trên đã mang
lại hứng thú cho giáo viên, học sinh trong trƣờng. Chất lƣợng học Văn của học sinh
trƣờng Thủ Khoa Nghĩa vì thế đƣợc nâng lên.
Đây chỉ là cách làm của Trƣờng THPT Thủ Khoa Nghĩa kết hợp với Hội văn
học nghệ thuật tỉnh An Giang. Có thể cịn có nhiều cách làm hay của các trƣờng khác,
nhằm tạo ra hứng thú, khơi dậy niềm đam mê học Văn cho học sinh.
Trƣớc thực tế môn Văn trong nhà trƣờng không gây hứng thú cho con em khi
học trên lớp, chất lƣợng học sinh học môn Văn sa sút nghiêm trọng nhƣ hiện nay, môn
Văn cần đƣợc sự ủng hộ, đồng thuận của tồn xã hội để lấy lại sinh khí cho môn học,
mang lại hiệu quả thiết thực cho việc đào tạo nguồn nhân lực của đất nƣớc trong hoàn
cảnh mới.

Chú thích:
1

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ do Tiến sĩ Nguyễn Văn
Kha làm chủ nhiệm, thực hiện từ 2008 – 2010.

2

. Nay là Viện Khoa học xã hội Vùng Nam Bộ thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

3

Trả lời câu hỏi “Thƣởng thức văn học giúp thu họach gì?”, chỉ có 52/827 ngƣời (6.3%) cho rằng thƣởng
thức văn học là để yêu và học tốt môn Văn.

808


4

Chuyện học sinh không đạt chuẩn ở trƣờng phổ thông vẫn tốt nghiệp còn nhiều lý do khác mà vừa qua
Bộ Giáo dục và đào tạo đã chấn chỉnh với chủ trƣơng “2 không”.

809



×