Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

nguyên nhân, diễn biến và tác động và biện pháp khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.98 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Trang

A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài....................................................................1
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu..................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
5. Bố cục của đề tài..............................................................................................3
B. NỘI DUNG......................................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ......................4
1.1. Khái niệm khủng hoảng...............................................................................4
1.2. Phân loại khủng hoảng.................................................................................5
1.3. Tác động của khủng hoảng kinh tế.............................................................6
1.4. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế......................................................6
CHƯƠNG 2..........................................................................................................7
KHỦNG HOẢNG NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN QUA. .7
2.1. Tình hình kinh tế Nhật bản trong thời gian qua.......................................7
2.1.1. Những thành tựu đạt được......................................................................11
2.1.2. Khó khăn và yếu kém của nền kinh tế Nhật bản trong thời gian qua.........13
2.2. Nguyên nhân của tình hình trên...............................................................15
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan............................................................................15
2.2.2. Nguyên nhân khách quan........................................................................17
CHƯƠNG 3........................................................................................................19
GIẢI PHÁP ĐỂ BÌNH ỔN NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM..........................................................19
3.1. Giải pháp.....................................................................................................19
3.1.1. Giải pháp về kinh tế..................................................................................19
3.1.2. Giải pháp chịnh trị...................................................................................20
3.1.3. Giải pháp về xã hội...................................................................................20
3.2. Bài học kinh nghiệm..................................................................................21


C. KẾT LUẬN...................................................................................................23
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24

0


A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản hiện là đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Năm 2010, kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản năm 2010 đạt 7,73 tỷ USD, chiếm
10,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, tăng 23% so với
năm 2009; nhập khẩu hàng hoá từ Nhật bằng 10,63% tổng kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa. Việt Nam xuất khẩu sang Nhật hàng dệt may (chiếm 15% tổng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này), cáp điện (12%), máy móc thiết bị và phụ tùng
(11,7%) và thủy sản (11,6%). Trong ngắn hạn xuất khẩu sang Nhật sẽ giảm do
người Nhật thắt lưng buộc bụng trong thời buổi khó khăn. Nhu cầu nhập hàng
của Nhật sẽ tăng trở lại khi Nhật Bản bước vào giai đoạn tái thiết và kích cầu.
Những mặt hàng nhập khẩu từ Nhật là máy móc thiết bị và phụ tùng
(chiếm 28% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này), sắt thép (14%) và máy
tính, linh kiện điện tử (11%). Việc sản xuất các sản phẩm này bị ảnh hưởng do
tình trạng thiếu điện của Nhật sẽ làm giảm kim ngạch nhập khẩu trong vài tháng
tới đây.
Nhật Bản có vai trị quan trọng trong cung cấp tài chính cho phát triển
kinh tế của Việt Nam, thể hiện qua các điểm sau: là chủ nợ song phương lớn
nhất, chiếm 33% nợ nước ngoài của Việt Nam (đạt 9,6 tỷ USD vào 30/6/2010);
nợ của Việt Nam tính bằng đồng Yên chiếm tới 38% tổng nợ nước ngoài; là nhà
tài trợ ODA song phương lớn nhất và là nhà đầu tư trực tiếp lớn thứ 5 của Việt
Nam. Việt Nam là một trong những điểm đến được các tập đoàn Nhật Bản chú
ý. Năm ngối đã có hơn 200 doanh nghiệp Nhật Bản đến Việt Nam với tổng dự
án đầu tư lên tới 1,4 tỷ euro. Cuối cùng, một trong những cột trụ giúp cho kinh

tế Nhật đứng vững trong năm qua chính là sức mua của các hộ gia đình : bất
chấp khó khăn chồng chất và tồn cảnh u ám, người Nhật vẫn tin tuởng vào
tương lai. Chỉ số tin tưởng trong năm 2011 tăng 1,1 điểm so với 2010. Với vai
trò trên nhưng quyết sách, chiến lược của nhật bản đưa ra có nhửng có tầm ảnh
hướng lớn đối với nền kinh tế Việt nam, việc nghiên cứu nền kinh tế nhật bản rất
là quan trọng
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài chúng tôi hướng tới làm sáng tỏ một số vấn đề sau đây:
1


Làm rõ cuộc khủng hoảng ở nhật bản một cách có hệ thống, đi từ phân
tích ngun nhân, tác đọng và biện pháp thoát khỏi cuộc khủng hoảng.
Nghiên cứu cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật bản sẽ cung cấp những kiến
thức khủng hoảng kinh tế đồng thời nó cũng giúp cho các nhà hoạch định chiến
lược của mỗi nước có được bài học kinh đó là: Một đất nước có vị thế quan
trọng và giàu tiềm năng (như Nhật bản ) muốn phát triển thực sự ổn định và
vững chắc phải biết gắn chặt ba mục tiêu chiến lược: Tăng trương kinh tế, ổn
định chính trị và cơng bằng xã hội.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên đề tài đặt ra nhiệm vụ là: phân tích làm rõ
nguyên nhân, diễn biến và tác động và biện pháp khắc phục cuộc khủng hoảng
kinh tế Nhật bản.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Những lý luận cơ bản về cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật bản thời gian
qua
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật bản xảy ra từ năm 1990 cho đến nay

nhưng để đáp ứng tình cụ thể, khách quan mang tính thời sự đề tài chỉ nghiên
cứu tình hình kinh tế xã hội Nhật bản từ năm (2009-2012)
4. Phương pháp nghiên cứu
Mặc dù đây là đề tài nghiên cứu về cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật bản
trong thời gian vừa qua nhưng tác giá nhìn nhận nó dưới góc độ lịch sử trên cơ
sở vận dụng hai phương pháp chủ yếu đó là: phương pháp lịch sử và phương
pháp lơgic để phân tích quá trình, tình hinh và phát triển của cuộc khủng hoảng
ở Nhật bản qua đó rút ra những nhận định mang tính khái quát và tổng hợp
Do tính chất của một đề tài nghiên cứu về cuộc khủng hoảng ở Nhật bản
thời gian vừa qua và rút ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt nam nên
ngoài hai phương pháp trên các phương pháp như: Thống kê, so sánh, đối chiếu,
phân tích, tổng hợp cũng được tác giả sử dụng đến
Từ những tài liệu tiếp cận được với những phương pháp nghiên cứu trên
tác giả cố gắng khai thác và xử lí thơng tin một cách khách quan và trung thực
Qua đây tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Thầy Đào Quang Thắng đã
giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình trong q trình hồn thành đề tài
2


5. Bố cục của đề tài
Với đề tài này bố cục gồm những chương sau:
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
1.1. Khái niệm khủng hoảng
1.2. Phân loại khủng hoảng
1.3. Tác động của cuộc khủng hoảng
1.4. Nguyên nhân khủng hoảng
Chương 2
KHỦNG HOẢNG Ở NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tình hình kinh tế Nhật bản trong thời gian qua

2.1.1. Những thành tựu đạt được
2.1.2. Khó khăn và yếu kém của nền kinh tế Nhật bản trang thời gian qua
2.2. Nguyên nhân của tình hình trên
Chương 3
GIẢI PHÁP ĐỂ BÌNH ỔN NỀN KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1. Giải pháp
3.2. Bài học kinh nghiêm đối với nước ta

3


B. NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
1.1. Khái niệm khủng hoảng
Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và
trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế
chính trị của Mác-Lênin. Từ ngữ chỉ này khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh
sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Bài viết này chủ yếu về khái niệm Khủng
hoảng kinh tế của Karl Marx vốn vẫn được dùng thịnh hành trongKinh tế chính
trị Marx. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp
tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng trong xã
hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một q trình tích tụ tư
bản mới.
Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Marx cho rằng tự bản
thân Karl Marx không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng hoảng
kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những nghiên cứu của ông gợi ý nhiều
lý luận khác nhau mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một đặc điểm chủ yếu của

những lý luận này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và không tự nhiên mà
nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trị là một hình thái xã hội.
Marx viết, “cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”.
Những lý luận này bao gồm:

Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu
hướng chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi
nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng hoảng.

Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh
giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng
tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường
xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng
cầu không tương xứng với tổng cung.

Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê
mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng
đến nền kinh tế.
4


Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên khơng mâu thuẫn với nhau
và có thể đóng vai trị là những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về
khủng hoảng kinh tế.
1.2. Phân loại khủng hoảng
a. Khủng hoảng ngân hàng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi
ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng
đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hồn trả các khoản
nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách

hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm
tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang
tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên khơng lan rộng, nhưng lãi suất tín
dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân
sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài
chính.
b. Khủng hoảng trên thị trường tài chính
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân
chính: Do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các bong bóng đầu
cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi
nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều
này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lịng tin vào nội tệ và
chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước
sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào
đó, trên thị trường lại ln tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ
đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xơ đi mua một loại
hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động
sản), nhưng khơng nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu
cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị
của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. nhiều người cùng
bán, gây tình trạng rớt giá, họ khơng cần hiểu biết nguyên do khi nào cần mua
vào, khi nào cần bán ra nên gọi là “tâm lý bầy, đàn”.
c. Khủng hoảng tài chính thế giới

5


Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình
hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia, gây khủng
hoảng tiền tệ.

d. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ
yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư,
dẫn tới việc khơng thanh tốn được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản.
1.3. Tác động của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế nổ ra làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa bị phá hoại dữ dội; hàng loạt xí nghiệp bị đóng cửa, quy mơ sản
xuất bị thu hẹp, giá cả giảm xuống, thương mại bị thu hẹp, nhiều ngân hàng
không hoạt động, thị trường chứng khoán bị rối loạn, giá cổ phiếu hạ thấp. Hàng
loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ bị vỡ nợ, phá sản. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm
1929-1933 đã làm giảm 1/3 sản lượng công nghiệp, 2/3 mậu dịch quốc tế trong
hơn 50 nước. Nước Mỹ đã phá huỷ 92 lò nấu sắt, phá đi 10,4 triệu mẫu Anh cây
bông, huỷ 6,46 triệu con lợn. Braxin phá huỷ 22 triệu bao cà phê. Đan Mạch phá
huỷ 117.000 con gia súc.
Trong khi một khối lượng của cải khổng lồ như vậy bị tiêu huỷ thì hàng
triệu người lao động lại lâm vào cảnh bần cùng đói khổ. Hàng triệu người lao
động làm thuê bị mất việc làm. Lợi dụng tình trạng thất nghiệp gia tăng, các nhà
tư bản tăng cường bóc lột công nhân bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường
độ, tăng thời gian lao động. Không những công nhân ở chính quốc bị bóc lột, mà
nhân dân ở các nước thuộc địa, phụ thuộc cũng chịu chung cảnh ngộ. Vì
vậy, khủng hoảng kinh tế thúc đẩy mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản với
vô sản; giữa tư bản với các dân tộc thuộc địa càng thêm sâu sắc.
1.4. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ quan hệ cung cầu bị phá vỡ khi mà
cung vượt cầu thì xảy ra tình trạng khủng hoảng thừa gây khó khăn cho chu
chuyển hàng hóa ảnh hưởng đến chu kỳ chu kinh tế, sự yếu kém của nền kinh tế
khơng thích ứng với thay đổi của thế giới, các yếu tố chính trị, xã hội, thiên tai
(động đất, sóng thần ở Nhật bản…) quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia với
nhau…


6


Chương 2
KHỦNG HOẢNG NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tình hình kinh tế Nhật bản trong thời gian qua
a. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản năm 2012 có 2 gam màu sáng tối
khá rõ rệt. Nửa đầu năm là sự tăng trưởng GDP khá ngoạn mục chủ yếu
nhờ công cuộc tái thiết và phục hồi từ thảm họa động đất và sóng thần năm
2011. GDP Quý I của nước này tăng 1% so với quý IV/2011, tăng 4,7% so với
cùng kỳ năm 2011; và Quý II đạt 1,3% so với Quý I. Sự phục hồi ổn định của
các ngành nghề sau thảm họa động đất - sóng thần là nguyên nhân chính khiến
kinh tế Nhật Bản đạt mức tăng trưởng cao trong nửa đầu năm. Tuy nhiên, tăng
trưởng chậm lại ở Trung Quốc, cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu và đồng yên liên
tục tăng giá mạnh so với đô la Mỹ làm xói mịn những nguồn thu từ nước ngồi
khiến GDP Quý III và Quý IV liên tiếp suy giảm. Tăng trưởng GDP quý II của
Nhật Bản đạt mức 1,4% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ bằng chưa đầy 1/3 con số
5,5% của quý I. Trong quý III vừa qua, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật
Bản đã giảm 0,9% so với quý trước đó và giảm 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đây là quý thứ 2 liên tiếp nền kinh tế nước này suy giảm.Nền kinh tế của Nhật
Bản có thể đã rơi vào giai đoạn suy thối do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng nợ
cơng ở châu Âu và kinh tế toàn cầu suy yếu. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đợt
suy thoái này của Nhật Bản không sâu và nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới có thể
bắt đầu phục hồi từ cuối năm nay. Theo khảo sát của Bloomberg, tăng trưởng
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản sẽ giảm 0,4% trong quý IV/2012
sau khi đã giảm 3,5% trong quý III/2012.
b. Sản xuất công nghiệp sụt giảm mạnh
Giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu năm 2012 của Nhật Bản tăng
mạnh trong tháng 3, và tháng 4 chủ yếu do nhu cầu bên ngoài và tái thiết đất

nước sau thảm họa sóng thần đã thúc đẩy sản lượng của các nhà máy, nhưng liên
tiếp sụt giảm trong các tháng tiếp theo. Sản lượng công nghiệp tháng 9 của nước
này đã giảm 4,1% so với tháng trước đó.Trong tháng 8, tốc độ này chỉ là 1,6%.
Nguyên nhân là suy giảm toàn cầu, căng thẳng lãnh thổ với Trung Quốc và nhu
cầu nội địa yếu khi chính phủ ngừng trợ giá ơtơ tiết kiệm nhiên liệu. Đây là mức
sụt giảm lớn nhất tại Nhật kể từ thảm họa kép hồi tháng 3 năm ngoái
7


Sản lượng công nghiệp Nhật Bản bất ngờ tăng trong tháng 10, tăng 1,8%
so với tháng trước, sau khi giảm 4,1% trong tháng 9, số liệu bộ thương mại nước
này công bố hôm 30/11 cho biết. Đây là mức tăng mạnh nhất kể từ tháng
12/2012 do sản xuất các bộ phận máy móc, bao gồm iPhone của Apple Inc.,
mang đến điểm nhấn sáng cho nền kinh tế được cho là tăng trưởng chậm trong
quý thứ hai liên tiếp cùng với các dấu hiệu phục hồi ở 2 nền kinh tế lớn nhất thế
giới là Mỹ và Trung Quốc đã làm giảm bớt nguy cơ rơi vào suy thoái của Nhật
Bản.
c. Thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản ở mức thấp nhất trong lịch sử
Tính đến hết tháng 10 năm 2012, mức thặng dư tài khoản vãng lai của
Nhật Bản đạt 5273 tỷ Yên. Năm 2011 do ảnh hưởng của khủng hoảng kép động
đất, sóng thần, thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản là 9628,9 tỷ yên (125
tỷ USD), giảm 44% so với năm 2010 và là mức giảm mạnh nhất trong 15 năm.
Như vậy, năm 2012 thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản vẫn ở mức thấp
kỷ lục.Theo số liệu của Chính phủ Nhật Bản công bố ngày 10/12, thặng dư tài
khoản vãng lai của nước này trong tháng 10 đã giảm khoảng 30% so với năm
ngối xuống cịn 376,9 tỷ n. Tài khoản vãng lai là thước đo rộng nhất của
thương mại Nhật Bản với phần còn lại của thế giới, bao gồm cả xuất khẩu, du
lịch và thu nhập ở nước ngoài. Thặng dư tài khoản hiện tại của Nhật Bản đã bị
ảnh hưởng bởi một nền kinh tế toàn cầu chậm lại, xuất khẩu sụt giảm và nhập
khẩu nhiên liệu tăng cao dẫn đến thâm hụt thương mại khổng lồ.

Xuất khẩu của Nhật Bản đã giảm xuống đến mức thấp kỷ lục do hậu quả
của động đất, sóng thần năm ngối, cũng như do suy thoái kinh tế thế giới, đồng
Yên mạnh và cuộc tranh chấp lãnh thổ kéo dài với Trung Quốc. Xuất khẩu tại
Nhật Bản giảm xuống còn 4983,90 tỷ yên trong tháng mười một năm 2012 từ
5150 tỷ yên vào tháng Mười năm 2012. Nhập khẩu, trong khi đó, lại tăng 4,1%
do Nhật Bản tăng nhập dầu mỏ và Gas. Xuất khẩu sang Trung Quốc, thị trường
lớn nhất của Nhật Bản, đã giảm 14,1% so với 1 năm trước đây. Xuất khẩu sang
các nước EU giảm 21,1%, nhưng xuất sang Mỹ lại tăng 0,9%.
Do một khoảng thời gian dài xuất khẩu sụt giảm khiến mức thâm hụt
thương mại của Nhật Bản tăng vọt. Bộ Tài chính Nhật Bản ngày 19-12 cho biết
trong tháng 11-2012, Nhật Bản thâm hụt thương mại 953,4 tỉ yen (khoảng 11,4 tỉ
đô la Mỹ), đánh dấu thâm hụt thương mại tháng thứ năm liên tiếp. Số liệu cho
thấy thâm hụt thương mại tháng 11 tăng gần 38% so với cùng kỳ năm ngoái.
8


Đây là mức thâm hụt thương mại lớn nhất của Nhật Bản kể từ tháng 1-2012 và
là mức thâm hụt thương mại lớn thứ ba kể từ khi Nhật Bản thống kê số liệu
thương mại vào năm 1979. Từ tháng 1 đến tháng 11 năm nay, thâm hụt thương
mại tích lũy của Nhật Bản lên tới gần 6.281 tỉ yen (khoảng 74,8 tỉ đô la Mỹ),
gấp 2,4 lần mức thâm hụt thương mại cả năm qua là 2.613 tỉ yen. Hội đồng
Thương mại Quốc tế Nhật Bản ước tính, thâm hụt thương mại của nước này
trong năm tài chính 2013 (kết thúc vào tháng 3.2014) sẽ đạt mức cao nhất trong
lịch sử là 82,3 tỷ USD. Theo đó, sản lượng xuất khẩu sẽ tăng 1,3% so với năm
nay, sản lượng nhập khẩu sẽ tăng 1,1%, đặc biệt đối với các mặt hàng đồ gia
dụng, quần áo, bởi Chính phủ Nhật dự định tăng thuế tiêu dùng vào tháng
4.2014. Cơ quan trên cũng cho rằng thâm hụt thương mại của Nhật Bản sẽ giữ ở
mức cao trong vài năm tới.
d. Tình trạng giảm phát vẫn bao trùm
Khi nói về tỷ lệ lạm phát ở Nhật Bản, điều này thường đề cập đến tỷ lệ

lạm phát trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng, hoặc gọi tắt là chỉ số giá tiêu dùng. Chỉ
số CPI của Nhật Bản cho thấy sự thay đổi trong giá của một gói tiêu chuẩn hàng
hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình Nhật Bản mua để tiêu thụ. Biểu đồ 5 và 6 cho
thấy chỉ số lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng hiện tại của Nhật Bản.Năm 2012,
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Nhật Bản liên tiếp giảm cho thấy ở Nhật Bản tình
trạng giảm phát vẫn bao trùm cho dù ngân hàng trung ương nước này đã tăng
mục tiêu lạm phát với hy vọng thúc đẩy lạm phát. Chỉ số lạm phát lõi của Nhật
Bản tháng 7 giảm 0,3% so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi giảm 0,2% trong
tháng 6. Trong tháng 9, chỉ số này là 99,6; giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.
Sau 5 tháng giảm liên tiếp, đến tháng 10/2012, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của
Nhật Bản không đổi so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, để đạt lạm phát mục
tiêu 1% từ mức 0% như hiện nay, ngân hàng trung ương Nhật Bản cịn một
chặng đường dài.
e. Nợ cơng Nhật Bản cao kỷ lục
Số liệu được Bộ Tài chính Nhật cơng bố ngày 9/11 cho thấy, nợ công của
nước này tăng lên mức cao kỷ lục 983.30 ngàn tỷ yên (tương đương 12,4 nghìn
tỷ USD) vào cuối tháng 9/2012. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí tái thiết đất
nước sau thảm họa động đất và sóng thần đầu tháng 3/2011. Trong đó bao gồm
803.74 ngàn tỷ yên trái phiếu Chính phủ; 125,37 ngàn tỷ yên tín phiếu đảm bảo
cho nhu cầu vốn ngắn hạn và 54,19 nghìn tỷ yên dưới dạng các khoản vay từ các
9


tổ chức tài chính. So với thời điểm cuối tháng 6/2012, nợ cơng của Nhật tăng
0.7%. Bộ Tài chính dự báo nợ cơng của nước này có thể vượt 1 triệu tỷ yên
trong năm tài khóa 2012 kết thúc vào tháng 3/2013
So với nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ với quy mô nợ công thấp hơn
Nhật Bản, nhưng lại đang phải loay hoay xử lý nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật, trong
khi nợ công của Nhật Bản có quy mơ lên tới hơn 229% GDP, được đánh giá là
cao nhất trong số các nước phát triển, nhưng nợ công của Nhật Bản vẫn được

đánh giá ở ngưỡng an tồn. Những nhân tố đóng góp vào mức an tồn nợ cơng
Nhật Bản, đó là:
Thứ nhất, trái phiếu chính phủ ổn định và ít phụ thuộc vào giới đầu tư
trái phiếu quốc tế. Theo đánh giá của Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế
Standard & Poor’s (S&P), triển vọng đối với trái phiếu chính phủ Nhật Bản hiện
ổn định và Nhật Bản “không quá gần” với khủng hoảng, ít nhất là trong ngắn
hạn, nhờ 3 yếu tố cơ bản: (1) Cán cân thanh toán quốc tế mạnh và dự trữ ngoại
hối hơn 1000 tỷ USD; (2) Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân vẫn lớn hơn nợ công; (3) Đa
phần trái phiếu chính phủ Nhật Bản được các nhà đầu tư trong nước nắm giữ.
Do ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái phiếu quốc tế, nên Chính phủ Nhật Bản sẽ
chỉ gặp thách thức trong vấn đề vay nợ khi các nhà đầu tư trong nước khơng cịn
mặn mà với trái phiếu Nhật Bản. Những thế mạnh này đã giúp Nhật Bản giữ
được thị trường trái phiếu bình ổn.
Thứ hai, phần lớn nợ công Nhật Bản nằm trong tay các nhà đầu tư nội
địa. (khoảng 95%) nằm trong tay các nhà đầu tư trong nước nên Nhật Bản vẫn
chưa phải trải qua những gì như ở Hy Lạp (năm 2010) và tránh được tác động
bất lợi từ những biến động thất thường của thị trường tài chính thế giới.
Thứ ba, hệ số sử dụng vốn đầu tư ICOR của Nhật Bản hiệu quả và nguồn
dự trữ ngoại tệ mạnh.Mặc dù tỉ lệ nợ công của Nhật Bản cao hơn 200% GDP,
song chỉ số hiệu quả vốn đầu tư ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) của
Nhật Bản chỉ vào khoảng 3,0, do vậy khả năng trả nợ khơng q khó. Bên cạnh
đó, dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản cũng ở mức rất cao. Theo Bộ Tài chính Nhật
Bản, dự trữ quốc gia của Nhật Bản là 1.046,873 tỉ USD (tháng 5/2011). Do vậy,
nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngồi nợ cơng cao cịn đứng trước nhiều khó khăn
khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có thể trở thành mục tiêu tấn công của
giới đầu cơ quốc tế.
10


Tỷ lệ nợ của Nhật bản do nước ngoài nắm giữ lên mức cao nhất trong hơn

30 năm qua
Theo báo cáo vừa công bố của ngân hàng trung ương Nhật Bản, các nhà
đầu tư nước ngoài đang nắm giữ 8,3% trái phiếu chính phủ Nhật Bản tính đến
cuối tháng 3 vừa qua. Đây là tỷ lệ cao nhất kể từ năm 1979. Trong 3 quý gần
đây, tỷ lệ này dao động quanh mức 8,3% đến 8,5%.Chính phủ Nhật Bản đã sử
dụng 1.513 nghìn tỷ yên tài sản hộ gia đình để giải quyết gánh nặng nợ công.
Tuy nhiên, nguồn vốn này đã suy giảm vài năm trở lại đây khi tình trạng già hóa
dân số và kinh tế giảm phát ảnh hưởng tiêu cực đến đà tăng trưởng.
2.1.1. Những thành tựu đạt được
Mặc dù có một vẻ suy sụp bề ngoài, nhưng Nhật Bản hiện vẫn nằm trong
số những nước sản xuất nhiều hàng hóa nhất. Dù nền kinh tế Nhật Bản đang
phải đối mặt với những thách thức nặng nề: khơng có vai trị lãnh đạo về chính
trị, nợ cơng, dân số lão hóa, song đất nước này vẫn cịn có những con bài của
mình: cơng nghệ tuyệt vời, sự năng động về thương mại, hùng mạnh về tài
chính, vai trò lãnh đạo về kinh tế và thương mại ở châu Á. Một ý muốn chính trị
mạnh mẽ và một sự khơi phục lịng tin có thể cho phép nền kinh tế lớn thứ ba
thế giới này trở lại quá trình tăng trưởng đều đặn và bền vững.
Một Nhật Bản suy sụp và già nua trước một Trung Quốc năng động và
chinh phục đang là thứ đập vào mắt mọi người, và đối với họ, nguyên nhân là rõ
ràng: hai thập kỷ hầu như là trì trệ đã mở đầu cho sự suy sụp của Nhật Bản. Hiện
nay, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản chỉ chiếm 8,5% GDP của cả
thế giới so với 14,3% hồi năm 1990; GDP tính theo đầu người của Nhật Bản đã
giảm từ vị trí thứ ba năm 1990 xuống vị trí thứ 23 hiện nay. Về tính cạnh tranh
quốc tế, trong cùng quãng thời gian trên, Nhật Bản từ vị trí quán quân tụt xuống
vị trí thứ 27. Mặc dù hầu như khơng có ngun liệu gì, chỉ với 2% số dân ở độ
tuổi lao động của thế giới so với 27% của Trung Quốc, nhưng Nhật Bản vẫn sản
xuất được lượng hàng hóa trị giá ngang với nước láng giềng to lớn sừng sững là
Trung Quốc, tương đương 8,5% GDP của thế giới. Sự so sánh ấy chứng tỏ Nhật
Bản vẫn cịn có những con bài đáng kể cho dù nó phải đối phó với những thách
thức nặng nề về cơ cấu. Trong quá khứ, Nhật Bản đã chứng tỏ được khả năng

nhảy vọt của mình trong nhiều cuộc khủng hoảng, song giờ đây, liệu nước này
cuối cùng có thể thốt khỏi tình trạng suy sụp dường như đang buộc họ phải náu
mình khơng?
11


Năm 2009, cuộc khủng hoảng thế giới đã nhấn chìm Nhật Bản vào tình
trạng suy thối tồi tệ nhất trong lịch sử của mình, và đấy được coi như trận “bìm
leo” sau trận”dậu đổ”, đấy là cuộc khủng hoảng riêng của mình vào những năm
1990. Sự lây lan của cuộc khủng hoảng qua kênh ngoại thương thật nhanh chóng
và khốc liệt: với một sự suy giảm GDP 1,2% năm 2008 và 5,2% năm 2009, sự
suy thoái của Nhật Bản nghiêm trọng hơn so với các nước cơng nghiệp hóa
khác. Sự tăng trưởng tàm tạm được ghi nhận trong những năm 2002 – 2007 lại
chủ yếu dựa tới 60% vào xuất khẩu, trong khi tiêu dùng trong nước vẫn trì trệ
trong bối cảnh giảm phát. Những hậu quả tổng hợp từ sự suy thoái thế giới và từ
việc đồng yên tăng giá mạnh đã dẫn đến một sự suy giảm xuất khẩu sang Mỹ và
châu Âu, thị trường xuất khẩu hàng đầu và thứ ba của Nhật Bản. Vì vậy, vốn đầu
tư của các doanh nghiệp đã giảm mạnh trong khi nạn thất nghiệp gia tăng và
lương giảm đã bóp nghẹt sở thích tiêu dùng của các bà nội trợ. Cuộc khủng
hoảng đã cho thấy những hạn chế của chu trình phát triển năm 2002 – 2007 dựa
vào nhu cầu bên ngồi. Để duy trì sự tăng trưởng lâu dài và ít phụ thuộc vào bối
cảnh quốc tế, Nhật Bản phải tái cân bằng mơ hình của mình, đặc biệt phải kích
thích sức mua trong nước. Chủ trương ấy đã thành hiện thực vào năm 2010, khi
chi tiêu của các gia đình người Nhật đã tăng hơn 3,9%. Nhưng sở dĩ có sự nhảy
vọt này chủ yếu là do các nhân tố nhất thời liên quan đến kế hoạch đẩy mạnh
nền kinh tế. Giới kinh tế trong nước dự đoán rằng trong những năm tới sẽ có
một sự phát triển dần dần nền sản xuất, với khoảng 1,5% mỗi năm, nhưng cho
dù có được như thế, thì nó rõ ràng vẫn thấp hơn mức tăng trưởng tiềm năng vốn
có của Nhật Bản.
Ngoài hậu quả từ cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Nhật Bản còn thể hiện

những điểm yếu về cơ cấu ảnh hưởng đến thành tích của mình. Những khoản lợi
nhuận từ sản xuất đã giảm bớt trong một nền kinh tế đã đạt tới mức già dặn và
qui mô của thị trường trong nước vẫn còn khiêm tốn so với qui mô của các thị
trường lớn trong khu vực hoặc các nền kinh tế châu lục như Trung Quốc hoặc
Ấn Độ. Ngồi ra, cịn có 3 nhân tố khiến cho tương lai kinh tế của Nhật Bản
chưa thấy nhiều điểm sáng, đó là sự thiếu kinh niên vai trị lãnh đạo về chính trị,
nợ cơng và thách thức về dân số.
2.1.2. Khó khăn và yếu kém của nền kinh tế Nhật bản trong thời gian qua
Trong khi cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế tồn cầu chưa qua, thì
những khó khăn lại giáng xuống nền kinh tế Nhất Bản vốn đã trải qua hai thập
12


niên suy giảm. Thách thức “kép” đã đặt ra cho đất nước “Mặt Trời mọc” mục
tiêu vừa phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa phải đảm bảo sự lành mạnh của
nền tài chính cơng trong lúc tỷ lệ nợ công hiện ở mức cao nhất trong số các nền
kinh tế phát triển, giữa lúc đồng Yên không ngừng tăng giá.
Tăng trưởng trì trệ, nợ cơng tăng cao: Trong q 2 năm 2011, kinh tế
Nhật Bản vẫn suy giảm 0,3%, nhưng đây là con số thấp hơn nhiều so với mức
giảm 0,9% trong quý 1 năm 2011. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) dự báo kinh tế Nhật Bản sẽ giảm 0,5% trong năm 2011, trước khi tăng
trưởng 2,1% trong năm 2012. Theo ước tính của Bộ Tài chính Nhật Bản, nợ
cơng của nước này sẽ vượt ngưỡng 1 triệu tỷ Yên (khoảng 12.810 tỷ USD) vào
cuối tài khóa 2011. Các khoản vay thơng qua phát hành trái phiếu quốc gia và
những khoản vay ngân hàng sẽ lên tới 1,024 triệu tỷ Yên vào cuối tháng
3.2012. Trong khi đó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính tổng nợ cơng của
Nhật Bản baogồm cả các chi phí an sinh xã hội, hiện đã lên tới 1,054 triệu tỷ
Yên, tương đương 220% GDP của nước này năm 2010.
Nợ công của Nhật Bản tăng mạnh là do nước này phải tăng cường vay
mượn để trang trải các chi phí tái thiết khu vực Đơng Bắc sau thảm họa động

đất-sóng thần vừa qua, xử lý sự cố tại nhà máy điện hạt nhân Phu-cu-si-ma và
can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm chặn đà tăng giá của đồng Yên. Chính phủ
Nhật Bản sẽ phải phát hành bổ sung 11.100 tỷ Yên (155,7 tỷ USD) trái phiếu
quốc gia để tài trợ cho một phần ngân sách bổ sung lần thứ ba trong tài khóa
2011. Bên cạnh đó, Tơ-ky-ơ cũng có thể sẽ phát hành 15.000 tỷ Yên hối phiếu
tài chính để tài trợ cho cuộc chiến chống hiện tượng tăng giá bất thường của
đồng Yên. Việc đồng Yên tăng giá mạnh so với đồng USD có thể làm chệch
hướng phục hồi của kinh tế Nhật Bản khi làm giảm lợi nhuậnở nước ngồi của
các doanh nghiệp xuất khẩu. Lợi nhuận rịng của Tập đồn cơng nghệ khổng lồ
Toshiba trong nửa đầu tài khóa 2011 (4-9.2011 chỉ đạt 22,7 tỷ Yên (287 triệu
USD), giảm 18,5% so với cùng kỳ năm 2010. Trong khi đó, lợi nhuận rịng của
Hãng chế tạo ơ tơ Honda trong 6 tháng đầu năm 2011 giảm tới 77,4% so với
cùng kỳ năm 2010, chỉ đạt 60,4 tỷ Yên (776 triệu USD). Tình hình cịn khó khăn
hơn đối với Panasonic, khi tập đồn điện tử này cơng bố mức lỗ ròng lên tới
136,15 tỷ Yên (1,7 tỷ USD trong 6 tháng đầu tài khóa 2011.
Từ biện pháp tình thế đến giải pháp dài hạn: Để ngăn chặn đà tăng giá
của đồng Yên, Chính phủ và ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã tiến
13


hành các đợt can thiệp lớn vào thị trường. Tuy nhiên, đợt can thiệp trong tháng
8.2011 thông qua bán đồng Yên, mua đồng USD đã không mang lại kết quả.
Vấn đề là hành động can thiệp đơn phương của một chính phủ khơng thể đảo
ngược xu hướng của thị trường, nhất là khi Nhật Bản lại gặp khó khăn trong tìm
kiếm sự hợp tác của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), bởi Mỹ đang tìm cách hỗ
trợ nền kinh tế ốm yếu của nước này bằng cách tăng thêm nguồn thu từ xuất
khẩu nhờ làm giảm giá đồng USD. Lần can thiệp gần đây nhất của Chính phủ
Nhật Bản vào thị trường tiền tệ là vào ngày 31.10 vừa qua. Đây là đợt bán đồng
nội tệ lần đầu tiên kể từ tháng 8.2011 và là lần thứ ba trong năm nay của Nhật
Bản để hạ nhiệt tỷ giá đồng Yên. Sau khi BOJ công bố số liệu cho thấy mức

tăng rịng 7,86 nghìn tỷ n trong cán cân tài khoản vãng lai, giới phân tích thị
trường ước tính Bộ Tài chính và BOJ đã chi 8 nghìn tỷ n (102 tỷ USD) mua
USD trong lần can thiệp này, làm cho giá đồng Yên đứng ở mức 79 JPY/USD so
với mức cao kỷ lục 75,3 1 JPY/USD.
Trong khi đó, với tỷ lệ nợ công đã vượt 200% GDP, rõ ràng Nhật Bản cần
phải thực thi một chiến lược rõ ràng để đảm bảo sự bền vững về tài chính. Trong
bối cảnh này, IMF hoan nghênh “Chiến lược quản lý tài chính trung hạn” mà
Chính phủ Nhật Bản thơng qua năm 2010, trong đó đặt mục tiêu giảm một nửa
mức thâm hụt ngân sách cơ bản vào tài khóa 2015 và đạt được thặng dư cơ bản
muộn nhất là vào tài khóa 2020. Bên cạnh đó, đề xuất tăng gấp đơi thuế tiêu
dùng lên mức 10% vào giữa thập kỷ 2010 của Chính phủ Nhật Bản cũng là một
bước đi quan trọng hướng tới củng cố nền tài chính cơng. Việc tiến hành một
chiến lược thống nhất và mạnh mẽ để ổn định tình hình tài chính cơng của Nhật
Bản đang ngày càng cấp thiết hơn, khi cuộc khủng hoảng nợ cơng ở châu Âu có
thể là lời cảnh báo đối với nước này. Các nền kinh tế phát triển có quy mô lớn
không thể miễn dịch trước những thay đổi mạnh mẽ trong tâm lý thị trường và
một khi cuộc khủng hoảng nổ ra sẽ rất khó ngăn chặn. Nỗ lực giảm tỷ lệ nợ công
sẽ phụ thuộc rất lớn vào các biện pháp tăng nguồn thu, khi khơng có nhiều giải
pháp để cắt giảm chi tiêu trong lúc tỷ lệ chi tiêu phi an sinh xã hội của Nhật Bản
trong tổng GDP là thấp nhất trong OECD.
Tuy nhiên, để củng cố nền tài chính, Nhật Bản cũng cần phải tiến hành cải
cách cơ cấu để thúc đẩy tăng trưởng như đẩy mạnh tự do hóa thương mại, cải
cách thị trường lao động và khuyến khích khởi nghiệp. Việc đẩy mạnh tự do hóa
thương mại như tham gia Hiệp định đối tác xuyên phải Bình Dương (TPP) sẽ
14


giúp Nhật Bản tăng kim ngạch đồng thời mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu,
thậm chí có thể thâm nhập các thị trường đang được bảo hộ. Trong khi đó, Nhật
Bản cũng cần có những điều chỉnh đối với thị trường lao động như tăng tuổi

nghỉ hưu, nhằm tăng số lao động lớn tuổi trong lực lượng lao động ở một đất
nước mà dân số đang bị già hóa.
2.2. Nguyên nhân của tình hình trên
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan
Ba nguyên nhân khiến khó khăn của nền kinh tế Nhật Bản thêm trầm
trọng
Các vấn đề của nền kinh tế Nhật Bản đang trở nên nghiêm trọng và tồi tệ
hơn. Đặc biệt trong số đó là gánh nặng từ nợ chính phủ.
Tỷ lệ nợ chính phủ của Nhật Bản trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hiện
nay vào khoảng 2,28%, cao nhất trong nhóm các nước cơng nghiệp, thậm chí
gần gấp đôi Hy Lạp, Italia và vẫn tiếp tục tăng.
Hiện tại, lãi suất từ khoản nợ kết hợp với an sinh xã hội xấp xỉ bằng tổng
thuế thu nhập hàng năm của chính phủ Nhật Bản.
Cán cân thương mại Nhật Bản hiện đang âm, lần đầu tiên kể từ năm 1980.
Giá đất đai và giá cổ phiếu Nikkei giảm khoảng 30% kể từ năm 1989.
Bên cạnh đó, Nhật Bản hiện phải đối mặt với một loạt vấn đề nan giải như
phụ nữ trẻ Nhật Bản có xu hướng di cư khỏi đất nước, các công ty trong nước
đang chuyển hướng sản xuất ra nước ngồi, chính trị rơi vào bế tắc (thay 6 thủ
tướng trong 5 năm). Năm ngoái Nhật Bản đã phải trải qua các cuộc biểu tình
đường phố lớn nhất trong nhiều thập kỷ qua.
Những vấn đề của nền kinh tế này chỉ là những triệu chứng của ít nhất 3
vấn đề xã hội sâu sắc. Bất chấp các chính sách mới liên tục được thơng qua, nếu
các vấn đề này khơng được giải quyết, những khó khăn của nền kinh tế vẫn sẽ
tiếp tục tăng. Dưới đây là 3 nguyên nhân khiến khó khăn của nền kinh tế Nhật
Bản thêm trầm trọng:
Hôn nhân và tỷ lệ sinh đẻ quá thấp
Trong thế giới công nghiệp, tỷ lệ sinh đang giảm và ngày càng ít người có
nhu cầu kết hơn. Tại Nhật Bản, tỷ lệ sinh (7,31 ca sinh trên 1000 dân mỗi năm)
là thấp nhất thế giới và hiện vẫn tiếp tục giảm, thậm chí có thể đạt con số 0 vào
năm 2017.

15


Tỷ lệ kết hôn tại Nhật Bản cũng ở mức thấp đáng báo động, 5,8 cuộc hôn
nhân trên 1000 dân mỗi năm. Độ tuổi kết hơn trung bình tại Nhật Bản là 31. Một
phần nguyên nhân là do cuộc sống hiện tại tại Nhật Bản khá đắt đỏ và chi phí
hơn nhân cao khiến nhiều người trẻ tuổi có tâm lý ngại kết hơn.
Già hóa dân số và chính sách nhập cư khắt khe
Tại thế giới công nghiệp, tỷ lệ sinh giảm và dịch vụ chăm sóc y tế cải
thiện là nguyên nhân dẫn đến dân số lão hóa, khiến chính phủ các nước gặp
nhiều khó khăn trong việc tài trợ cho các hệ thống hưu trí trong thời gian dài.
Xu hướng này đã đạt tới mức cực đoan tại Nhật Bản, do tỷ lệ sinh thấp kỷ lục
cùng lối sống lành mạnh của người dân. Nhật Bản cũng là quốc gia có tỷ lệ
người cao tuổi trên dân số lớn nhất thế giới, 22%.
Vấn đề càng trở thêm nghiêm trọng khi Nhật Bản không chấp nhận giải
pháp mà một số quốc gia khác từng áp dụng: chấp nhận người nhạp cư trẻ từ
nước ngoài. Nhật Bản khá khắt khe trong chính sách nhập cư và rất khó để có
thể thực hiện các thủ tục nhập cư tại nước này.
Tuy nhiên, điều này khơng chỉ đem đến tương lai khó khăn cho hệ thống
hưu trí mà cịn khiến Nhật Bản bị mất đi nguồn nhân lực quý giá từ các quốc gia
khác như Mỹ, Tây Âu và Australia.
Một lý do nữa khiến kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó khăn chính là lịch sử
của nước này. Trong lịch sử hiện đại, Nhật Bản đã thực hiện hai sự thay đổi có
chọn lọc. Ví dụ mạnh mẽ nhất là thời Minh Trị Duy Tân năm 1868, trong đo
Nhật Bản thông qua hiến pháp mới, thành lập nội các chính phủ, quân đội, hệ
thống công nghiệp và ngân hàng theo phong cách châu Âu.
Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn giữ lại hoàng đế, ngơn ngữ và hệ thống chữ viết
cũng như văn hóa lâu đời. Do đó, Nhật Bản khơng chỉ bảo tồn được nền độc lập
mà còn trở thành một quốc gia châu Á đầu tiên sánh ngang hàng với phương
Tây về sự giàu có và quyền lực.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản đã có những thay đổi quyết liệt
từ bỏ quân sự và khái niệm hoàng đế cũ để tiến đến dân chủ và phát triển kinh tế
xuất khẩu.
Một lần nữa, Nhật Bản có thể chọn lọc để giữ lại giá trị cốt lõi, bỏ đi
những thứ vô nghĩa và giữ lại những gì có thể mang đến sức mạnh quốc gia.
Song cho đến nay, điều này dường như không thể xảy ra.
2.2.2. Nguyên nhân khách quan
16


Theo báo Wall Street Journal (WSJ), nền kinh tế Nhật là nạn nhân của thái
độ bài Nhật của khách hàng Trung Quốc do căng thẳng Trung - Nhật liên quan
đến tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Hàng xuất khẩu của Nhật Bản sang
Trung Quốc, đặc biệt là ô tô, đã sụt giảm nghiêm trọng... Khủng hoảng nợ khối
đồng euro cũng khiến xuất khẩu Nhật Bản sang châu Âu bị ảnh hưởng đáng kể.
Ngoài ra, giá đồng yên tăng cao khiến hàng hóa Nhật Bản càng trở nên
đắt đỏ ở thị trường nước ngồi. Các cơng ty điện tử lớn của Nhật Bản như Sony
và Panasonic lỗ nặng do không cạnh tranh được với các đối thủ nước ngoài như
Samsung (Hàn Quốc) và Apple (Mỹ). Tiêu dùng trong nước cũng giảm 0,5%.
Người tiêu dùng Nhật đã tằn tiện hơn do thiếu tin tưởng vào tương lai và lo ngại
thu nhập của họ giảm sút. Tác động của các chính sách tái thiết sau thảm họa
động đất - sóng thần năm ngối cũng đã mất đi.
Theo Reuters, giới quan sát dự báo viễn cảnh kinh tế Nhật Bản trong thời
gian tới là khá u ám. Khảo sát của Trung tâm nghiên cứu kinh tế Nhật cho thấy
GDP của Nhật sẽ tiếp tục giảm 0,1% trong quý IV/2012. Các nhà phân tích cho
rằng, do nợ cơng hiện q lớn, Chính phủ Nhật Bản khó có thể thực hiện một
gói kích thích kinh tế quy mô lớn. Nợ công của Nhật Bản hiện lên tới 983.300 tỉ
yên (12.400 tỉ USD) và có thể chạm ngưỡng 1 triệu tỉ yên vào cuối năm tài khóa
2012. Do đó, gói kích thích mà Thủ tướng Noda nhắc đến có thể sẽ chỉ ở quy
mơ nhỏ, khơng đủ sức kéo nền kinh tế tăng trưởng trở lại.

Điều đáng lo ngại là sự suy thối của Nhật có thể đẩy hàng loạt quốc gia
châu Á vào cảnh khó khăn do phụ thuộc vào thương mại và đầu tư từ Nhật Bản.
“Nhật Bản suy thoái sẽ kéo lùi nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là nền kinh tế châu
Á” - WSJ dẫn lời nhà kinh tế Toshihiro Nagahama thuộc Viện Nghiên cứu DaiIchi Life thừa nhận.
Khơng có "quyền tự quyết"
Nhà kinh tế Masamichi Adachi thuộc Hãng JP Morgan nhận định, hy
vọng duy nhất đối với nền kinh tế Nhật là nhu cầu ở Mỹ, Trung Quốc và châu
Âu tăng trở lại bởi kinh tế Nhật quá phụ thuộc vào xuất khẩu. Việc kích thích
tiêu dùng trong nước khơng đủ để Nhật thoát khỏi suy thoái. “Đáng buồn là
Nhật sẽ phải chờ các nền kinh tế nước ngoài phục hồi trước thì nền kinh tế nước
mình mới quay đầu trở lại” - chuyên gia Izumi Devalier thuộc Ngân hàng HSBC
đánh giá. Ông George Boubouras, chuyên gia thuộc Hãng UBS Wealth
Management cũng thống nhất quan điểm này và cho rằng, Nhật phải đợi các
17


nước, đặc biệt là Mỹ, tung ra các gói kích thích kinh tế và mong đợi kinh tế châu
Âu hết tồi tệ như hiện nay.

18


Chương 3
GIẢI PHÁP ĐỂ BÌNH ỔN NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1. Giải pháp
3.1.1. Giải pháp về kinh tế
Để bình ổn nền kinh tế thứ ba thế giới Từ biện pháp tình thế đến giải
pháp dài hạn: Để ngăn chặn đà tăng giá của đồng Yên, Chính phủ và ngân hàng
Trung ương Nhật Bản (BOJ) cần tiến hành các đợt can thiệp lớn vào thị trường.

Tuy nhiên, đợt can thiệp trong tháng 8.2011 thông qua bán đồng Yên, mua đồng
USD đã không mang lại kết quả. Vấn đề là hành động can thiệp đơn phương của
một chính phủ khơng thể đảo ngược xu hướng của thị trường, nhất là khi Nhật
Bản lại gặp khó khăn trong tìm kiếm sự hợp tác của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
(FED), bởi Mỹ đang tìm cách hỗ trợ nền kinh tế ốm yếu của nước này bằng cách
tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu nhờ làm giảm giá đồng USD. Lần can thiệp
gần đây nhất của Chính phủ Nhật Bản vào thị trường tiền tệ là vào ngày 31.10
vừa qua. Đây là đợt bán đồng nội tệ lần đầu tiên kể từ tháng 8.2011 và là lần thứ
ba trong năm nay của Nhật Bản để hạ nhiệt tỷ giá đồng Yên. Sau khi BOJ công
bố số liệu cho thấy mức tăng rịng 7,86 nghìn tỷ n trong cán cân tài khoản
vãng lai, giới phân tích thị trường ước tính Bộ Tài chính và BOJ đã chi 8 nghìn
tỷ Yên (102 tỷ USD) mua USD trong lần can thiệp này, làm cho giá đồng Yên
đứng ở mức 79 JPY/USD so với mức cao kỷ lục 75,3 1 JPY/USD.
Trong khi đó, với tỷ lệ nợ cơng đã vượt 200% GDP, rõ ràng Nhật Bản cần
phải thực thi một chiến lược rõ ràng để đảm bảo sự bền vững về tài chính. Trong
bối cảnh này, IMF hoan nghênh “Chiến lược quản lý tài chính trung hạn” mà
Chính phủ Nhật Bản thơng qua năm 2010, trong đó đặt mục tiêu giảm một nửa
mức thâm hụt ngân sách cơ bản vào tài khóa 2015 và đạt được thặng dư cơ bản
muộn nhất là vào tài khóa 2020. Bên cạnh đó, đề xuất tăng gấp đôi thuế tiêu
dùng lên mức 10% vào giữa thập kỷ 2010 của Chính phủ Nhật Bản cũng là một
bước đi quan trọng hướng tới củng cố nền tài chính cơng.
Việc tiến hành một chiến lược thống nhất và mạnh mẽ để ổn định tình
hình tài chính cơng của Nhật Bản đang ngày càng cấp thiết hơn, khi cuộc khủng
hoảng nợ cơng ở châu Âu có thể là lời cảnh báo đối với nước này. Các nền kinh
tế phát triển có quy mơ lớn khơng thể miễn dịch trước những thay đổi mạnh mẽ
trong tâm lý thị trường và một khi cuộc khủng hoảng nổ ra sẽ rất khó ngăn chặn.
19


Nỗ lực giảm tỷ lệ nợ công sẽ phụ thuộc rất lớn vào các biện pháp tăng nguồn

thu, khi không có nhiều giải pháp để cắt giảm chi tiêu trong lúc tỷ lệ chi tiêu phi
an sinh xã hội của Nhật Bản trong tổng GDP là thấp nhất trong OECD.
Tuy nhiên, để củng cố nền tài chính, Nhật Bản cũng cần phải tiến hành cải
cách cơ cấu để thúc đẩy tăng trưởng như đẩy mạnh tự do hóa thương mại, cải
cách thị trường lao động và khuyến khích khởi nghiệp. Việc đẩy mạnh tự do hóa
thương mại như tham gia Hiệp định đối tác xuyên phải Bình Dương (TPP) sẽ
giúp Nhật Bản tăng kim ngạch đồng thời mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu,
thậm chí có thể thâm nhập các thị trường đang được bảo hộ.
3.1.2. Giải pháp chịnh trị
Như chúng ta đã biết trong những năm gần đây chính trường Nhật Bản đã
trải qua nhiều phen sóng gió, chỉ trong vòng chưa đầy 6 năm sau khi nhiệm kỳ
của Thủ tướng Koizumi kết thúc (2001 – 2006), nước Nhật đã phải đối mặt với
hàng loạt biến đổi chính trị với sự ra đi của 5 đời thủ tướng cùng nội các và liên
tục thay đổi lãnh đạo của các chính Đảng cầm quyền. Mỗi người mới lên lại đưa
ra cam kết cải tổ. Nhưng những đề xuất tuyên bố với hy vọng tạo ấn tượng lớn
lại "bị chìm" trong hệ thống chính trị của Nhật. Nhiệm kỳ cuối cùng của đảng
LDP do Thủ tướng Taro Aso nắm quyền đã hoàn toàn thất bại trong việc giải
quyết ba vấn đề mà người dân Nhật Bản đặc biệt quan tâm là: kế hoạch cải cách
hệ thống ngân hàng Tokyo; điều chỉnh địa ốc và cải tổ ngành bưu chính. Uy tín
của ơng giảm sút nghiêm trọng và cũng buộc phải rút lui khỏi chính trường
trong vịng chưa đầy một năm tại nhiệm. Vì vậy cần có một giải pháp cho chính
trị Nhật bản trong thời gian này, có một sự thống nhất về mặt chính trị giữa các
đảng phái.
3.1.3. Giải pháp về xã hội
Trong khi đó, Nhật Bản cũng cần có những điều chỉnh đối với thị trường
lao động như tăng tuổi nghỉ hưu, nhằm tăng số lao động lớn tuổi trong lực lượng
lao động ở một đất nước mà dân số đang bị già hóa.
Khi xem xét lĩnh vực phúc lợi xã hội cần phải đề cập đến những mâu
thuẫn, yếu kém và những khó khăn cũng như thách thức đang đặt ra đối với
Nhật Bản trong lĩnh vực này. Dù đã gặt hái khơng ít kết quả, song nhìn chung

phúc lợi xã hội ở nước này vẫn cịn là vấn đề bức bách. Nhu cầu ngày một tăng
của nhân dân địi hỏi chính phủ ln phải có các hình thức và mức độ áp dụng
phù hợp
20


Giải quyết phúc lợi xã hội ở bất kỳ nước nào cũng đều chịu sự chi phối
bởi nhiều yếu tố, song khi nói đến vấn đề này ở Nhật Bản không thể không đề
cập đến những ảnh hưởng truyền thống phương Đông. Điều này thể hiện rất rõ
từ quan niệm, phương thức tiến hành, đến các hình thức đa dạng và sự vận dụng
cụ thể ở từng địa phương, cộng đồng.
3.2. Bài học kinh nghiệm
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ, mối quan hệ
rằng buộc kinh tế giữa các nước khác nhau ngày càng cao, bất kỳ một biến động
của sẽ tác động tới nước khác. Tuy không nằm trong trung tâm của cuộc khủng
hoảng , song kinh tế Việt nam vẫn chịu tác động của cuộc khủng hoảng ở Nhật
bản. Có thể nói đây là làn đầu tiên nước ta phải đối mặt với tác động trược tiếp
của cuộc khủng hoảng bên ngoài vì trước đây khi nước ta là thành viên của hội
đồng tương trợ kinh tế SEV thì hầu như được “miễn dịch” đối với những biến
động của nền kinh tế và khu vực. Trong tình hình ấy điều cần thiết là phải dự
báo những tác động của cuộc khủng hoảng để có những biện pháp ngăn chặn,
hạn chế tác động, rút ra những bài học cần thiết để tránh những sai lầm của các
nước “lâm nạn”
Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam cũng như đối với các nước khác là:
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội việc phát huy hay nhận dạng của quy
luật, những xu thế phát triển là hết sức quan trọng và có ý nghĩa chiến lược. Để
làm được điều này điều quan trọng là phải phân tích tình hình một cách tồn
diện, cặn kẽ dưới nhiều chiều hướng, góc độ khác nhau
Từ hập kỉ 70 trở lại đây, thế giới đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, đặc
biêt trong thập kỉ 90 dưới tác động của tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, mức độ

nghiêm trọng cũng như quy mô, phạm vi lây lan của các cuộc khủng hoảng ngày
càng lớn. Việc phân tích nguyên nhân, tính chất của các cuộc khủng hoảng giúp
chúng ta nhận biết được dấu hiệu sẽ dẫn tới cuộc khủng hoảng , có thể nói đây là
một hạn chế của các nước khủng hoảng trong các cuộc khủng hoảng vừa qua.
Nếu các nước làm tốt điều này, phát hiện sớm những dấu hiệu của cuộc khủng
hoảng thì có thể có những biện pháp ngăn chặn, khủng hoảng xảy ra hoặc ít nhất
cũng hạn chế được mức độ lây lan, kéo dài của cuộc khủng hoảng
Bài học của Nhật bản trong thời gian vừa qua cho thấy các nhà hoạch định
chính sách đã khơng thấy được những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng sắp xảy
ra
21


Cuộc khủng hoảng đem lại bài học quý giá đối với Việt nam là chiến lược
kinh tế là phải hướng tới đảm bảo muc tiêu tăng trưởng bền vững, tránh tình
trạng tăng trưởng q nóng, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định trong tương lai. Tóm
lại cuộc khủng hoảng ở nhật bản vừa qua đã đem lại cho Việt nam cũng như các
nước khác bài học kinh nghiệm quý giá. Khi khủng hoảng xảy ra cần phải độc
lập suy nghĩ, vận động tổng hợp cá biện pháp kinh tế, chính trị xã hội để giải
quyết. Điều quan trọng hơn cả là phải biết dựa vào phát huy tối đa nội lực của
mình tránh phụ thuộc vào bên ngồi . Vận mệnh của một đất nước phải được
giải quyết bởi nước đó.

22


C. KẾT LUẬN
Cách đây hơn 20 năm, Nhật Bản vẫn được coi là mơ hình mới về kinh
tế, đại diện cho cái được gọi là chủ nghĩa tư bản thế giới trong tương lai.
Thế nhưng, giờ đây Nhật Bản đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh

tế ngày càng gay gắt, điều này càng chứng tỏ những lời khẳng định nói rằng
Trung Quốc và các “thị trường mới nổi” khác có thể là một cơ sở cho sự ổn định
nền kinh tế thế giới, là khơng có cơ sở.
Theo những số liệu thống kê chính thức, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới,
sau Trung Quốc và Mỹ, nay đã suy giảm 3,5% trong năm qua. Hiện nay, Nhật
Bản đang phải đối mặt với khả năng suy thoái – được xác định là tăng trưởng
âm trong hai quí liên tiếp – lần thứ 5 trong 15 năm qua.
Sự suy giảm trong quí vừa qua là sự suy giảm lần thứ 7 kể từ khi ngân
hàng Lehman Brothers bị sụp đổ vào tháng 9/2008 và từ khi bắt đầu cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới. Cần lưu ý rằng sự suy giảm 0,9% trong quí vừa qua chủ
yếu là do sự suy giảm 0,8% thu nhập từ xuất khẩu, mà Nhật Bản luôn phụ thuộc
trong lịch sử thời hậu chiến tranh của mình.
Trong hai thập kỷ qua, nạn suy thối đã trở thành “sự bình thường mới”
của nền kinh tế Nhật Bản. Nhưng sự suy giảm mới đây còn nặng nề hơn những
sự suy giảm trước đó, bởi vì đây là lần đầu tiên kể từ khi các con số thống kê
này bắt đầu được tập hợp lại vào năm 1985, đất nước này vào quí 3/2012 đã trải
qua một sự thâm hụt tài khoản vãng lai ước chừng bằng làn sóng tiền vào và ra
khỏi nước này.
đó đã trượt dần tới sự suy thoái. Hậu quả là tổng sản phẩm quốc nội(GDP)
của Nhật Bản đã giảm. Năm 2011, GDP của nước này là 537.000 tỷ yên, bằng
năm 2005. Nếu tính cả lạm phát thì nền kinh tế Nhật Bản năm ấy chỉ bằng năm
1993.
Rõ ràng là tình hình kinh tế Nhật Bản hiện nay trở nên nghiêm trọng hơn
do cuộc khủng hoảng ở Mỹ, châu Âu và phần còn lại của thế giới, đang rất sâu
sắc, ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu của Nhật Bản, rồi từ đó ảnh hưởng đến
việc tài trợ cho các khoản nợ cơng. Nếu so với GDP, Nhật Bản có tỷ lệ nợ công
cao nhất thế giới: Nợ công của Mỹ là khoảng 100% GDP; Italy: 120%; Hy Lạp:
là 230%, hơn tổng số nợ của tất cả 17 nước thành viên uErozone cộng lại...

23



1.
2.
3.
4.
5.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
/>%A3ng_kinh_t%E1%BA%BF_(Marx)
/> /> />một số tài liệu ở thư viện trường Đại học Vinh

24


×