Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thừa kế trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.74 KB, 32 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, hiện tượng xung đột pháp luật ngày càng gia tăng do nhiều
ngun nhân như tồn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế, lưu
thơng hàng hóa và hiện tượng di cư... Những nhân tố này tất yếu làm nảy sinh
các vấn đề đặc thù trong pháp luật về thừa kế.
Sự không trùng nhau giữa nơi người để lại di sản chết và nơi có tài sản,
hoặc giữa nơi có tài sản và nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, là
những yếu tố chính làm phát sinh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Người hoạt động thực tiễn về pháp luật sẽ gặp phải tình huống có nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau cùng được áp dụng. Đối với một vụ thừa kế, nếu như
cơ quan tư pháp của hai hay nhiều nước được yêu cầu can thiệp trong việc kiểm
tra di chúc, xác định phạm vi quyền của người thực hiện di chúc là người nước
ngồi, v.v., thì chắc chắn sẽ có nhiều hệ thống pháp luật có thể được áp dụng.
Bởi vì khơng chỉ các yếu tố làm căn cứ xác định thẩm quyền xét xử có thể khác
nhau (nơi có tài sản, nơi cư trú của người để lại di sản, vv…...) mà các yếu tố
được sử dụng để xác định luật áp dụng cũng khác nhau: quốc tịch của người để
lại di sản, nơi cư trú của người để lại di sản, nơi có tài sản.
Bên cạnh đó, các phương thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế
cũng rất đa dạng: một số nước cho phép áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối
với một quan hệ thừa kế (luật nơi có tài sản đối với bất động sản; luật nơi cư trú
hoặc luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch đối với động sản);
một số nước khác lại chỉ cho phép áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất
đối với quan hệ thừa kế, là luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch
hoặc luật nơi cư trú của người để lại di sản.
Hơn nữa, phạm vi các vấn đề chịu sự điều chỉnh của pháp luật được dẫn


2



chiếu cũng khác nhau giữa các nước: ở các nước theo hệ thống common law,
pháp luật được dẫn chiếu để điều chỉnh quan hệ thừa kế không được áp dụng
đối với vấn đề quản lý hoặc chuyển giao tài sản sản thừa kế, vì các vấn đề này
chủ yếu chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước nơi có tịa án giải quyết vụ
việc. Ngồi ra, giữa các nước cũng cịn nhiều khác biệt lớn về các chính sách
pháp luật trong nước, nhất là chính sách liên quan đến việc bảo vệ những người
có quan hệ họ hàng, huyết thống với người để lại di sản, hoặc liên quan đến một
số tài sản.
Trong trường hợp cho phép áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với
cùng một quan hệ thừa kế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc dự kiến và ý
nguyện của người để lại di sản không được tơn trọng và từ đó nảy sinh sự bất
bình đẳng (Phần I). Trên thực tế, giữa những người thừa kế thường có sự thỏa
thuận để giải quyết những khó khăn lớn nảy sinh. Làm thế nào để tránh xảy ra
tình trạng này? Giải pháp áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất cho quan
hệ thừa kế sẽ giúp cải thiện đáng kể tình hình, nhất là khi hệ thống pháp luật đó
là do người lập di chúc lựa chọn. Dù sao, chúng cũng cần xem xét một số vấn
đề thực tiễn liên quan đến di chúc có yếu tố nước ngồi và thu thập chứng cứ,
chính vì vậy mà tôi chọn đề tài” Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ
thừa kế trong tư pháp quốc tế”, thực trạng và giải pháp.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Thừa kế là một khái niệm rộng, còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Đặc biệt,
trong giai đoạn tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động như hiện nay thì vấn
đề thừ kế càng trở nên phức tạp và đa dạng
Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của một bài tiểu luận tôi chỉ nghiên
cứu những vấn đề cơ bản:
Thứ nhất: Phân tích cơ sở lí luận về thừa kế trong tư pháp quốc tế
Thứ hai: Đi vào tìm hiểu thực trạng thừa kế trong tư pháp quốc tế



3

B. NỘI DUNG
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ THỪA
KẾ TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1.

Khái niệm về xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế

1.1.

Khái niệm thừa kế trong tư pháp quốc tế

Thừa kế là một trong những chế định quan trọng của dân luật các nước và
cũng là một chế định quan trọng trong tư pháp quốc tế. Chế định thừa kế có mối
quan hệ gắn bó hết sức chặt chẽ với chế định sở hữu. Sự gắn bó đó biểu hiện ở
chỗ việc để thừa kế và hưởng thừa kế sẽ dẫn đến vấn đề chuyển quyền sở hữu từ
người để thừa kế cho người được thừa kế hưởng quyền thừa kế chỉ có thể là đối
tượng của sở hữu.
1.2.

Xung đột pháp luật về thừa kế trong tư pháp quốc tế

Về nguyên tắc, các quan hệ nãy sinh trong lĩnh vực thừa kế trong phạm vi
quốc gia nào do pháp luật về thừa kế của quốc gia nào đó do pháp luật về thừa
kế của quốc gia có điều chỉnh. Mỗi quốc gia đều có quyền ban hành các quy tắc
giải quyết các vấn đề liên quan đến thừa kế trong phạm vi lãnh thỗ nước mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển thì
nhiều quan hệ về thừa kế đã vượt ra khỏi phạm vi điềuchỉnh của hệ thống pháp
luật một nước. Đó là những quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài. Những

quan hệ này thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế và thường nảy sinh
trong các trường hợp như: Khi người để lại thừa kế và người hưởng thừa kế mà
tài sản đang ở nước ngoài; khi di chúc được lập ở nước ngoài, theo pháp luật
nước ngoài.
Như vậy khác với thừa kế trong dân luật, thừa kế trong tư pháp quốc tế có
đối tượng điều chỉnh là các quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài
Ngày nay, do nhiều nguyên nhân lịch sử khác nhau, các vụ việc về thừa kế
có yếu tố nước ngoài phát sinh trong đời sống quốc tế ngày càng phát triển đa


4

dạng, phong phú và phức tạp. Giải quyết tốt các vụ việc này có tầm quan trọng
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân các nước khác nhau,
đồng thời góp phần vào sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
Do dựa trên các chế độ sở hữu không giống nhau và do ảnh hưởng về
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo ở mỗi nước…
cho nên việc thừa kế có yếu tố nước ngồi có cách giải quyết khác nhau thể hiện
ngay trong việc xác định nguyên tắc hưởng thừa kế và cơ chế hưởng thừa kế.
Trước hết, pháp luật của các nước quy định khác nhau về diện thừa kế, hàng
thừa kế, về định danh tài sản thừa kế, về tính hợp pháp của di chúc…. Thí dụ về
diện thừa kế theo pháp luật, pháp luật có nước quy định đối tượng rộng ( có thể
cả cháu họ của người chết để lại di sản) pháp luật có nước lại quy định đối tượng
hẹp và khơng phân ra hàng thừa kế. Hoặc về hình thức di chúc, pháp luật của đại
đa số các nước quy định di chúc phải được thể hiện dưới hình thức viết và được
cơ quan có thẩm quyền ( chẳng hạn cơ quan công chứng) xác nhận mới hợp lệ,
nhưng pháp luật một số nước quy định di chúc phải do chính người để lại di sản
trực tiếp viết mà không cần phải có sự xác nhận của bất cứ cơ quan nào…
Như vậy, do có sự quy định khác nhau giữa pháp luật các nước, cho nên
dẫn đến xung đột pháp luật trong giải quyết các vụ việc về thừa kế có yếu tố

nước ngồi.
2.

Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế qua các điều ước quốc tế

giữa các nước trên thế giới
Quá trình phát triển giao lưu dân sự quốc tế đã dẫn tới việc các nước ký
kết hàng loạt điều ước nhằm tạo ra các nguyên tắc chung giải quyết các vấn đề
thừa kế có yếu tố nước ngồi. Những điều ước này có thể là đa phương hay song
phương được ký kết giữa các nước với nhau.
Trong số các điều ước đa phương, trước hết phải kể đến công ước La –
Hay năm 1900. Đây là công ước đầu tiên có mục đích thống nhất hóa ngun
tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế. Theo quy định của công ước này,


5

luật được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngồi (kể cả
đối tượng động sản và bất động sản) là luật nhân thân của người để lại di sản
thừa kế và cụ thể là luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế
Nguyên tắc trên còn được ghi nhận trong hàng loạt công ước La – Hay
tiếp theo như các công ước năm 1904, công ước năm 1925…
Tuy nhiên, trên thực tế, công ước La – Hay năm 1900 cũng như các cơng
ước khác cho đến nay vẫn chưa có hiệu lực pháp luật, bởi vì trong lĩnh vực thừa
kế, quyền lợi của các nước tư bản luôn va chạm nhau gay gắt. Một nguyên tắc
thống nhất được đề ra để giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngồi như
cơng ước La – Hay năm 1900 đã ghi nhận có thể thuận lợi và dễ chấp nhận với
nước này, với nhóm nước này, nhưng khó chấp nhận với nước khác, với nhóm
nước khác. Đặc biệt là đối với các nước từ trước đến nay áp dụng một nguyên
tắc khác hẳn mà công ước đề ra để giải quyết xung đột pháp luật. Nguyên tắc

luật nơi cư trú chẳng hạn. Ngồi ra, cịn phải nói rằng, ngun tắc do công ước
La – Hay năm 1900 đề ra trên thực tế ở một số điểm nào đó khơng đáp ứng được
nhu cầu phát triển giao lưu dân sự quốc tế hiện nay và chưa phù hợp với quá
trình quốc tế hóa nền kinh tế tư bản.
Về hình thức di chúc, phải kể đến công ước La – Hay năm 1961, sự mềm
hóa các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về hình thức di chúc đã được
thể hiện trong nội dung cơng ước này. Chính điều đó đã lôi cuốn được nhiều
nước tham gia.
Theo quy định của công ước La – Hay năm 1961 hình thức di chúc sẽ có
giá trị pháp lý nếu nó thỏa mãn các yêu cầu của một trong số các hệ thống pháp
luật sau.
- Luật nơi lập di chúc
- Luật quốc tịch của người lập di chúc vào thời điểm lập di chúc hoặc vào
lúc người đó chết.


6

- Luật nơi cư trú của người lập di chúc vào thời điểm lập di chúc hoặc
vào lúc người đó chết
- Đối với di chúc về bất động sản còn có thể áp dụng luật nơi có bất động
sản
Ngồi các điều ước đa phương, các nước trên thế giới đã ký với nhau
hàng loạt các điều ước song phương như: Các hiệp định hợp tác và tương trợ tư
pháp về dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động và hình sự, các hiệp định lãnh
sự… nhằm thống nhất các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế
một cách kịp thời, hợp lý và có hiệu quả. Nói chung, đa số các hiệp định này ghi
nhận việc phân chia di sản thừa kế thành động sản và bất động sản và áp dụng
luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế để giải quyết các vấn đề động sản,
cịn đối với bất động sản thì áp dụng luật nơi có bất động sản đó. Tuy nhiên,

trong một số hiệp định có những quy định bổ sung. Chẳng hạn trong hiệp định
hợp tác và tương trợ pháp lý giữa Liên Xô với các nước như Áo và Phần Lan
quy định luật nơi có vật cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề thừa
kế động sản nếu như những người thừa kế yêu cầu.
Để điều chỉnh các quan hệ về thừa kế theo di chúc nguyên tắc chủ yếu
được ấn định trong các hiệp định này là luật nhân thân của người lập di chúc.
Ngồi ra, các hiệp định cịn ghi nhận các nguyên tắc khác nữa như: Luật nơi
người đó lập di chúc, luật nơi có bất động sản nếu di chúc về bất động sản… để
xác định hình thức hợp pháp của di chúc.
3. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngồi theo
pháp luật hiện nay
Trước ngày 01 tháng 01 năm 2006, các vấn đề liên quan đến giải quyết vụ
việc về thừa kế có yếu tố nước ngoài được đề cập trong một số điều của bộ luật
Dân sự năm 1995 và Quyết định số 122/CP của Chính phủ. Các quy định của hai
văn bản nói trên đã xác định nguyên tắc chung là Nhà nước Việt Nam bảo đảm
người nước ngoài được hưởng quyền thừa kế đối với di sản thừa kế có trên lãnh


7

thỗ Việt Nam để lại và việc thừa kế của cơng dân Việt Nam đối với tài sản ở
nước ngồi cũng được phép và bảo hộ
Tuy nhiên, pháp luật nước ta thời kì đó mới chỉ đề cập trên ngun tắc
chung nhất, còn thiếu những quy định chi tiết, đặc biệt là các quy phạm xung đột
để làm cơ sở giải quyết đối với những vụ việc cụ thể về thừa kế có yếu tố nước
ngồi.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2006, chế định về thừa kế có yếu tố nước
ngoài đã được quy định trong Phần thứ bảy của Bộ luật dân sự nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005,
Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995.

Trong bộ luật dân sự năm 2005 đã có quy định để điều chỉnh vấn đề thừa
kế có yếu tố nước ngồi.
Về thừa kế theo pháp luật, Điều 761 Bộ luật dân sự quy định: “Thừa kế
theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế
có quốc tịch trước khi chết”. Như vậy, theo quy định trên thì di sản thừa kế là
động sản, pháp luật Việt Nam đã áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của người để
lại di sản để giải quyết
Đối với di sản là bất động sản, khoản 2 điều 767 Bộ luật dân sự quy định:
“Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có
bất động sản”
Về thừa kế theo di chúc, khoản 1 Điều 768 Bộ luật dân sự quy định:
“Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của
nước mà người lập di chúc là công dân”. Cịn về hình thức của di chúc phải tn
theo pháp luật của nước nơi lập di chúc ( khoản 2 Điều 768 Bộ luật dân sự)
Nhà nước ta bảo đảm quyền thừa kế và quyền bình đẳng về thừa kế; mỗi
cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa
kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật ; mọi cá nhân


8

đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đây là những nguyên tắc chung về lĩnh
vực quyền thừa kế cũng được áp dụng đối với các trường hợp khi các quan hệ
đó có yếu nước ngồi và mặc nhiên có nghĩa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
ngĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có
trên lãnh thỗ Việt Nam, Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, do chế định
về quyền sở hữu có quy định khác nhau giữa địa vị pháp lý của người Việt Nam
với người nước ngoài, cho nên quyền thừa kế của người nước ngồi cũng có
khác với quyền thừa kế của cơng dân Việt Nam. Thí dụ, đối với việc thừa kế đối

với quyền sử dụng đất ( theo điều 181 Bộ luật dân sự thì quyền sử dụng đất được
hiểu là quyền tài sản, do vậy nó là đối tượng quyền sở hữu và cũng là đối tượng
quền thừa kế và để lại quyền thừa kế, trong đó đối với người nước ngồi thì vấn
đề thừa kế quyền sử dụng đất không đặt ra
Về việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài sản ở nước ngồi, pháp
luật của nước ta khơng có các quy định cấm mà trên thực tế Nhà nước ta cho
phép và bảo hộ công dân Việt Nam hiện đang cư trú trong nước được nhận các
di sản thừa kế mà người thân của họ để lại ở nước ngoài.
Đối với việc thừa kế theo di chúc của công dân Việt Nam ở nước ngoài,
Điều 660 Bộ luật dân sự quy định những di chúc bằng văn bản dưới đây cũng có
giá trị như di chúc được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn chứng thực
Theo nội dung của bộ luật này thì người lập di chúc đang đi trên tàu biển,
máy bay, kể cả những lúc các phương tiện đó đã ra ngồi phạm vi lãnh thổ Việt
Nam có thể yêu cầu người chỉ huy phương tiện đó chứng thực di chúc được lập
tại thời điểm đó trong hồn cảnh người lập di chúc đang đứng trước cái chết gần
kề. Khi ở nước ngoài, người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan đại diện ngoại
dao hoặc lãnh sự Việt Nam ở nước ngồi chứng thực di chúc. Người lập di chúc
có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản di chúc nhưng người lập di chúc


9

phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người chỉ huy phương tiện tàu biển, máy bay,
hoặc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan đại diện ngoại dao
hay lãnh sự. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không
nghe được bản di chúc, không ký hoặc điểm chỉ được thì phải nhờ người làm
chứng ký xác nhận trước mặt người chỉ huy tàu biển, máy bay hoặc người có
trách nhiệm đại diện cơ quan ngoại dao hay lãnh sự, tiếp đó những người này ký
chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Đối với những trường hợp nếu cơng dân Việt Nam lập di chúc ở nước
ngồi theo pháp luật của nước ngồi, thì các di chúc này được coi là hợp pháp
nếu luật nước ngoài được áp dụng để lập di chúc không trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chũ nghĩa Việt Nam(khoản 3 Điều 759 Bộ
luật dân sự)
Một trong những nội dung quan trọng là Bộ luật dân sự nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những quy định nguyên tắc chung áp dụng điều
ước quốc tế và pháp luật nước ngoài đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi, trong đó có các quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài (điều 759 Bộ
luật dân sự)
4. Vấn đề “di sản không người thừa kế “trong tư pháp quốc tế
Một trong những vấn đề phức tạp và luôn được chú ý của tư pháp quốc tế
là vấn đề “di sản không người thừa kế” Trong thực tiễn, khi áp dụng luật thực
chất của một nước do quy phạm xung đột dẫn chiếu để điều chỉnh quan hệ thừa
kế, có thể nảy sinh trường hợp: Sau cái chết của một công dân khơng có ai là
người hưởng tài sản của người đó để lại. Vậy số phận của di sản này sẽ được
giải quyết như thế nào?
Theo luật thực chất về thừa kế của hầu hết các nước trên thế giới, đối với
trường hợp trên thì di sản đó sẽ thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, trong các hệ
thống pháp luật khác nhau, tính chất của quy định này có sự khác nhau


10

Ở một số nước như Nga, Hunggari, Tây Ban Nha, Itali…nhà nước hưởng
số di sản thừa kế với tư cách là người thừa kế.Ở một số nước khác như Anh, Mĩ,
Pháp…nhà nước hưởng số di sản này như là tài sản vô chủ trên cơ sở chiếm hữu
thực thi các tài sản vơ chủ đó. Chính sự khác nhau trong các quy định này của
luật thức chất đã dẫn tới các quyết định khác nhau về số phận của tài sản “
không người thừa kế”. Cụ thể khi công dân của một nước cư trú và chết trên

lãnh thổ của các nước kia để lại di sản trên lãnh thổ nước đó hay có thể ở một
nước thứ ba nào khác thì có hai trường phái giải quyết như sau: Đối với những
quốc gia áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế và số
phận của di sản trên.Nếu luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế quy định
rằng, nhà nước sẽ hưởng số di sản này phải chuyển giao cho nhà nước mà người
để lại di sản thừa kế mang quốc tịch. Nhưng nếu luật này quy định rằng, nhà
nước sẽ ảnh hưởng số di sản trên phải chuyễn giao cho nhà nước nơi người đó
chết hoặc cho nhà nước nơi hiện có số di sản thừa kế. Đối với những nước áp
dụng nguyên tắc luật nơi cư trú của người để lại di sản thừa kế để giải quyết, nếu
luật nước đó quy định rằng. Nhà nước hưởng số di sản với tư cách là người thừa
kế thì số di sản phải chuyển giao cho nhà nước nơi người đó cư trú vào lúc
người đó chết. Nhưng nếu quy định rằng, Nhà nước hưởng số di sản này trên cơ
sở tực thi chiếm hữu tài sản vơ chủ thì số di sản nói trên phải chuyển giao cho
Nhà nước nơi hiện có di sản.
Ở việt nam, từ trước đến nay, quan điểm thống nhất là:Quyền của nhà
nước hưởng số di sản vì lý do nào đó khơng có người thừa kế do công dân Việt
Nam để lại quyền dân sự, quyền thừa kế cho Nhà nước Việt Nam.Quan đểm này
thể hiện cụ thể trong Điều 644 Bộ luật dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa việt Nam: “ trong trường hợp khơng có người thừa kế theo di chúc, theo
pháp luật hoặc có nhưng khơng được quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng
di sản thì di sản khơng có người nhận thừa kế thuộc về nhà nước”.
Căn cứ vào nội dung quy định trên, về mặt nguyên tắc, quyền thừa kế của


11

Nhà nước Việt Nam không chỉ giưới hạn đối với các di sản “ không người thừa
kế “của công dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam mà còn đối với các di sản
này của công dân Việt Nam chết đi để lại ở lại nước ngoài. Trong mọi trường
hợp, khi pháp luật Việt Nam được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ thừa kế thì

số di sản này phải thuộc về Nhà nước Việt Nam với tư cách là người thừa kế, kể
cả những trường hợp pháp luật của nước nơi cơng dân Việt Nam chết hoặc nơi
có di sản thừa kế đó quy định khác.
Theo Điều 27 pháp lệnh lãnh sự của Việt Nam thì trong trường hợp công
dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự chết đi mà di sản khơng có người thừa kế lãnh
sự nhận và chuyển di sản đó cho cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền.
Việc giải quyết số phận của “ di sản không thừa kế ”
Khoản 2 Điều 767 Bộ luật dân sự quy định: “Di sản không có người thừa
kế là bất động sản thuộc về nhà nước nơi có bất động sản” cịn “ di sản khơng có
người thừa kế là động sản thuộc về nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có
quốc tịch trước khi chết”(khoản 4 Điều 767 Bộ luật dân sự)
Ngoài các quy định của pháp luật, vấn đề “ di sản khơng người thừa kế”
cịn được giải quyết thơng qua các hiệp định tương trợ tư pháp dân sự, hơn nhân
– gia đình và hình sự ngồi. Đây là các giải quyết vấn đề nhanh chóng nhất,
thuận lợi nhất giữa các bên hữu quan. Bỡi vì các hiệp định này chứa đựng các
quy phạm thực chất thống nhất, trực tiếp giải quyết vấn đề “ di sản khong người
thừa kế ’’ mà không cần phải thông qua bất kỳ hệ thống pháp luật nào. Trong 7
hiệp định được ký kết với Đức, Nga, Séc, Cu Ba, Hungari, về thừa kế của các
nước ký kết mà khơng cịn người nào thừa kế thì động sản sẽ được giao cho
nước ký kết mà khơng cịn người nào thừa kế thì động sản sẽ được giao lại cho
nước ký kết mà người để lại di sản là cơng dân khi chết, cịn các bất động sản thì
thuộc về nước ký kết nơi có bất động sản.
Như vậy, trong trường hợp nếu cơng dân Việt Nam chết trên lãnh thỗ của
một nước trong 7 nước kể trên và nếu luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ


12

thừa kế xác định rằng, di sản do công dân Việt Nam để lại khơng cịn người thừa
kế thì sẽ giải quyết như sau: các di sản là động sản chuyển giao cho nhà nước

nơi có bất động sản .
Vấn đề phân định động sản và bất động sản và bất động sản sẽ căn cứ vào
nguyên tắc chung ghi nhận trong 7 hiệp định này là: Luật của nước nơi có di sản
thừa kế là luật áp dụng để phân biệt động sản và bất động sản


13

CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ TRONG TƯ
PHÁP QUỐC TẾ
II.1. ÁP DỤNG NHIỀU HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI MỘT
QUAN HỆ THỪA KẾ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
II.1.1. Lý do áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa
kế
Trong nội luật của các quốc gia có hai quan điểm chính về thừa kế. Theo
quan điểm thứ nhất, quan hệ thừa kế là quan hệ nhân thân giữa người để lại di
sản và người thừa kế. Do đó, các quy phạm pháp luật tập trung vào yếu tố nhân
thân của người để lại di sản và di sản được coi như một khối tài sản. Quan điểm
thừa kế mang tính nhân thân này được thể hiện trong tư pháp quốc tế bằng việc
áp dụng một hệ thống pháp luật duy nhất đối với quan hệ thừa kế. Quan điểm
thứ hai, chủ yếu ở các nước theo hệ thống common law, thì có cách tiếp cận
mang tính thực tiễn hơn, theo đó thừa kế là một phương thức chuyển giao tài
sản. Theo quan điểm này, các quy phạm pháp luật tập trung vào các hành vi lần
lượt tác động đến mỗi tài sản, xảy ra suốt trong quá trình chuyển giao tài sản đó.
Trong tư pháp quốc tế, quan điểm thừa kế mang tính tài sản được thể hiện bằng
việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với một quan hệ thừa kế (cơ chế chia
nhỏ quan hệ thừa kế), bởi lẽ người ta cố gắng tuân theo nguyên tắc áp dụng luật
nơi có tài sản vì đó là pháp luật điều chỉnh thực sự mỗi loại tài sản.
Thực ra, trong số các cách tiếp cận trên, khơng có cách tiếp cận nào phát

triển một cách triệt để. Chẳng hạn như ở các nước theo quan điểm áp dụng một
hệ thống pháp luật duy nhất, người ta vẫn chấp nhận trường hợp ngoại lệ nếu tài
sản thừa kế là bất động sản, bởi vì phải căn cứ trên cơ sở thực tiễn và hơn nữa,
luật nơi có tài sản vẫn có quyền kiểm sốt tài sản đó. Điều 83 mục 3a Bộ luật
Dân sự Việt Nam (sửa đổi) thể hiện rất rỏ xu hướng này. Thực vậy, khoản 1


14

Điều này quy định quyền thừa kế (ngầm hiểu là thừa kế động sản) chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước có người để lại di sản là cơng dân; trong khi theo quy
định tại khoản 3 Điều này, "quyền thừa kế đối với bất động sản (giả định rằng
việc chuyển dịch tài sản cũng áp dụng cơ chế như vậy) phải tuân theo pháp luật
của nước nơi có bất động sản. Tương tự như vậy, nhìn chung các nước cho phép
áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với một quan hệ thừa kế cũng không đi
đến mức chấp nhận áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản đối với thừa kế động
sản, do cách tiếp cận này thường dẫn đến những rắc rối nghiêm trọng (trường
hợp xung đột pháp luật động, v.v.); các nước này cho rằng động sản nằm ở nơi
cư trú của người để lại di sản hoặc coi vấn đề này thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật nước có người để lại di sản là công dân nhằm đi đến thống nhất một
phần luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế.
II.1.2

NHỮNG KHÓ KHĂN DO VIỆC ÁP DỤNG NHIỀU HỆ

THỐNG PHÁP LUẬT
Khi cho phép áp dụng nhiều hệ thống pháp luật khác nhau để điều chỉnh
quan hệ thừa kế cũng có nghĩa là có bao nhiêu khối tài sản thừa kế độc lập với
nhau và chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp luật khác nhau thì cũng có
bấy nhiêu quan hệ thừa kế khác nhau. Giải pháp này sẽ khơng có vấn đề gì nếu

tất cả tài sản thừa kế đều nằm ở một nước, nhưng nếu trong trường hợp ngược
lại, tức là trường hợp thừa kế có yếu tố nước ngồi, thì sẽ phát sinh nhiều hệ quả
mà người để lại di sản không dự kiến trước và đôi khi không công bằng đối với
những người thừa kế hoặc người có quyền thừa kế. Sau đây là một vài ví dụ
minh họa.
1. Bảo vệ q chặt chẽ hoặc khơng có biện pháp bảo vệ
Một người tên là John qua đời và có nơi cư trú cuối cùng ở Manitoba
(Canađa). Người này để lại di sản bao gồm: các động sản và bất động sản ở
Manitoba trị giá 150.000$ và một bất động sản ở California trị giá 50.000$. Giả
sử pháp luật bang California quy định rằng trong trường hợp người chồng (hoặc


15

vợ) qua đời thì người vợ (hoặc chồng) cịn sống có quyền hưởng phần tài sản
thừa kế bắt buộc theo quy định pháp luật là 75.000$ cùng với 50% trị giá phần
di sản còn lại. Nhưng theo quy định của pháp luật bang Manitoba, người vợ
(hoặc chồng) cịn sống có quyền hưởng phần tài sản thừa kế bắt buộc là 50.000$
và 50% trị giá phần di sản còn lại.
Nếu áp dụng chặt chẽ quy phạm xung đột cho phép áp dụng nhiều hệ
thống pháp luật đối với cùng một vụ thừa kế, thì trong trường hợp trên, với di
sản thừa kế có tổng trị giá 200.000$, người vợ sẽ được nhận 150.000$, trong đó:
50.000$ là phần tài sản thừa kế bắt buộc tính trên tài sản nằm ở Manitoba,
50.000$ là tương ứng với 50% trị giá phần tài sản còn lại ở Manitoba (do pháp
luật bang Manitoba được áp dụng đối với thừa kế động sản ở Manitoba với tư
cách là luật nơi cư trú của người để lại di sản, và đối với thừa kế bất động sản ở
Manitoba với tư cách là luật nơi có tài sản), và 50.000$ là phần thừa kế bắt buộc
tính trên bất động sản ở California (do pháp luật bang California được áp dụng
để điều chỉnh thừa kế bất động sản ở bang này với tư cách là luật nơi có tài sản).
Có nghĩa là người vợ sẽ được nhận 3/4 trị giá di sản thừa kế, còn các con chỉ

được nhận 1/4 còn lại. Như vậy, nếu áp dụng cả hai hệ thống pháp luật này thì
quyền lợi người thừa kế này được bảo vệ quá chặt chẽ trong khi quyền lợi của
người thừa kế kia lại khơng được bảo vệ.
Tình trạng bảo vệ quá chặt hoặc không bảo vệ quyền thừa kế của người
vợ hoặc chồng cịn sống cũng có thể xuất phát từ sự khác nhau trong quy định
giữa các luật được áp dụng đối với quan hệ thừa kế và các yếu tố tài chính khác
liên quan như chế độ tài sản giữa vợ và chồng. Ví dụ, giả sử luật của 2 nước A
và B cùng được áp dụng đối với quan hệ thừa kế: pháp luật nước A không quy
định về phần tài sản thừa kế bắt buộc theo luật định, mà bảo vệ quyền thừa kế
của người vợ hoặc chồng cịn sống thơng qua chế độ cộng đồng tài sản; trong
khi đó, pháp luật nước B lại có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc dành
cho người vợ hoặc chồng còn sống và áp dụng chế độ tách riêng tài sản.


16

Áp dụng thống nhất một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa
kế, chế độ tài sản và các quan hệ tài chính khác giữa vợ và chồng (hợp đồng ủy
thác – trust, hợp đồng bảo hiểm, v.v.) là một việc nên làm và có thể làm được
nếu vợ và chồng được phép lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế (luật
đó sẽ trùng với luật áp dụng đối với chế độ tài sản giữa vợ và chồng).
2. Phần tài sản thừa kế bắt buộc
Quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc theo luật nơi người để lại di
sản cư trú (hoặc luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch), chẳng
hạn, 2/3 theo pháp luật Việt Nam, sẽ được áp dụng đối với thừa kế động sản
nhưng không được áp dụng đối với bất động sản ở Québec, bởi vì thừa kế bất
động sản ở Québec sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật Québec là luật nơi có tài
sản, mà luật Qbec khơng có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc. Hơn
nữa, tỷ lệ tài sản thừa kế bắt buộc theo pháp luật Pháp được áp dụng đối với bất
động sản ở Pháp (giả thiết là 1/3) sẽ khác với tỷ lệ tài sản thừa kế bắt buộc được

áp dụng đối với bất động sản ở Việt Nam (2/3); trong khi đó, bất động sản ở
Québec không phải chịu sự điều chỉnh của bất kỳ quy định nào về phần tài sản
thừa kế bắt buộc. Thực tế này có thể dẫn đến một tình huống bất bình đẳng và
khơng được dự kiến trước, nếu như người lập di chúc tưởng rằng mọi bất động
sản của mình sẽ đều chịu cùng một tỷ lệ và do đó, đã sắp xếp ưu tiên để bù đắp
cho một người thừa kế nào đó. Nếu chúng ta tính giá trị của phần tài sản thừa kế
bắt buộc (2/3) không chỉ trên cơ sở các bất động sản chịu sự điều chỉnh của luật
nơi có tài sản và có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc (bất động sản ở
Việt Nam), mà còn trên cơ sở các bất động sản khác, thì về nguyên tắc chúng ta
sẽ vi phạm quy phạm xung đột về thừa kế bất động sản.
3.

Quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản

Trong trường hợp cho phép áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với
quan hệ thừa kế, người thừa kế sẽ có thể từ chối nhận di sản là động sản ở nước
này (giả sử việc nhận di sản này khơng có lợi cho họ), nhưng đồng ý nhận di


17

sản là bất động sản nằm ở một nước khác. Bằng cách đó, người thừa kế sẽ thu
lợi nhiều nhất từ việc thừa kế tài sản nằm ở 2 nước này, nhưng giải pháp này
không phải lúc nào cũng công bằng đối với những người có quyền đối với di
sản thừa kế. Dù sao, người thừa kế cũng sẽ chú ý sao cho hành vi của mình liên
quan đến một khối tài sản thừa kế không bị coi là việc ngầm đồng ý hoặc từ
chối nhận thừa kế liên quan đến các khối tài sản khác, và sẽ phải tuân thủ các
quy định của luật áp dụng đối với mỗi khối tài sản đó về thể thức đồng ý hoặc
từ chối nhận di sản (thời hạn, v.v.).
4. Thu hồi phần di sản đã tặng cho

Trường hợp một người khi còn sống đã tặng cho con trai A của mình một
bất động sản nằm ở nước X (Italia), đồng thời tặng cho con trai B một bất động
sản nằm ở nước Y (Qbec), thì đến khi người đó qua đời và vấn đề thừa kế
được đưa ra Tòa án Québec giải quyết, người con trai A sẽ phải giao hoàn giá trị
tài sản mình được tặng cho vào khối di sản chịu sự điều chỉnh của luật nước X
(Italia), nhưng người con trai B sẽ khơng phải giao hồn giá trị tài sản mình
được tặng cho vào khối di sản X, vì tài sản tặng cho này khơng chịu sự điều
chỉnh của luật nước X, đồng thời B cũng không nhất thiết phải giao hồn tài sản
mình được tặng cho vào khối di sản chịu sự điều chỉnh của luật nước Y (luật
Québec). Kết quả sẽ là một tình trạng bất bình đẳng, trừ phi người cho tặng đã
dự kiến trước như vậy.
5. Thanh toán tài sản nợ
Nếu trong tư pháp quốc tế, chúng ta cũng coi những vấn đề như xác định
người có nghĩa vụ thanh tốn các khoản nợ do người để lại di sản để lại, phạm
vi nghĩa vụ đối với các khoản nợ đó và phân chia nợ giữa những người có nghĩa
vụ thanh tốn, là những vấn đề của thừa kế giống như trong pháp luật dân sự
trong nước, thì việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối có thể sẽ dẫn đến bế
tắc. Như vậy, cần áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất, tức là một phương
pháp tính duy nhất, đối với vấn đề phân chia nợ giữa những người thừa kế.


18

6. Xung đột về quyền quản lý di sản
Ở các nước theo hệ thống common law, quản lý di sản là một thủ tục tư
pháp theo đó Tịa án căn cứ vào quy định của pháp luật nước mình để chỉ định
một người quản lý di sản: người quản lý di sản có quy chế là người được ủy
thác di sản (trustee), có nghĩa là được chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản
thừa kế. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống dân luật và cũng có thể ở Việt
Nam, việc quản lý di sản đương nhiên được giao cho những người thừa kế hoặc

người được chỉ định trong di chúc, do đó, những người thừa kế hoặc người
được chỉ định quản lý di sản trong di chúc là những người có quyền quản lý di
sản. Xung đột về quyền quản lý di sản có thể nảy sinh trong trường hợp một
công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam nhưng chết ở Québec, để lại di sản bao
gồm các động sản ở Québec, New York và Việt Nam. Đối với các tài sản ở
Québec, luật của Việt Nam được áp dụng với lý do đó là luật nơi cư trú của
người để lại di sản và Québec khơng chấp nhận việc dẫn chiếu ngược; vì vậy,
theo luật Việt Nam, những người thừa kế sẽ có quyền quản lý di sản. Đối với
các tài sản ở Québec và ở Việt Nam thì khơng có vấn đề gì, nhưng liên quan đến
tài sản thừa kế nằm ở New York thì xung đột có thể nảy sinh giữa những người
thừa kế với người quản lý di sản được Tòa án chỉ định ở New York theo pháp
luật tố tụng của New York.
II.1.3. Áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất đối với quan hệ
thừa kế giải pháp và các vấn đề nảy sinh từ việc cho phép người để lại di
sản lựa chọn luật áp dụng
Trong phần trước, chúng ta đã xem xét phân tích một số khó khăn nảy
sinh trực tiếp từ việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với cùng một quan
hệ thừa kế, từ đó dẫn đến những giải pháp khơng thể dự kiến trước, có thể gây
bất bình đẳng giữa những người thừa kế (quy định về phần tài sản thừa kế bắt
buộc khơng được áp dụng đối với tồn bộ di sản, tập trung nhiều ưu tiên cho
một người thừa kế, xung đột về quyền quản lý di sản, thu hồi một cách không


19

cơng bằng phần di sản đã tặng cho, v.v.). Ngồi ra cịn có một số khó khăn bắt
nguồn từ sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật được áp dụng đối với quan hệ
tài sản giữa vợ và chồng (tập trung nhiều ưu tiên cho một người thừa kế, quy
định khác nhau giữa luật áp dụng đối với quan hệ ủy thác- trust - và quan hệ
thừa kế, v.v.). Để khắc phục các vấn đề trên, hiện nay có hai xu hướng:

1. Chỉ cho phép áp dụng một hệ thống pháp luật duy nhất đối với quan hệ
thừa kế;
2. Cho phép người để lại di sản được lựa chọn luật áp dụng đối với vấn
đề thừa kế của mình.
Tuy nhiên, hai xu hướng này lại gặp phải hai hạn chế khác. Thứ nhất, việc
áp dụng thống nhất một hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa kế cũng khơng
thể loại trừ được hồn tồn hệ thuộc luật nơi có bất động sản (mặc dù luật nơi
có bất động sản không thể trở thành luật áp dụng đối với tồn bộ di sản thừa
kế); điều này có thể dẫn đến hậu quả trở lại tình trạng áp dụng nhiều hệ thống
pháp luật đối với một phần di sản. Thứ hai, trường hợp người lập di chúc lựa
chọn luật áp dụng cũng không thể giúp tránh được các quy định có tính chất bảo
vệ quyền lợi của những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản,
như quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc, do đó cần có những hạn chế về
phạm vi lựa chọn luật áp dụng của người để lại di sản.
Quá trình cải cách phương thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế
nhằm đồng thời đạt tới nhiều mục tiêu là bình đẳng giữa những người thừa kế
hoặc người có quyền thừa kế, khả năng dự kiến được luật áp dụng, tơn trọng ý
chí của người để lại di sản và bảo vệ một số người thừa kế hoặc một số tài sản
thừa kế. Nhìn chung có hai hướng cải cách như sau: Thứ nhất là giải pháp của
Công ước La Hay năm 1989 về xác định luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế
(A): đây là giải pháp có tính chất triệt để hơn, theo đó luật áp dụng đối với quan
hệ thừa kế sẽ là một hệ thống pháp luật thống nhất được xác định theo tiêu chí
khách quan, hoặc tiêu chí chủ quan (sự lựa chọn của người để lại di sản) nhưng


20

với một số hạn chế như chấp nhận ngoại lệ hoặc có thể trở lại áp dụng nhiều hệ
thống pháp luật. Thứ hai là giải pháp của Québec, chịu ảnh hưởng của pháp luật
Thụy Sỹ và mang tính dung hịa hơn (B), bởi vì pháp luật Québec vừa cho phép

áp dụng nhiều hệ thống pháp luật nếu căn cứ theo tiêu chí khách quan của quan
hệ thừa kế, vừa chấp nhận áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất theo sự
lựa chọn có hạn chế của người để lại di sản.
II.1.4 Giải pháp
II.1.4.1 Giải pháp triệt để áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất
theo tiêu chí khách quan hoặc chủ quan (công ước la - hay 1989)
Theo Điều 3 của Công ước, luật được xác định theo tiêu chí khách quan
để áp dụng đối với quan hệ thừa kế là luật nơi thường trú của người để lại di sản
vào thời điểm chết, nếu nước nơi thường trú cũng là nước mà người để lại di
sản có quốc tịch. Ví dụ như trường hợp một người Việt Nam thường trú ở Việt
Nam vào thời điểm chết. Trong trường hợp nước nơi thường trú không trùng với
nước mà người để lại di sản mang quốc tịch, thì luật áp dụng cũng là luật nơi
thường trú của người để lại di sản vào thời điểm chết, nếu người để lại di sản đã
thường trú tại nước đó trong thời gian 5 năm ngay trước khi chết. Ví dụ, luật
Việt Nam sẽ có thể được áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế của một người có
quốc tịch Lào nếu người đó thường trú tại Việt Nam được 5 năm cho đến khi
chết. Tuy nhiên, luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch, tức là luật
của Lào, cũng sẽ có thể được áp dụng trong trường hợp ngoại lệ, nếu luật nước
này có quan hệ gắn bó với vấn đề thừa kế (chẳng hạn như nếu phần lớn di sản là
bất động sản nằm ở Lào). Ngồi ra, nếu khơng sử dụng được tiêu chí nào trong
các tiêu chí trên (người có quốc tịch Lào chỉ cư trú tại Việt Nam trong 3 năm),
thì luật áp dụng sẽ là luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch (luật
của Lào), trừ trường hợp luật của nước khác có quan hệ gắn bó hơn với vấn đề
thừa kế (ví dụ, bất động sản nằm ở Campuchia, thì áp dụng luật của
Campuchia). Bên cạnh những ngun tắc tương đối phức tạp nói trên, Cơng ước


21

La Hay còn quy định một số ngoại lệ (Điều 6: trường hợp di chúc nêu rõ các

quy định của một luật khác được áp dụng để điều chỉnh một số tài sản thừa kế,
như bất động sản; Điều 15: bảo vệ một số chế độ thừa kế dành cho một số người
hoặc một số tài sản; Điều 16: quy chế áp dụng đối với di sản khơng có người
nhận thừa kế). Điểm mới thứ hai của Công ước La Hay thể hiện ở hệ thuộc
electio juris, có nghĩa là cho phép người để lại di sản được lựa chọn luật áp
dụng đối với toàn bộ quan hệ thừa kế (Điều 5). Với khả năng này, về nguyên
tắc, luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế sẽ là một hệ thống pháp luật thống
nhất, hơn nữa lại có thể dự kiến trước. Tuy nhiên, phạm vi lựa chọn bị bó hẹp
trong 2 hệ thống pháp luật mà người để lại di sản thường chọn áp dụng: luật của
nước mà mình mang quốc tịch hoặc luật nơi thường trú vào thời điểm lập di
chúc hoặc vào thời điểm chết (căn cứ này làm cho việc dự kiến luật áp dụng trở
nên không rõ). Hơn nữa, theo quy định tại Điều 6, người để lại di sản có thể
lồng vào di chúc những quy định của một hoặc một số luật mà mình lựa chọn để
điều chỉnh một số tài sản thừa kế nhất định (khả năng lập nhiều di chúc).
Trường hợp này sẽ dẫn đến việc quay trở lại áp dụng nhiều hệ thống pháp luật,
nhưng là theo ý nguyện của người để lại di sản, nếu như hệ thuộc luật nơi có bất
động sản khơng bị loại trừ vì lý do tiện cho việc áp dụng. Ngồi ra cịn có một
số hạn chế khác, như hạn chế quy định tại Điều 15 (các chế độ thừa kế cụ thể,
v.v.).
Tuy mang nhiều ý tưởng mới, nhưng Công ước La Hay vẫn chưa đạt được
thành cơng lớn. Đó vẫn là một văn bản phức tạp, với nhiều điều khoản ngoại lệ.
Đó là kết quả thu được sau quá trình thảo luận với những ý kiến trái ngược nhau
từ các nước thành viên và trong đó, một số nước vẫn cịn tỏ rõ sự thận trọng
trước việc cho phép người để lại di sản lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ
thừa kế. Những bất đồng quan điểm gay gắt này có thể chính là ngun nhân
giải thích vì sao Cơng ước vẫn chưa nhận được sự hưởng ứng rộng rãi mặc dù
các nước đàm phán đã rất cố gắng để đi đến những giải pháp tương đối hài hòa.


22


II.1.4.2

Giải pháp dụng hóa của pháp luật quebec áp dụng một hệ

thống pháp luật thống nhất theo sự lựa chọn của người để lại di sản
Trong khi chờ đợi Công ước La Hay được áp dụng rộng rãi trên thế
giới, Québec đã chọn cho mình một giải pháp riêng nhưng mang tính dung
hịa trên cơ sở dựa theo giải pháp của pháp luật Thụy Sĩ, nhằm đáp ứng kịp
thời phần lớn các vấn đề do thực tiễn đặt ra. Điều 3098 khoản 1 BLDS
Québec khẳng định lại khả năng áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với
quan hệ thừa kế theo quan điểm truyền thống: Thừa kế động sản được điều
chỉnh bởi luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; thừa kế bất
động sản được điều chỉnh bởi luật nơi có tài sản. Nhưng khoản 2 Điều này
có điểm mới hơn: Tuy nhiên, một người có thể thơng qua di chúc, chỉ định
luật áp dụng đối với vấn đề thừa kế của mình với điều kiện đó phải là luật
của quốc gia mà mình mang quốc tịch, hoặc luật nơi mình cư trú vào thời
điểm lập di chúc hoặc vào thời điểm chết, hoặc luật nơi có bất động sản mà
mình sở hữu, nhưng luật nơi có bất động sản chỉ được áp dụng đối với bất
động sản đó. Như vậy, việc cho phép người để lại di sản lựa chọn một hệ
thống pháp luật áp dụng thống nhất tạo điều kiện bảo đảm sự bình đẳng và
khả năng dự kiến trước của giải pháp giải quyết thừa kế. Nhưng phạm vi
lựa chọn vẫn bị hạn chế một cách hợp lý:
1. Người để lại di sản chỉ được lựa chọn trong số luật của nước mà mình
mang quốc tịch hoặc luật nơi cư trú vào thời điểm chết hoặc thời điểm lập di
chúc (giống với quy định của Công ước La Hay).
2. Người để lại di sản có thể lựa chọn luật nơi có bất động sản, nhưng
luật này chỉ được áp dụng đối với bất động sản đó. Như vậy, khả năng này có
thể dẫn ngược trở lại tình huống áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với quan
hệ thừa kế, theo chủ ý của người để lại di sản. Điều khoản này có phần tương tự

như Điều 6 của Cơng ước La Hay. Tuy nhiên, khác với quy định tại Điều 6 của
Công ước, đây không phải là trường hợp lồng vào di chúc một số quy định của


23

luật nơi có tài sản, mà thực sự là việc lựa chọn một hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, nhằm loại trừ việc áp dụng các quy định có hiệu lực áp dụng bắt buộc của
hệ thống luật được dẫn chiếu theo tiêu chí khách quan.
3. Bảo vệ một số người thừa kế hoặc một số tài sản.
Căn cứ theo Điều 3099 BLDS Québec, quan hệ thừa kế lại được điều
chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật được xác định theo tiêu chí khách quan. Quy
định tại Điều này giúp tránh trường hợp nếu áp dụng luật do người để lại di sản
lựa chọn thì sẽ khơng áp dụng được những quy định nhằm bảo vệ một số người
hoặc một số tài sản được coi là cơ bản trong luật được xác định theo tiêu chí
khách quan. Điều 3099 quy định:
Việc lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế của người để lại di sản
sẽ khơng có hiệu lực trong trường hợp việc áp dụng luật được lựa chọn làm cho
người vợ hoặc một người con của người để lại di sản mất một phần lớn quyền
thừa kế mà lẽ ra họ được hưởng nếu như luật đó không được chọn áp dụng. Việc
lựa chọn luật áp dụng của người để lại di sản cũng khơng có hiệu lực trong
trường hợp việc áp dụng luật đó gây phương hại đến các chế độ thừa kế áp dụng
đối với một số tài sản theo quy định pháp luật của nước nơi có tài sản vì lý do
các tài sản đó phục vụ lợi ích kinh tế, gia đình hoặc xã hội.
II.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của giải pháp cho phép người để lại di
sản lựa chọn một hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh quan hệ
thừa kế
Giải pháp cho phép người để lại di sản lựa chọn một hệ thống pháp luật
thống nhất để điều chỉnh quan hệ thừa kế, chẳng hạn như luật nơi cư trú của
người để lại di sản vào thời điểm lập di chúc, có nhiều ưu điểm.

Thứ nhất, sẽ khơng xảy ra tình trạng bảo vệ q chặt hoặc khơng bảo vệ
quyền lợi của một người thừa kế nào đó như trong trường hợp áp dụng nhiều hệ
thống pháp luật theo hệ thuộc luật nơi có tài sản; ở đây, nếu người thừa kế nào


24

được ưu tiên thì cũng chỉ được hưởng một phần ưu tiên duy nhất tính trên tổng
giá trị di sản
Thứ hai, nếu áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất theo lựa chọn
của người để lại di sản đối với vấn đề phần tài sản thừa kế bắt buộc (trừ trường
hợp áp dụng Điều 3099 BLDS Québec), thì kết quả tính tốn sẽ chính xác hơn,
bởi vì phần tài sản thừa kế bắt buộc được tính trên tổng giá trị của toàn bộ di sản
và sẽ được tuân thủ một cách toàn diện.
Thứ ba, nếu áp dụng một quy định thống nhất về quyền nhận hoặc từ chối
nhận di sản, thì chắc chắn là người thừa kế sẽ khơng được linh hoạt như trước,
nhưng giải pháp này sẽ công bằng hơn đối với những người có quyền đối với di
sản thừa kế.
Thứ tư, việc áp dụng một quy định thống nhất về việc thu hồi phần di sản
đã tặng cho cũng sẽ bảo đảm công bằng hơn giữa những người có quyền thừa
kế.
Thứ năm, giải pháp này cũng sẽ giúp đơn giản hóa rất nhiều việc tính
tốn để phân chia nợ giữa những người có quyền thừa kế, bởi vì sẽ chỉ có một
khối tài sản nợ duy nhất. Vấn đề công bằng cũng sẽ được bảo đảm hơn bởi vì
luật được chọn áp dụng cũng sẽ điều chỉnh việc xác định tài sản thừa kế để xử
lý thanh toán các khoản nợ do thừa kế.
Thứ sáu, giải pháp này cũng góp phần làm giảm xung đột về quyền quản
lý di sản, mặc dù trên thực tế, xung đột vẫn có thể xảy ra nếu tài sản thừa kế
nằm ở một nước theo hệ thống common law, bởi vì theo quy định pháp luật của
các nước này, vấn đề quản lý di sản vẫn là một vấn đề thuộc lĩnh vực tố tụng, do

Tịa án phụ trách; khi đó sẽ còn phải áp dụng cả pháp luật của nước sở tại.
Cuối cùng, giải pháp cho phép người để lại di sản chọn một hệ thống
pháp luật để áp dụng thống nhất đối với cả vấn đề thừa kế, chế độ tài sản giữa
vợ và chồng, hợp đồng trust lẫn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, v.v., sẽ giúp cho


25

việc giải quyết vấn đề thừa kế được dễ dàng và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên, giải pháp này vẫn
có một số bất cập liên quan đến phạm vi lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ
thừa kế. Ví dụ, liệu người để lại di sản có thể lựa chọn áp dụng nhiều hệ thống
pháp luật hay không? Giả sử câu trả lời là có, thì chúng ta sẽ quay trở lại trường
hợp một quan hệ thừa kế được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật, với tất
cả những vấn đề khó khăn của nó. Liệu chúng ta có thể công nhận quyền lập
nhiều di chúc hay không? Kỹ thuật pháp lý tương đối phổ biến ở các nước theo
hệ thống common law này sẽ tạo điều kiện để chúng ta chấp nhận áp dụng luật
nơi có bất động sản như một thực tế khơng thể tránh khỏi, ít nhất là đối với một
số vấn đề về chuyển giao tài sản thừa kế. Việc lập nhiều di chúc cũng giúp tránh
được trường hợp trong đó di chúc duy nhất khơng có hiệu lực pháp luật tồn bộ,
và sẽ giảm được chi phí dịch thuật. Nhưng việc áp dụng nhiều hệ thống pháp
luật đối với quan hệ thừa kế như vậy sẽ khiến cho việc giải quyết trên thực tế
trở nên phức tạp do phải xử lý hài hòa giữa nhiều bản di chúc đó. Trong trường
hợp sửa đổi bổ sung di chúc thì phải xem xét lại tất cả các bản di chúc và tiến
hành kiểm tra, xác minh trước nhiều cơ quan có thẩm quyền ở nhiều nước; như
vậy chi phí sẽ tăng.
Liệu có thể đưa vào di chúc một điều khoản theo đó áp dụng cố định
các quy định pháp luật hiện hành vào thời điểm lập di chúc? Hiệu lực của
điều khoản này có lẽ phụ thuộc vào luật được chọn áp dụng, mặc dù nếu áp
dụng pháp luật của Tịa án thì có thể có lợi. Cần giải quyết như thế nào nếu

theo quy định của luật được chọn áp dụng thì di chúc bị vơ hiệu? Về
nguyên tắc, trong trường hợp này (di chúc bị vô hiệu), vẫn phải tuân thủ
quy định của luật được lựa chọn áp dụng và khi di chúc bị vô hiệu thì việc
thừa kế đó sẽ được giải quyết theo luật được dẫn chiếu theo tiêu chí khách
quan.
Ngồi những nội dung trao đổi trên, tơi xin trình bày một số vấn đề


×