Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Chính sách công và việc tổ chức thực thi, Những hạn chế trong thực thi chính sách công hiện nay, Những kết quả đạt được

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.37 KB, 10 trang )

Chính sách cơng và việc tổ chức thực thi,
Những hạn chế trong thực thi chính sách cơng
hiện nay, Những kết quả đạt được

1. Chính sách cơng và việc tổ chức thực thi
Page 1


Chính sách cơng do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề
liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu
xác định.
Ở nước ta, chính sách đã được Hiến pháp quy định. Như vậy, chính sách công là
một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Các chính sách cơng là do Nhà nước ban hành. Các chính sách này là sự cụ thể
hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng.
Chính sách cơng ở Việt Nam thường được thể chế hóa thành các văn bản quy
phạm pháp luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó bao gồm những
phương án hành động khơng mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích
phát triển.
Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách,
tiếp theo là thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực hiện cần tiến hành
đánh giá chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách…
Như vậy, hoạch định chính sách được coi như là bước khởi đầu trong chu trình
chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa
học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và
mang lại hiệu quả cao.
Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách khơng phù hợp với thực tế,
thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả khơng mong muốn trong q trình quản lý.
Những tổn hại này khơng chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới
nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.



Page 2


2. Những hạn chế trong thực thi chính sách cơng hiện nay
Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là “điều
kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều kiện đủ” của
chính sách cơng. Nói như vậy để thấy rõ mối quan hệ có tính quyết định giữa các
khâu trong q trình thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn tồn tại những
chính sách ban hành chưa sát thực tiễn nên thực hiện hiệu lực, hiệu quả thấp.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và u cầu của chính
sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên quan (nhà chức
trách, những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai.
Các văn bản hướng dẫn nhiều khi khơng rõ ràng, thống nhất, thậm chí mâu
thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị định và
thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng.
Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách chưa thực
sự khoa học, vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ chế phối
hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia
sẻ, trao đổi, cơng khai thơng tin. Bên cạnh đó, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ,
công chức thiếu năng lực, trình độ và sự trong sạch trong thực thi chính sách cũng
đang là một trong những ngun nhân bóp méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của
chính sách.
Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính sách
thường thiếu tính ổn định tương đối, gây xáo trộn cho q trình thực thi chính sách
cơng. Thủ tục hành chính cịn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực
thi chính sách.
Sự thiếu cơ chế theo dõi và đánh giá làm cho việc đánh giá kết quả thực hiện
các chính sách cơng trở nên khó khăn, khơng có các thơng tin đáng tin cậy về những
hoạt động tốt và những đòi hỏi cần hoàn thiện.


Page 3


3. Những kết quả đạt được
Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước
như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính
sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án lựa chọn, thẩm định
phương án chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, cơng bố chính sách.
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách cơng ở nước ta đã cho ra đời nhiều
chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể
là đã góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn 30 năm thực
hiện công cuộc đổi mới.
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách cơng đã đạt được một số
kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp
bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, qn sự, ngoại
giao…).
Một số chính sách cơng quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám sát
thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và hồn thiện
được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng được
về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc
biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu như:
chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi
suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính
sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều
chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp…
Page 4



Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm
phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong
điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời
của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực.
Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách cơng như nêu trên cũng cịn bộc lộ một số
tồn tại:
4. Ví dụ: chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
Thực hiện Nghị quyết số 89/2015/QH13 của Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 9
thông qua n gày 09/6/2015 về điều chỉnh chương xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ
quốc hội khóa 13, năm 2015 và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và
Quyết định số 1273/QĐ-TTg ngày 7/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phân cơng
cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Cục phát
triển doanh nghiệp) được phân cơng chủ trì xây dựng dự án Luật Hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Ngày 25/12/2015 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Phiên họp thứ nhất để
công bố quyết định thành lập và ra mắt Ban soạn thảo và Tổ biên tập của Dự án Luật
và tiến hành bàn bạc, góp ý để xây dựng đề cương, bộ khung cho Dự án Luật.
Mặc dù trong danh sách Ban soạn thảo và Tổ biên tập có đầy thủ các thành viên của
các Bộ, Ngành (đặc biệt là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Cơng Thương...),
nhưng trong phiên họp quan trọng này đều khơng có mặt của các thành viên của các
Bộ, Ngành được coi là quan trọng như đã nêu ở trên. Như vậy, rõ ràng, tính phối hợp
trong các chương trình ban hành chính sách giữa các Bộ, Ban, Ngành là khơng cao.
Có thể nói rằng hiện tượng việc của Bộ nào thì Bộ ấy lo vẫn cịn là điều phổ
biến. Do khơng có mặt trong cuộc họp nên chắc chắn sự thống nhất trong từng vấn đề
chính sách là khơng có, do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực thi thì sự chênh
Page 5



chính sách, chồng chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái ngược về chính sách là rất dễ
xảy ra.

Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ quan
nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường là
do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện.
Như vậy, chính sách cơng được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình
thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham
gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các phương
án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là rất hạn
chế.
Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối
tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do
những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như
nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo chính sách
chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố
thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục
đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản lý mà khơng tính tới tổng thể
chung.

Page 6


Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình hình quản lý,
các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính sách trong lĩnh vực
quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu sự phối hợp giữa các
bộ, ngành nên chính sách thiếu tính tồn diện.

Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách cịn bị khép kín; việc lấy ý kiến tham gia
của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách cịn ít, nếu có thì hình
thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động.
Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các
chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vơ hình chung
làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính
sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.
Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên thế giới
và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách cịn nhiều yếu kém. Dự báo chính sách
phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định chính sách khơng có sự
tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự báo chính sách gặp rất nhiều
khó khăn.
Trong q trình hoạch định chính sách cơng chưa tạo được kênh thơng tin tốt
nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.
Trong khi đó, chính sách khơng thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng
khơng phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực
khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề
nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có các phương án giải quyết phù hợp với
thực tế. Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan.
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách cịn hạn chế. Điều
này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận cách giải quyết vấn
Page 7


đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch định chính sách nên khi chính
sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất cập hoặc tình trạng chưa thực thi đã vấp
phải phản đối của dư luận và phải sửa (ví dụ điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, cơng tác hoạch định chính sách cơng hiện nay chưa theo kịp với tình hình
hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các
chính sách cơng bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong

lãnh thổ của một quốc gia mà cịn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính tồn cầu.
Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua sự kiện
giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương thực đặt ra…
Chính sách phát triển nơng nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính tốn, cân nhắc, điều
chỉnh lại. Như vậy, chính sách cơng của một quốc gia cũng đang phải chịu nhiều sự
chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Trong việc hoạch định chính sách cơng cần phải có sự tổng kết, phân tích,
đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới q trình thực hiện chính sách, các biện
pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách
phù hợp với thực tế.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện nay tại Việt
Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban hành là việc làm rất
quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu cực có thể do thực thi chính
sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực tiếp của chính sách đó. Hiện nay các
nước trên thế giới hoạt động phản biện chính sách là một khâu rất quan trọng nhưng
tại Việt Nam thì hoạt động này lại bị coi nhẹ.
Do tồn tại những thực trạng trên cho nên dẫn tới hệ quả là các chính sách thực
thi hiệu quả chưa cao như: kết quả phát triển kinh tế - xã hội cịn thấp; các chính sách
khi đưa vào thực thi có khi khơng thực sự phù hợp với địa phương đó do thiếu sự
Page 8


phối hợp giữa các Bộ, Ngành; chính sách xóa đói giảm nghèo cịn chồng chéo nên
dẫn đến hiệu quả khơng cao; đào tạo nguồn nhân lực hay là các chính sách khác triển
khai còn nhiều bất cập.v.v
5. Đề xuất biện pháp thực thi chính sách cơng trong thực tế đạt hiệu quả
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định chính sách
cơng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng tâm
vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một

cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân
người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách cơng.
Việt Nam nên bắt đầu một quy trình hoạch định chính sách mới, với sự tham
gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm: Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng,
người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia.
Đôi khi, các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến
lược trình Chính phủ. Lấy các nhu cầu thực sự của dân, của Doanh nghiệp để làm cơ
sở hoạch định chính sách. Chính sách khơng đơn thuần chỉ là một văn bản hành chính
của Nhà nước.
Nói cách khác, làm cho chính sách cơng từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền
của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của tồn xã hội.
Thứ hai, đổi mới quy trình hoạch định chính sách cơng theo hướng dân chủ, huy
động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây
dựng chính sách. Tích cực lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến từ các đối tượng chịu tác động
trực tiếp của chính sách.

Page 9


Cần lấy ý kiến của người dân để có những chính sách sát với thực tế, tránh
việc “chính sách trên trời được ban hành cho dân dưới đất” vì khơng đủ điều kiện để
thực hiện. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa
học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách,
nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi
ích chung của tồn xã hội.
Thứ ba, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành trong hoạch định chính
sách, tránh mâu thuẫn nhau.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ làm cơng tác hoạch định chính sách có chất lượng cao, có
tầm nhìn bao qt về các vấn đề (Yếu tố con người là cốt lõi để có chính sách tốt, hợp

lịng dân và hiệu quả thực thi cao).
Thứ năm ,học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong công tác hoạch định chính sách, phù
hợp với thực tiễn ở nước ta

Page
10



×