Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

khủng hoảng kinh tế nhật bản trong những năm 1990

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.71 KB, 35 trang )

A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản là một nước bị tàn phá nặng nề sau Chiến tranh thế giới II. Từ
đống tro tàn đổ vỡ Nhật Bản trở thành một siêu cường kinh tế lớn thứ 2 trên thế
giới. Đến cuối những năm 60, GDP của nước này vượt hầu hết các nước công
nghiệp phát triển. Nhờ duy trì tốc độ tăng trưởng kéo dài nên thế giới không
khỏi kinh ngạc và khâm phục Nhật Bản. Hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong
những năm 70 khiến cho Nhật Bản cũng lâm vào suy thoái nhưng nhờ năng lực
ứng biến kịp thời của Nhật Bản đã khiến cho đất nước này thoát khỏi khủng
hoảng và vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các nước Tư bản
phát triển khác, điều này càng làm cho thế giới thêm khâm phục. Đặc biệt là sự
bùng nổ của thị trường chứng khoán và bất động sản vào cuối những năm 80 đã
làm cho nước Nhật trở nên giàu sang vô tận. Người ta cho rằng Nhật Bản đang
chinh phục thế giới và có thể ”mua được toàn bộ nước Mỹ” - siêu cường số một
thế giới. Người ta còn tin rằng “sự thần kỳ” kinh tế Nhật Bản khơng có hồi kết
thúc.
Thế nhưng, đến những năm 1990 kinh tế Nhật Bản đánh mất dần lòng tin
trong nước và thế giới do nước này lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc, tồn
diện và đang rất khó khăn trong việc tìm ra lối thốt. Trước tình trạng này Nhật
Bản khơng chỉ mất đi vai trị thúc đẩy kinh tế Châu Á mà cịn có thể đẩy tồn bộ
nền kinh tế thế giới vào tình trạng hỗn loạn (bởi tỷ trọng GDP của nước này
chiếm tới 14% GDP toàn cầu).
Là một sinh viên học bộ môn lịch sử kinh tế quốc dân, em rất quan tâm
đến “siêu cường kinh tế Nhật Bản “và đã có một thời gian dài tìm hiểu tồn bộ
nền kinh tế này trong thập niên 90. Bằng những tìm tịi và những hiểu biết của
mình em chọn đề tài “khủng hoảng kinh tế Nhật Bản trong những năm 1990”
làm bài tập lớn

1



.Do trình độ và hiểu biết có giới hạn, bài viết này không tránh khỏi những
hạn chế nhất định. Em rất mong nhận ý kiến phê bình góp ý của thầy cô , nhân
đây em thành thật cảm ơn thầy giáo Đào Quang Thắng đã giúp đỡ em hoàn
thành bài viết này.Em xin chân thành cảm ơn!
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản
- Phạm vi nghiên cứu: Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản trong những năm
1990
3.Nhiệm vụ của đề tài.
Đề tài có nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu lịch sử nền
kinh tế Nhật Bản, từ đó rút bài học cho nền kinh tế khác, đặc biệt là Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài này
là phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp diễn giải – quy nạp, phương
pháp đối chiếu, phương pháp Logic, phương pháp tổng hợp khái quát với thu
thập thơng tin, phân tích có chọn lọc với cách tiếp cận duy vật biện chứng, trừu
tượng hóa khoa học và tra khảo tài liệu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Là cơ sở lý luận để học tập và nghiên cứu nền kinh tế Nhật Bản trong giai
đoạn hiện nay
6. Kết cấu đề tài. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm 3
chương.
Chương 1: : Lý luận chung về khủng hoảng kinh tế
Chương 2: Khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản trong những năm 1990
Chương 3: Những giải pháp khắc phục và bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam
2


B.Phần nội dung

Chương 1: lý luận chung về khủng hoảng kinh tế

1.1. Khái niệm về khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế: là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và
trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. (bao gồm 3 pha: suy thoái,
phục hồi, hưng thịnh).
Theo học thuyết Kinh tế chính trị của Mác-Lênin, Khủng hoảng kinh tế
chỉ khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế, là
căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa tư bản và diễn ra có tính chất chu kì, trải qua
những giai đoạn có liên quan kế tiếp nhau: khủng hoảng - tiêu điều - phục hồi hưng thịnh.
Bao gồm các xu hướng:
Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận: Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng
chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận
rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng hoảng.
Tiêu thụ dưới mức: Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh
giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng
tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường
xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu
không tương xứng với tổng cung.
Sức ép lợi nhuận từ lao động: Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê
mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng
đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái
kinh tế
Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng trong xã hội
thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một q trình tích tụ tư bản mới.
3


Có thể khẳng định rằng: Khủng hoảng là giai đoạn cơ bản của chu kì kinh tế tư
bản chủ nghĩa, Mac đã từng viết “cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư

bản”.
1.2 Nguyên nhân của khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng kinh tài chính thế giới xảy ra chủ yếu do 2 ngun
nhân là việc chứng khốn hóa khơng lành mạnh và vỡ bong bóng nhà đất
1.2.1.Chứng khốn hóa
Chứng khốn hóa là một phát minh lớn về cơng cụ tài chính bao gồm các
sản phẩm như chứng khốn đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm
bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại
chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khốn hóa (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là
người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao
dịch tín dụng truyền thống), sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng
khốn hóa như hợp đồng hốn đổi tổn thất tín dụng (CDS), sự ra đời của các thể
chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những cơng cụ đầu tư kết cấu
(SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi ro gồm rủi ro đạo đức
và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, nước Mĩ trước khủng hoảng không đủ năng lực
giám sát các rủi ro này.
Những rủi ro đã tồn tại cộng với sự cố bong bóng thị trường tài sản xảy ra
thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin của các bên liên quan. Thêm vào đó,
việc cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn
hệ thống ngân hàng (một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác
phá sản). Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi càng làm
cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
1.2.2. Bong bóng thị trường nhà đất
Từ lâu nay đa số người Mĩ vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà, với thời
hạn hợp đồng từ 10 năm đến 30 năm (đó là việc bình thường). Nhưng trong 10
năm trở lại đây thị trường nhà đất phát triển mạnh, các ngân hàng và các tổ chức
4


cho vay ào ạt tiếp thị tạo ra những hợp đồng cho vay khơng đạt tiêu chuẩn và

khuyến khích cả những người khơng đủ khả năng tài chính cũng đi vay tiền để
mua nhà.
Ngoài ra, các tổ chức cho vay còn “sáng chế” ra những hợp đồng bắt đầu
với lãi suất rất thấp trong những năm đầu và sau đó điều chỉnh lại theo lãi suất
thị trường. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay khơng địi được nợ. Nguy
hại hơn, các tổ chức tài chính phố Wall đã gom góp các hợp đồng cho vay bất
động sản này lại làm tài sản bảo đảm, để phát hành trái phiếu ra thị trường tài
chính quốc tế. Các loại trái phiếu này được mệnh danh là “Mortgage backed
securities – MBS”, một sản phẩm tài chính phái sinh được bảo đảm bằng những
hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp. Và nó được các ngân hàng, cơng ty
bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí trên tồn thế giới mua mà không biết rằng các
hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là không đủ tiêu chuẩn.
Trong vài năm trở lại đây thị trường bất động sản liên tiếp hạ nhiệt, người đi vay
đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ, và
kể cả bán được thì giá trị của bất động sản cũng đã giảm thấp tới mức khơng đủ
để thanh tốn các khoản còn vay nợ. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay
bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu MBS là nợ khó địi, các trái
phiếu MBS mất giá trên thị trường, thậm chí khơng cịn mua bán được khiến cho
các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này bị lỗ nặng và mất
cả khả năng thanh tốn.
1.3. Tác đợng của c̣c khủng hoảng thế giới
1.3.1 Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu hiện nay đã dịu bớt, nhưng
để lại nhiều điều nan giải và những hệ quả sâu xa
Đối với Hoa Kỳ:
•14/9/2008 đáng được ghi vào biên niên sử của chủ nghĩa tư bản hiện đại:
Ngân hàng Lehman Brothers, “cây đại thụ” 158 năm tuổi cuả Mĩ, bị xóa trên
bản đồ tài chính ngân hàng thế giới - vụ phá sản lớn nhất lịch sử nước Mĩ, châm
ngòi cho sự bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chính, mở màn cho cuộc khủng
5



hoảng kinh tế tồn cầu. Nó dồn các thị trường tài chính chao đảo một năm trước
đó do khủng hoảng tín dụng thứ cấp rơi vào hoảng loạn thực sự, khiến dịng
chảy tài chính đóng băng hồn tồn và đẩy hệ thống ngân hàng vào tình trạng
nguy hiểm.


Từ cuối q III năm 2007: Chỉ số bình qn cơng nghiệp Dow-

Jones giảm liên tục


Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính

khổng lồ và lâu đời bị phá sản như 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là
General Motors, Ford Motor và Chrysler LLC đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình
trạng đói tín dụng ảnh hưởng đến khu vực sản xuất doanh nghiệp phải thu hẹp
sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào.


Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới

tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng
hóa


Tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ Tiêu

dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên
tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát



Cuộc khủng hoảng cịn làm cho dollar Mỹ lên giá:

Do dollar Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay,
nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản
của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị
thiệt hại.
1.3.2. Phản ứng của các nước lớn trước khủng hoảng
Tại Hội nghị quốc tế “Nhà nước hiện đại và an ninh toàn cầu”, tổ chức
ngày 14/9 tại Yaroslav (Nga), Tổng thống Nga Dmitri Medvedev khẳng định
vai trò của nhà nước đang tăng đáng kể so với các định chế quốc tế trong cuộc
khủng hoảng hiện nay. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bác bỏ những lập
luận hạ thấp vai trò của nhà nước có chủ quyền trong thời đại tồn cầu hóa. Ơng
nhấn mạnh, trong thời kỳ khó khăn vừa qua, chính các nhà nước có chủ quyền
6


đã đưa ra những chương trình chống khủng hoảng, biện pháp ổn định và sự bảo
đảm xã hội cho người dân, góp phần ổn định kinh tế thế giới, chứ không phải
các công ty đa quốc gia hay các tổ chức quốc tế. Khủng hoảng đã làm gay gắt
hơn hàng loạt vấn đề xã hội, gia tăng đáng kể tỉ lệ thất nghiệp dẫn đến giảm thu
nhập của người dân, khiến điều kiện sống của hàng chục, hàng trăm triệu người
trên hành tinh thêm tồi tệ. Trách nhiệm của mỗi chính phủ là đưa ra các giải
pháp cần thiết.
Tổng thống Mỹ :


Theo kế hoạch cải cách hệ thống quy định tài chính, chính quyền


Mỹ sẽ trao thêm quyền hạn mới cho Cục Dự trữ Liên bang (FED) đối với các
định chế tài chính khổng lồ. Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra,
Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình
phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên
bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng
thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên
ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa
đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó cịn tiếp tục giảm và đến
ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy. Fed còn thực
hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các
tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm
2008, Fed tun bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.


12/ 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì

chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ
28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá.
Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo
chương trình này. FED còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài
chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.

7


Chính phủ Trung Quốc:


Tiến hành một loạt cải cách quan trọng trong các lĩnh vực phân


phối thu nhập, y tế và giá cả. Trung Quốc một mặt duy trì vai trò điều phối của
thị trường, nhưng mặt khác tăng cường biện pháp kiểm sốt vĩ mơ của chính
phủ.


Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tổ chức tại thành phố

Đại Liên (Trung Quốc), ngày 12/9, ông Trương Hiểu Cường, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia Trung Quốc, nhấn mạnh Trung Quốc chỉ
có thể đạt được phát triển bền vững khi có sự kết hợp giữa “bàn tay vơ hình” của
thị trường với “bàn tay hữu hình” của nhà nước.
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ngóc đầu dậy
Bảo hộ mậu dịch hay tự do thương mại một lần nữa được đặt lên bàn cân.
Ngày 14/9, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhận xét hầu hết các nền kinh
tế hàng đầu thế giới đã sử dụng “những cơ chế bảo vệ thương mại” để vượt qua
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Chương 2: Khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản
2.1. Thực trạng khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản

2.1.1. Sự giảm sút của tốc độ tăng tăng trưởng
Trước đây, suy thối chỉ có 2 năm là năm 1973 và 1975. Năm 1973 GDP của
Nhật là 8%, đến năm 1974 còn -1,2%, năm 1975 tốc độ tăng trưởng phục hồi trở lại
3%. Nhưng những năm 1990 hầu như đã suy giảm liên tục với động thái tăng
trưởng chậm chạp và thất thường. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong giai
đoạn 1991-2000 chỉ ở mức 0.9% thấp hơn nhiều so với mức trung bình 6,5% trong
thập niên 80. Đặc biệt là năm 1997, 1998 tốc độ tăng trưởng là các con số âm
(tương ứng là -0.7 và - 0.9%). Năm 1996 có tăng trưởng ở mức 2.9% và năm 2000
là 1.2 % nhưng sự tăng trưởng này cịn rất mong manh, khơng ổn định.
Tốc độ tăng trưởng thực tế trung bình hàng năm của Nhật Bản trong
những năm 90 là thấp và do quy mô khổng lồ của nền kinh tế, cùng với sự sa sút

8


kéo dài của nó nên con số giảm sút tính theo đô la là rất lớn. Khi đem so sánh
với các nền kinh tế Châu Á thì thấy, riêng năm 1997 Nhật Bản mất 79 tỷ USD,
tương đương với quy mô của các nền kinh tế như:
Philipin: 83 tỷ USD
Singapore: 96 tỷ USD
Malaysia: 98 tỷ USD
Nếu tính 7 năm (1990-1997), tổng số mất mát của nền kinh tế lên đến 550
tỷ USD, phần mất mát của Nhật Bản lớn hơn GDP của tất cả các nền kinh tế
Châu Á khác. Hay nói cách khác phần mất đi của nền kinh tế Nhật Bản trong 7
năm này là gần bằng với GDP của Hồng Kông, Đài Loan, Singapore cộng lại
hoặc của Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Philipin cộng lại.

2.1.2. Thua lỗ và phá sản
Ngành kinh tế bị tác động nặng nề nhất là ngân hàng và các cơng ty tài
chính tín dụng. Tính đến năm 1995, tức là sau 5 năm khi nền kinh tế “bong
bóng” bị sụp đổ thì hàng loạt các cơng ty tài chính và ngân hàng lâm vào tình
trạng làm ăn thua lỗ và bị phá sản,
+ Ước tính đến thời điểm năm 1998 có tới 19 ngân hàng hàng đầu Nhật
Bản đều có số nợ lớn hơn số tài khoản đăng ký.
+ 11 ngân hàng mạnh nhất của Nhật Bản và cũng là của thế giới phải giảm
10% hoạt động vào năm 1994, 1995.
+ Ngân hàng Sumimoto, lớn nhất thế giới tuyên bố lỗ 3 tỷ USD vào đầu
năm 1995.

2.1.3. Tỷ lệ thất nghiệp cao
Nhật Bản đã từng tự hào là “thiên đường của người làm công ăn lương”
với tỷ lệ công ăn việc làm luôn đạt tới mức dưới 2%, thấp nhất trong các nước

phát triển như Anh, Pháp, Mỹ … vậy mà hiện nay tỷ lệ thất nghiệp lên tới mức
kỷ lục như vậy thì thực sự là một cú sốc mạnh đối với Nhật Bản. Số người
9


khơng có cơng ăn việc làm trong tháng 5/1999 là 3,5 triệu trong tổng số 68 triệu
lao động. Đây là một vấn đề nan giải lớn không chỉ về mặt nó là động lực quan
trọng nhất trong sự phát triển kinh tế đang bị giảm sút mà còn trở thành khó
khăn thách thức lớn về mặt xã hội. Người Nhật lo sợ rằng chế độ lao động suốt
đời sẽ kết thúc, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng, cùng với đó là gánh nợ của
Chính phủ.

2.1.4. Những biến động trong thu nhập, chi tiêu và tiết kiệm
a. Thu nhập
Trước tình trạng thất nghiệp ngày càng cao, lương thưởng bị cắt giảm liên
tục làm cho thu nhập của người dân ngày càng giảm, đồng thời lương danh
nghĩa và lương thực tế cũng giảm (tiền công thực tế quý II /1998 giảm 0,8%,
quý III giảm 2,1%, tiền thưởng giảm 1,83%) lý do vì chủ doanh nghiệp khơng
thể trả lương cho lao động như trước.
b. Chi tiêu
Do thu nhập giảm như vậy cùng với tâm lý bất an về triển vọng kinh tế
nên nhu cầu và chi tiêu trong nước ngày càng giảm.
Chi tiêu cho tiêu dùng cá nhân vốn là một trong những động lực chính cho
sự phát triển kinh tế Nhật Bản. Tiêu dùng trong nước chiếm tới 60% GDP nhưng
mức tăng chi tiêu cho tiêu dùng ngày càng giảm, năm 1994 tăng 2,2%, năm
1995 tăng chỉ có 1,2%. Như vậy sẽ ảnh hưởng đến doanh số bán ra của các cửa
hàng bán lẻ và siêu thị.
Phần đơng các gia đình có thu nhập bằng tiền lương và tiền cơng làm theo
thời vụ có khuynh hướng tiêu dùng giảm tới 77%. Mặc dù Chính phủ đã có
chương trình kích thích tiêu dùng song cầu nội địa vẫn không tăng. Trong thời

gian 1986-1990 nhu cầu trong nước tăng với mức trung bình là 5,4%, nhưng
năm 1992 chỉ tăng 0,9%, năm 1995 tăng 1,5 %.

10


c.

Tiết kiệm

Cùng với tình trạng thu nhập khơng tăng, chi tiêu giảm thì người Nhật lại
tăng tích luỹ trong gia đình chứ khơng gửi vào ngân hàng vì lãi suất tiền gửi rất
thấp, lòng tin của người dân vào các tổ chức tín dụng Nhật Bản giảm. Kết quả là
tình trạng khan hiếm tín dụng ngày càng tăng.

2.1.5. Thâm hụt ngân sách
Chính phủ Nhật Bản đang lún sâu vào tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ
nần. Chính phủ nước này liên tục phải tăng ngân sách để tài trợ cho các chương
trình kích thích kinh tế cả gói trong khi đó thu thuế giảm. Tỷ lệ thâm hụt ngân
sách thời kỳ 1994-2000 so với GDP là 5,1%, nếu tính cả chi cho an ninh xã hội
là 7,6%. Tỷ lệ này so với các nước phát triển là khá cao
Khắc phục tình trạng này Chính phủ Nhật Bản phải phát hành trái phiếu
với giá trị ngày càng lớn khiến cho nợ của Chính phủ so với GDP ngày càng
tăng. Người ta tính rằng mỗi trẻ em Nhật khi sinh ra phải chịu một khoản nợ
bằng 60.000USD gấp 1,5 lần GDP theo đầu người/năm.

2.1.6. Sức cạnh tranh của thị trường Nhật suy giảm
Trước đây, các hãng kinh doanh của Mỹ, của Phương Tây khơng được
vào thị trường Nhật thì hiện giờ đã lần lượt tràn vào và các nhà tư bản Nhật Bản
đã phải nhẫn nhục bán hết công ty khổng lồ này dến các cơng ty khổng lồ khác.

-Tập đồn ô tô lớn thứ hai của Nhật Bản là Nissan đã bị Renanlt của Pháp
mua 37% cổ phiếu.
-Ford nắm 35% vốn của Mazda.
-General Motors chiếm 49% vốn của Isuzu
-Good year mua luôn hãng Sumimito Rubber.
- Nhật Bản chiếm tới 8 trong 10 hãng có quy mơ vốn lớn nhất thế giới thì
năm 1999 đã phải nhượng lại vị thế đó cho Mỹ.
11


Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản đang bị suy yếu so với một
số nước. Trước đây, Nhật Bản ln ở vị trí dẫn đầu trong 47 nước có thực lực và
có ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới. Nhật Bản từ chỗ đứng đầu thế giới năm
1994 tụt xuống đứng sau Mỹ, Singapore, năm 1995 lùi xuống vị trí thứ 4, năm
1996 lùi xuống vị trí thứ 13, đến năm 1999 đã xuống vị trí thứ 16.
Những năm 1980, là thời kỳ tràn ngập thị trường thế giới những sản phẩm
của Nhật Bản thì ngày nay vị trí đó đã phải nhường chỗ cho sản phẩm của các
nước khác.
Vào những năm trước thập niên 90, Nhật Bản đã có tới 7 trong số 10 ngân
hàng đứng đầu thế giới, nhưng từ cuối thập niên 90 theo kết quả điều tra so sánh
xếp hạng giữa 20 ngân hàng hàng đầu trên thế giới với 20 ngân nhàng hàng đầu
Nhật Bản thì các ngân hàng Nhật Bản có thứ hạng rất thấp so với các ngân hàng
nước ngoài, cụ thể các ngân hàng Nhật Bản đã tụt hậu khoảng 10 năm so với
ngân hàng Mỹ.
2.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật BẢn
2.2.1. Nguyên nhân khách quan
a. Khủng hoảng chu kỳ
Nguyên nhân của khủng hoảng chu kỳ nằm trong bản chất của hệ thống
kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Khi kinh tế đang ở giai đoạn tăng trưởng các Chính
phủ thường thực thi chính sách tài chính mở rộng, tăng tiêu dùng, tăng chi tiêu

cho Chính phủ, thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và đầu tư vốn cố định. Đến một lúc
nào đó, năng lực sản xuất dư thừa, hiệu suất sử dụng thiết bị giảm, trong khi nhu
cầu giảm, lượng hàng tồn kho tăng, giảm tỷ suất lợi nhuận, sản xuất đình trệ.
Hậu quả là nền kinh tế đi vào suy thoái. Tốc độ suy thoái của nền kinh tế tỷ lệ
thuận với mức độ phát triển của thời kỳ trước đó.
Suy thối kinh tế Nhật Bản chính là hệ quả mang tính chu kỳ của giai
đoạn tăng trưởng kinh tế 1987-1990 mà đỉnh cao là thời kỳ bùng nổ nền kinh tế
“bong bóng” 1989-1990.
12


Giai đoạn 1987-1990 đầu tư cho thiết bị của Nhật Bản đạt tới mức rất cao,
lên đến 12% năm trong khi mức tăng trưởng trung bình chỉ đạt 5 %, điều này tất
yếu dẫn đến tình trạng dư thừa Tư bản cố định làm nền kinh tế không phát triển
được.
b. Chiến tranh lạnh kết thúc
Những năm 1990 là thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh lạnh, chấm dứt đối
đầu về hệ tư tưởng và mở ra một kỷ nguyên mới, trong đó nền kinh tế thế giới
trở thành một thể thống nhất tạo cơ hội cho xu thế toàn cầu hố phát triển mạnh
mẽ.
Trước đây, Nhật Bản có thể dốc tồn bộ nguồn lực của mình để phát triển
kinh tế sau chiến tranh mà không phải gánh chịu bất cứ một trách nhiệm đáng kể
nào đối với Quốc tế, thậm chí cịn được sự ủng hộ nhiệt tình của Mỹ. Thì nay
khi chiến tranh lạnh kết thúc Nhật Bản khơng chỉ là đồng minh chính trị mà cịn
là đối thủ cạnh tranh số 1 của Mỹ. Trước tình hình này, Mỹ và các nước đồng
minh Châu Âu không thể để cho Nhật Bản làm giàu cho riêng mình và lại làm
thiệt hại cho các nước đó. Họ liên tục ép Nhật Bản phải có nghĩa vụ lớn hơn đối
với cộng đồng Quốc tế, phải mở cửa cho vốn, hàng hoá cũng như lao động, văn
hố nước ngồi tràn vào.
Bước vào những năm 1990, khu vực Châu Á Thái Bình Dương là trung

tâm kinh tế phát triển mạnh mẽ, có những lĩnh vực đuổi kịp các nước tiên tiến.
Nhiều ngành mà Nhật Bản chiếm ưu thế trước kia đã phải đứng trước nguy cơ
bão hoà trước sự cạnh tranh của những nườc này. Trong khi Mỹ và các nước
Châu Âu vẫn dẫn trước Nhật Bản trong lĩnh vực về công nghệ mũi nhọn như
công nghệ thông tin, năng lượng, công nghệ mơi trường…
c. Khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
Sau khi nền kinh tế “bong bóng” bị sụp đổ, nhu cầu trong nước không
cao, sự phục hồi Kinh tế Nhật Bản chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Xuất khẩu của
13


Nhật chủ yếu là vào thị trường Đông Nam Á (ĐNA), thị trường này hiện chiếm
1/2 kim ngạch ngoại thương của Nhật. Nhưng đồng tiền ĐNA bị phá giá khiến
cho hàng nhập khẩu từ Nhật tăng vọt và hậu quả là sức cạnh tranh giảm mạnh.
Đồng thời để khắc phục hậu quả khủng hoảng các nước ĐNA đã tăng lãi suất,
hỗn xây dựng các cơng trình lớn, hạn chế cầu nội địa càng làm cho tình hình
tiêu thụ hàng Nhật Bản tại thị trường này thêm khó khăn. Khơng những thế,
đồng tiền mất giá còn làm cho các mặt hàng xuất khẩu từ những nước này tăng
và đổ nhiều hơn vao thị trường Nhật Bản, lấn chiếm thị trường nội địa, ảnh
hưởng đến sản xuất và việc làm trong nước.
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan
a. Nguyên nhân do đầu cơ và sự đổ vỡ của nền kinh tế “bong bóng”
Tăng trưởng kinh tế Nhật Bản vào cuối thập niên 80 không phải là tăng
trưởng thực sự từ các hoạt động sản xuất của cải vật chất mà chủ yếu tăng
trưởng giả tạo do đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu và các hàng hố
nghệ thuật có giá trị lớn. Nền kinh tế Nhật Bản trong thời kỳ này phát triển
mạnh mẽ chưa từng thấy.
Mặt khác, trong xu thế tự do hoá trên thế giới, hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng được mở rộng. Tiền được tự do chuyển đổi từ đô la Mỹ sang Yên
Nhật, cùng với những hoạt động nhộn nhịp của thị trường chứng khoán, xí

nghiệp Nhật dần dần huy động vốn trực tiếp từ phát hành cổ phiếu và trái phiếu,
không vay từ ngân hàng, ngân hàng phải chuyển hướng hoạt động từ việc cho
các xí nghiệp vay sang đầu tư vào chứng khốn. Việc mua bán đất đai được thực
hiện về giá trị danh nghĩa với khối lượng tiền rất lớn, chỉ thông qua thủ tục
chuyển khoản sổ sách mà ngân hàng có thể kiếm được những khoản lợi nhuận
khổng lồ. Trong khi đó các nhà đầu tư thì ngày càng đầu tư mạnh vào thị trường
hàng hố này vì cho rằng giá trị của thị trường hàng hoá này ngày càng tăng
theo thời gian, hơn nữa việc huy động vốn từ ngân hàng khơng khó khăn. Các
ngân hàng trong giai đoạn này cho vay quá nhiều để đầu cơ vào cổ phiếu, bất
14


động sản, hoặc mở rộng sản xuất, tỷ lệ tăng vốn cho vay chỉ là 11,8% đến 11,5%
trong khi đó cho vay liên quan đến bất động sản tăng vọt từ 14,9% lên 32,7%
(thời kỳ 3/1985-3/1987). Phần lớn vốn cho vay được huy động vào thị trường
địa ốc do vậy đẩy giá đất tăng mạnh khiến cho kinh doanh ở Tokyo tăng tới
80%. Chính phủ Nhật Bản thơng qua hệ thống ngân hàng đã điều chỉnh lãi suất
cao để khắc phục đầu tư vào thị trường này, ngay lập tức nhu cầu vay vốn đầu tư
giảm nhanh chóng và lại gây nên tình trạng mất tài sản vì giá trị tài sản bị tụt
xuống, giá cổ phiếu bắt đầu giảm.
b. Mơ hình và cơ cấu kinh tế của Nhật Bản không phù hợp với yêu
cầu phát triển mới
Trong xu hướng tồn cầu hố và Quốc tế hố nền kinh tế, trước sự phát
triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học xã hội hiện đại thì mơ hình kinh
tế và cơ cấu kinh tế của Nhật Bản dường như khơng cịn phù hợp nữa.
Mơ hình kinh tế
Nhìn lại lịch sử phát triển chúng ta có thể thấy rằng mơ hình kinh tế Nhật
Bản truyền thống với những nét đặc trưng độc đáo đã đưa nền kinh tế Nhật Bản
vươn lên trở thành nền kinh tế có tiềm lực lớn thứ 2 trên thế giới. Nhưng để đáp
ứng được những thách thức của q trình tồn cầu hố thì việc duy trì mơ hình

kinh tế cũ sẽ là khơng hiệu quả.


Quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp:
Trước đây ngân hàng, nhà nước và giới kinh doanh có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Nhà nước vạch kế hoạch và chiến lược phát triển, đồng thời hỗ trợ tạo
điều kiện cho kinh doanh, doanh nghiệp thì tuân theo sự hướng dẫn của Nhà
nước và được sự bảo hộ chặt chẽ từ Chính phủ. Quan hệ chặt chẽ như trên rất
phù hợp với thời kỳ tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế để đuổi kịp các
nước phát triển. Nhưng mặt trái của nó là nhiều khi nhà nước can thiệp quá sâu
vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh doanh làm mất đi khả năng cạnh
15


tranh trong thời đại cần có sự linh hoạt và làm mất đi sự chủ động ứng phó với
các biến động bên ngồi.
Chính phủ Nhật Bản lại hết sức ưu ái cho các công ty lớn nhất là về mặt
vốn kinh doanh. Có những thời kỳ các cơng ty có thể vay vốn từ ngân hàng mà
không cần thế chấp hay chỉ thế chấp trên giấy để đầu tư vào bất động sản và
chứng khoán. Khi nền kinh tế “bong bóng” bị sụp đổ thì các khoản nợ khó địi
càng tăng thêm. Trước tình trạng tồi tệ ấy lại thêm một bộ phận lớn các ngân
hàng có các cán bộ nhân viên có quan hệ thiếu minh bạch với các cơng ty, họ
móc nối và tiếp tục cho vay trong khi các khoản nợ khó địi vẫn tiếp tục gia tăng
và chưa có cách giải quyết.


Mơ hình quản lý trong các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Nhật Bản luôn coi người lao động là yếu tố quan trọng
hàng đầu, còn trên cả công nghệ và các cổ đông. Họ được hưởng chế độ làm
việc suốt đời, lương thưởng tăng theo thời gian. Hình thức này khiến cho người

lao động trung thành và tận tụy với cơng việc, họ có thể coi cơng ty như một gia
đình và làm việc hết sức mình. Nhưng mơ hình này khơng tạo được sự chủ động
sáng tạo của người lao động trước những thách thức trong lĩnh vực mới, tâm lý
yên phận của người lao động khiến cho sức phản ứng với môi trường biến động
rất kém.
Cơ cấu kinh tế thiếu hụt các ngành công nghệ mới
So với các nước công nghiệp phát triển khác thì đầu tư cho cơng nghệ
thơng tin của Nhật Bản thấp hơn nhiều. Hàng năm đầu tư cho ngành này của Mỹ
là 4% GDP, Anh, Pháp Đức khoảng 3% GDP thì Nhật chỉ đầu tư khoảng 2%
GDP. Các cơng ty Nhật Bản đầu tư cho công nghệ thông tin chỉ bằng 50% so với
các công ty của Mỹ. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật như
hiện nay, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghệ cao như

16


điện tử, thơng tin… thì Nhật Bản là nước chậm hơn trong việc nghiên cứu và
đưa vào ứng dụng các công nghệ này.
c. Khủng hoảng của ý thức xã hội và tình trạng già hố dân số
Khủng hoảng ý thức xã hội
Dù trong bất cứ thời kỳ nào, khi cần tăng sức mạnh cho mình thì Nhật
Bản đều học tập và bắt chước phương Tây. Mục đích của họ là huy động hết sức
để đuổi kịp các nước phát triển. Trong suốt hơn 1 thế kỷ qua do xác định đúng
mục tiêu phát triển nên đã tạo ra sự nhất trí khiến cả dân tộc một lịng một dạ
hướng theo tăng trưởng kinh tế. Có thể nói mọi suy nghĩ, mọi hành động của
Chính phủ, giới kinh doanh cũng như tồn bộ người dân Nhật Bản đều xoay
quanh mục đích này. Với những nỗ lực như vậy, Nhật Bản đã đạt được mục tiêu,
kết quả đạt được là Nhật Bản trở thành 1 nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới như
cả thế giới chứng kiến.
Nhưng khi đạt được những kỳ tích như vậy thì Nhật Bản lại trở thành

nước tiên tiến để các nước học tập và “đuổi bắt” chứ không phải là Nhật Bản
“đuổi bắt” các nước như trước đây nữa. Vậy thì việc tiếp tục theo con đường cũ,
mục tiêu cũ hay con đường nào và mục tiêu nào thì Nhật Bản chưa xác định rõ,
hoặc thậm chí khơng xác định đựơc để tồn dân nhất trí.
Do vậy có thể nói rằng, Nhật Bản đang bị khủng hoảng về con đường phát
triển. Người Nhật đau đớn cảm thấy rằng họ khơng cịn khả năng phát triển
mạnh mẽ như trước được nữa, sự bế tắc về lối sống ngày càng làm cho người
Nhật thêm bi quan, mất định hướng.
Sự già hoá dân số
Sau chiến tranh, Nhật Bản là một nước có lực lượng lao động trẻ, rẻ, dồi
dào so với thế giới, nhưng lợi thế đó đang mất dần đi.
Dân số Nhật đang có nguy cơ già đi nhanh chóng. Sự già hố dân số gia
tăng khơng phải do cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 90 mà thực chất do sự
17


phát triển kinh tế của Nhật Bản từ những năm trước đây gây ra. Kinh tế phát
triển, thu nhập cao, phúc lợi xã hội được đảm bảo nên tuổi tho trung bình tăng,
số người trên 65 tuổi chiếm 15% dân số, dự báo đến năm 2020 tỷ lệ này sẽ là
25% dân số và năm 2050 là 30%.
Thì có một người ăn theo, cho nên số tiền tiết kiệm và tích luỹ cho gia
đình hoặc đầu tư vào kinh tế ngày càng giảm. Dân số và lực lượng lao động
giảm đi cũng địi hỏi các cơng ty Nhật Bản phải sửa đổi chế độ làm việc do các
công ty không cịn chịu được chi phí ngày càng gia tăng cho lực lượng lao động
ngày càng già và thiếu linh hoạt.
Hơn nữa việc già hoá dân số và lao động sẽ làm giảm tốc độ bổ sung lao
động cho các lĩnh vực kinh tế quốc dân, khiến cho lực lượng lao động trẻ ngày
càng hiếm, giảm tính năng động nhạy bén, nguy cơ phát minh sáng chế ngày
càng giảm.
Hiện nay Nhật Bản là một nước thiếu nhiều lao động có khả năng sáng

tạo.Tỷ lệ lao động giảm đi càng làm tăng thêm tình trạng khan hiếm này. Đây
cũng chính là lý do cơ bản khiến những công ty Nhật Bản phải chuyển hướng
sản xuất ra nước ngoài. Hậu quả là gây nên tình trạng “trống rỗng ” trong nền
kinh tế. Với những ảnh hưởng tiêu cực trên đây của sự già hoá dân số rõ ràng là
một nguyên nhân xã hội góp phần làm cho kinh tế Nhật Bản trong những năm
1990 lâm vào tình trạng suy thối kéo dài.
d. Chính trị không ổn định
Sự đổ vỡ của nền kinh tế vào thập niên 90 và suy thoái kéo dài gần như
liên tục của Nhật Bản có thể kể đến nguyên nhân từ phía nhà nước về năng lực
lãnh đạo, quản lý. Nhưng nguyên nhân không thể không kể đến là tình hình
chính trị Nhật Bản khơng ổn định, khiến cho nước này ngày càng lâm vào tình
trạng suy thối và khơng có khả năng thốt khỏi. Trước tình trạng này người dân
đã mất đi niềm tin vào đường lối lãnh đạo của Nhà nước mà Đảng phải gánh
chịu hậu quả là Đảng dân chủ Tự do (LDP)- Đảng cầm quyền Nhật Bản. Đảng
18


này gặp nhiều khó khăn trong việc cầm quyền. Chỉ từ năm 1992 đến 1998 đã
qua 4 đời thủ tướng và giai đoạn 1993-1996 Đảng này đã bị trở thành Đảng đối
lập và đã mất đi quyền lãnh đạo đất nước. Hiện giờ đã quay trở lại cầm quyền
nhưng sức mạnh của LDP khơng cịn như trước nữa. Các xí nghiệp, cơng ty lớn
đã được Quốc tế hố của Nhật Bản rất lo lắng trước việc Đảng dân chủ Tự do
khơng có khả năng đặt Nhật Bản vào đúng vị trí của 1 trật tự thế giới mới.
e. Giá trị của đồng Yên lên xuống thất thường
Đồng Yên tăng giá
Một trong những yếu tố làm rung chuyển kinh tế Nhật Bản là việc đồng
Yên tăng giá, biểu hiện bắt đầu là từ sau hiệp định Plaza (5/1985). Đồng Yên
tăng giá mạnh, đây là hướng đi tất yếu phản ánh sức mạnh của kinh tế Nhật Bản
bởi vì xuất siêu tăng rất nhanh trong thời kỳ trước đó. Sự tăng giá của đồng Yên
gây nên những hậu quả sau:



Ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu.
Nhập khẩu tính theo đơ la Mỹ rất cao làm giảm sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới, xuất khẩu tính theo đơ la Mỹ cũng rất đắt. Sự tăng giá liên tục
của đồng Yên còn ảnh hưởng đến kinh tế của các nước trên thế giới, trong đó
các nước trong khu vực Châu Á chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, họ phải chi nhiều
tiền hơn để trả tiền lãi vay cho Nhật Bản. Đồng Yên tăng giá làm cho các khoản
nợ phải trả và nợ khó địi tăng thêm. Mặt khác các nước phải chi thêm tiền để
mua hàng hoá của Nhật với cùng số lượng.



Ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh.
Hình ảnh nước Nhật đắt đỏ đã in đậm trong tâm trí nhiều người trên thế
giới. Sau hiệp định Plaza tình trạng đắt đỏ đó càng nổi bật hơn khi tính mọi chi
phí bằng USD. Hậu quả là kết cấu giá thành thấp ở Nhật trước đây đã trở thành
cao nhất trên thế trong những năm 1990. Thể hiện ở chỗ giá đất xây dựng, giá
nông phẩm, giá sức lao động, giá thu phí các phương tiện công cộng cao nhất
19


trên thế giới. Điều này càng làm giảm khả năng cạnh tranh của các xí nghiêp
Nhật Bản.


Ảnh hưởng đến đầu tư.
Chi phi đắt đỏ như vậy khiến cho thị trường Nhật Bản giảm sức hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Vốn đầu tư trong nước sẽ chạy
ra nước ngồi thơng qua việc di chuyển với quy mô lớn của nhiều ngành sản

xuất, trong khi đó các ngành truyền thống đã giảm sức canh tranh trong nước.
Các cơ sở sản xuất và tiêu thụ được đặt ngay tại nước sở tại để tận dụng chi phí
kinh doanh rẻ. Bộ phận lớn thu nhập của các xí nghiệp chuyển ra nước ngồi
càng làm cho nền kinh tế thêm “rỗng ruột”.
Tỷ trọng đầu tư ra nước ngoài tăng nhanh trong vịng 3 năm 1997-1999,
bình qn đều trên 27 % vuợt mức 1,8% năm 1986.Trong đó cơng nghiệp chế
tạo tăng mạnh nhất từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995.
Tỷ trọng sản xuất ở nước ngoài từ 3% năm 1985 lên 6,4% năm 1990 và
7,4% năm 1993.
Tình trạng “rỗng ruột hố” nền kinh tế tạo nên tình trạng mất cân đối ngay
trong nền kinh tế nội bộ quốc gia. Thiếu vốn đầu tư trong nước để phát triển
những ngành nghề kinh doanh mới, cơ hội việc làm giảm, nền kinh tế mất đi
động lực tăng trưởng, đồng thời nền kinh tế đất nước chịu sự phụ thuộc sâu hơn
vào nền kinh tế Quốc tế và dễ bị tổn thương trước những biến động bên ngồi.



Ảnh hưởng đến hình thức chi tiêu
Đồng Yên lên giá đã kích thích người dân Nhật ra nước ngoài du lịch kết
hợp với việc mua hàng hố rẻ từ nước ngồi về nên đã chuyển một bộ phận
không nhỏ thu nhập của người dân Nhật trước đây dành cho tiết kiệm và tiêu
dùng trong nước nay là ra nước ngoài, điều này làm mất lợi thế cho tăng trưởng
kinh tế.

20


Ngồi ra, một bộ phận dân cư khác sẽ tìm cách giữ tiền, thị trường tiêu thụ lại
rơi vào tình trạng trì trệ, làm cho những nỗ lực cải cách của Chính phủ sẽ khó thực
hiện được.

Đồng n mất giá
Trong quý III năm 1998, đồng Yên Nhật đột ngột xuống giá từ 80
JPY/USD còn 141,6 JPY/USD, điều này phản ánh sự không ổn định của đồng
Yên, đây là xu hướng trái ngược với thời kỳ trước. Vì vậy làm cho suy thoái
kinh tế Nhật Bản ngày càng trầm trọng. Về khách quan, đồng Yên mất giá kích
thích cho xuất khẩu. Nhưng Nhật lại có khoản tiền khổng lồ ở nước ngồi nên
nếu tiền n mất giá so với đơla Mỹ thì GDP của Nhật tính theo đơla Mỹ sẽ
giảm. Hơn nữa, chi phí cho nhập khẩu tăng cũng làm triệt tiêu lợi thế mà xuất
khẩu có được. Đối với một nước hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào việc nhập khẩu
nguyên liệu và năng lượng thì việc đồng Yên mất giá là một thiệt hại lớn.
Một ảnh hưởng tiêu cực khác khi đồng Yên mất giá đột ngột là toàn bộ hệ
thống ngân hàng chao đảo mạnh, lòng tin vào một cơ cấu tài chính vốn hùng
mạnh bậc nhất thế giới bị giảm đi đáng kể.
Chương 3: Những giải pháp khắc phục và bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam
3.1 Giải pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế ở Nhật bản
3.1.1 Các biện pháp của chính phủ Nhật Bản
a. Các biện pháp nhằm ổn định hệ thống tài chính ngân hàng
Ngành tài chính ngân hàng Nhật Bản đứng trước một thời kỳ hết sức khó
khăn. Vấn đề phải giải quyết trước mắt đó là xử lý những khoản vay quá hạn,
khó thu hồi những đồng thời cũng phải có chiến lược dứt khoát đi tới việc liên
kết, hợp nhất giữa các tổ chức tiền tệ để cải cách hệ thống này.

21


Xử lý nợ khó địi
Tình trạng rối loạn trong hệ thống tài chính đã làm mất niềm tin của người
gửi tiền và giới đầu tư kinh doanh, gây ra tình trạng co hẹp tín dụng, ảnh hưởng
tiêu cực đến sản xuất kinh doanh nhất là của các xí nghiêp vừa và nhỏ thường

phụ thuộc vào nguồn vay của Ngân hàng. Chính Phủ Nhật đã có biện pháp xử lý
nợ khó địi như:
+Thành lập cơng ty mua bán tín dụng (năm 1993) để mua lại những khoản
nợ quá hạn của các tổ chức Tín dụng.
+Thành lập ngân hàng Tokyo - Kyodo (tháng 12 năm 1994) để xử lý các
tổ chức Tín dụng bị phá sản.
+Bán lại nợ: Tức là đầu tư mua lại nợ với giá rẻ.
+Huỷ bỏ một phần nợ
Cải cách hệ thống Ngân hàng
Chủ đề lớn nhất của hệ thống tiền tệ Ngân hàng Nhật Bản sau khi bước
vào thập niên 90 là việc hợp nhất những Ngân hàng lớn hàng đầu. Việc hợp nhất
với quy mô lớn và liên tục.
+Hợp nhất ngân hàng Mitsui và ngân hàng Taiyokobe thành ngân hàng
Sakura.
+Hợp nhất ngân hàng Saitama và ngân hàng Kyowa thành ngân hàng
Asachi
+Ngân hàng Tokyo sát nhập vào ngân hàng Mitsubishi
+Ngân hàng Sumimoto liên minh với Công ty chứng khốn Daiwa.....
Mục đích của việc hợp nhất các ngân hàng lớn là tăng cường nền tảng
kinh doanh giảm nhẹ gánh nặng đầu tư cơ bản đồng thời hướng tới xây dựng
một thể chế mới cho việc tăng cường năng lực kinh doanh.
22


Các cách hệ thống tài chính
Chính phủ Hashimoto đã quyết tâm cải cách tài chính tồn diện bằng một
chương trình cải cách mang tên "Big Bang". Chương trình cải cải cách với mục
tiêu là cải cách căn bản lại thị trường tài chính - tiền tệ của quốc gia cho năng
động, linh hoạt, công bằng và minh bạch hơn. Từ đó tạo điều kiện thích ứng và
có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ ngang tầm với các trung tâm tài chính Quốc tế,

tạo cơ hội thuận lợi cho các tổ chức tài chính nước ngồi tham gia nhiều hơn vào
thị trường Nhật và buộc các tổ chức tài chính Nhật Bản phải chấp nhận cạnh
tranh theo nguyên tắc "Tự do kinh tế".
Kế hoạch "Big Bang" được Chính phủ của thủ tướng Hasshimoto khởi
xướng từ năm 1996 và triển khai từ năm tài chính 1997 với những biện pháp và
bước đi như sau:
1-Thả nổi hoàn toàn giá cả các dịch vụ tài chính.
2-Mở cửa thị trường hối đối cho mọi người.
3-Xố bỏ biên giới phân chia 3 ngành nghề: Ngân hàng - Bảo hiểm - mua
bán chứng khoán.
4-Cho phép vốn được tự do luân chuyển trong và ngoài nước.
5-Buộc các cơ quan tài chính phải cơng bố những dữ liệu chính xác về
hoạt động của mình dù lỗ hay lãi.
6-Giảm, hoặc xố bỏ hẳn các loại thuế có tác dụng giới hạn việc mua bán
sang nhượng địa ốc và chứng khoán.
7-Củng cố tính độc lập của ngân hàng Quốc gia trước đây bị nhà nước
khống chế.
8-Cho phép nước ngoài được tự do cạnh tranh trên thị trường nội địa,
không phân biệt đối xử.

23


Từ ngày 1/7/1998 kế hoạch "Big Bang" đã bắt đầu đi những bước đầu tiên
bằng việc thực hiện đạo luật ngân hàng Nhật Bản và đạo luật quản lý ngoại hối
nhằm mở cửa dần thị trường tiền tệ Nhật Bản, cho phép ngân hàng Trung ương
Nhật có sự độc lập lớn hơn đối với chính phủ. Theo các đạo luật mới này, các tổ
chức tiền tệ hoặc cá nhân Nhật có thể tự do mở tài khoản tại các ngân hàng nước
ngoài. Các tổ chức tiền tệ nhà nước được phép kinh doanh trên thị trường tiền tệ
hoặc mở tại khoản tại các ngân hàng Nhật Bản. Các cửa hàng, khách sạn, tiệm

ăn ở Nhật có thể thu ngoại tệ và các xí nghiệp Nhật có thể quyết tốn bằng ngoại
tệ.
Thúc đẩy thị trường bất động sản, cổ phiếu
Chính phủ Nhật Bản đã nhận thức rằng việc giá bất động sản và giá cổ
phiếu liên tục giảm sẽ làm cho tiến trình ổn định hệ thống tài chính ngân hàng
thêm bất lợi. Để khắc phục tình trạng này Chính phủ Nhật đã cải cách hệ thống
thuế; bỏ mức thuế đối với giao dịch chứng khoán, giảm thuế đối với lợi nhuận
thu được tù chuyển nhượng đất đai, kéo dài thời hạn đối với những khoản vay
liên quan đến nhà ở, giảm thuế mua bán chứng khoán để cá nhân tham gia nhiều
hơn vào thị trường chứng khốn....Do vậy kích thích các hoạt động mua bán
giao dịch bất động sản, cổ phiếu, làm tăng khả năng giải quyết các khoản nợ tồn
đọng, đồng thời tăng khả năng vay và cho vay của các doanh nghiệp và ngân
hàng, góp phần giải quyết tình trạng co hẹp tín dụng.

3.1.2. Các biện pháp kích thích tăng trưởng
a. Chính sách tái khố
Các giải pháp đã được thực thi là bơm thêm tiền vào các công trình cơng
cộng, ổn định giá cả. Trong thời kỳ này rất nhiều dự án xây dựng đồ sộ đã được
thực hiện. Tổng số tiền các gói kích thích kinh tế lên đến 70 nghìn tỷ n.
Chỉ tính từ năm 1992 - 1998 chính phủ Nhật đã liên tục đưa ra thực thi tới
11 chương trình lớn về cải cách kinh tế. Có thể nói, từ sau chiến tranh thế giới
24


thứ II đến hết những năm 80, chưa bao giờ chính phủ Nhật Bản lại đưa ra nhiều
chương trình kích thích kinh tế như trong những năm 90.
Chính vì vậy kinh tế Nhật Bản đã có khả năng phục hồi lại đối với các chỉ
số tăng trưởng là 0,6% năm 1994; 1,4% năm 1995 và năm 1996 là 2,9%. Tuy
nhiên những gói kích thích kinh tế Nhật có phục hồi nhưng còn rất mong manh,
thực lực còn yếu và bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

Châu Á năm 1997. Hai năm sau đó là năm 1997, 1998 chỉ số tăng trưởng là con
số âm. Do vậy Chính Phủ lại phải tung ra các gói kích thích kinh tế lớn như:
* Năm 1998: Chính Phủ bổ sung ngân sách để tái tạo cho hai chương trình
kinh tế cả gói.
+ Chương trình các biện pháp kinh tế tổng thể (tháng 4 / 1998 trị giá 16
nghìn tỷ n)
+ Chương trình trọn gói khẩn cấp (tháng 11/98 trị giá 17,9 nghì n).
+ Chính sách hỗ trợ việc làm khẩn cấp và sức cạnh tranh công nghiệp
(tháng 6 năm 1999)
+ Chương trình các biện pháp chính nhằm phục hồi kinh tế (tháng
11/1999). Các chương trình trên đều giành cho xây dựng hạ tầng cơ sở, phát
phiếu mua hàng để khuyến khích nhu cầu tiêu dùng... Cùng với việc tăng ngân
sách liên tục là việc Chính phủ Nhật đã tăng phát hành trái phiếu để huy động
thêm vốn, bù đắp thâm hụt.
Chính sách tiền tệ
Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1999, tiền Yên Nhật lại tăng giá từ 120 - 130
JPY/USD lên 100 - 105 JPY/USD. Làm cho xuất khẩu giảm, khiến các nhà sản
xuất rơi vào tình trạng khó khăn. Mặt khác khiến giá hàng Nhập khẩu giảm nên
càng tăng sức ép giảm giá hàng hóa trong nước.
Để đối phó với tình trạng trên Chính phủ đã phải tìm cách hợp tác với
nước ngồi để tìm kiếm giải pháp chung để kiểm soát đồng Yên. Bên cạnh đó
25


×