Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.29 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hợp đồng là một trong những chế định luật đóng vai trị xương sống trong
ngành luật tư của bất kỳ một quốc gia nào. Trong hệ thống pháp luật của Việt
Nam, đặc biệt là trong ngành luật dân sự, chế định hợp đồng là chế định trụ cột.
Những quy định của nó có đối tượng và phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, bao
trùm lên nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội khác nhau. Do vậy, tìm hiểu các quy
định của pháp luật về hợp đồng là vơ cùng cần thiết. Vì gần như tất cả nội dung
của mối quan hệ pháp luật được xác lập đều được thể hiện trực tiếp hay gián tiếp
thông qua hợp đồng nên hợp đồng được coi là hình thức pháp lý của mối quan
hệ pháp luật. Các vấn đề liên quan tới hợp đồng dân sự tương đối rộng và đa
dạng. Trong đó, vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa thiết thực
không chỉ đối với các chủ thể của hợp đồng mà cịn có ý nghĩa sâu sắc cho quá
trình áp dụng và thực thi luật, đặc biệt là rất hữu dụng cho những học viên đang
học nghề luật và chuẩn bị cho các vị trí cơng tác liên quan tới việc giải thích và
thực thi luật. Đó cũng chính là lý do tác giả bài tiểu luận đi sâu nghiên cứu đề tài
“ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự”.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận, tác giả khơng có tham vọng trình
bày tất cả các vấn đề liên quan tới chế định hợp đồng dân sự mà chỉ xin tập
trung làm sáng tỏ một vài điểm theo chủ quan của tác giả là quan trọng liên quan
tới các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, từ đó đề xuất một số điểm cần lưu ý
về các quy định của pháp luật đối với các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
cũng như đối với những người thực thi pháp luật, đặc biệt là đối với các thẩm
phán khi giải quyết vụ án dân sự liên quan tới vấn đề này.

1


3. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân


tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, so sánh đối chiếu, quy nạp, diễn
dịch..
4. Bố cục của tiểu luận
Ngoài mục lục, phần mở đầu và kết luận, bài tiểu luận được kết cấu thành
bốn phần la mã và trong từng phần đó, tác giả bài viết đã tiến hành nghiên cứu
và tìm hiểu và phân tích chi tiết những vấn đề liên quan đến chế định hợp đồng
dân sự.
Trong phạm vi bài viết này, mặc dù đã hết sức cố gắng tìm hiểu và nghiên
cứu nhưng do lượng kiến thức tích luỹ được chưa nhiều, nhiều vấn đề còn thiếu
thực tế, khả năng nhận thức cịn hạn chế. Vì vậy, trong bài viết này em khó có
thể tránh khỏi được những thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được sự thông
cảm của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG

1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
ý chí và bầy tỏ ý chí của các bên là tiền đề để đưa đến sự thoả thuận nhằm
hình thành một hợp đồng. Mọi hợp đồng (bất luận là loại hợp đồng nào) đều là
sự thoả thuận nhưng không phải sự thoả thuận nào của các bên cũng đều là hợp
đồng.
ở hầu hết pháp luật các quốc gia trên thế giới đều xem xét một thoả thuận
được coi là hợp đồng khi đáp ứng được các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, sự thoả thuận phải phù hợp với ý chí đích thực của các bên. Để
có một hợp đồng ý chí của các bên phải gặp nhau tại một điểm thể hiện sự ưng

thuận đích thực giữa các bên. Các bên thực sự mong muốn hướng đến điều đó
(tính nghiêm túc, đích thực của các bên). Tuy nhiên, sự ưng thuận đích thực đó
của các bên cũng phải hợp lẽ công bằng, không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Mọi giao kết dưới sự tác động của lừa dối, đe doạ, cưỡng bức đều xa lạ với bản
chất của hợp đồng và cho dù có sự thoả thuận cũng khơng được coi là hợp đồng
(đều đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng)
Thứ hai, sự thoả thuận của các bên phải nhằm vào đối tượng xác định.
Mọi hợp đồng phải có đối tượng xác định, cụ thể. Khơng thể có một hợp đồng
mà đối tượng được các bên thoả thuận hướng đến lại mơ hồ, chung chung khơng
có tính xác thực. Vì vậy, đối tượng mà các bên nhằm tới phải cụ thể, xác thực và
phải có tính hợp pháp. Ví dụ đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là hàng
hoá trong thương mại, cũng có thể đối tượng của hợp đồng là những hành vi,

3


cơng việc cụ thể...Đó phải là những cơng việc thực tế, tức là có thể thực hiện
được và khơng trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Thứ ba, sự thoả thuận này phải được thực hiện bởi người có năng lực
hành vi dân sự và có thẩm quyền đại diện. Pháp luật của các nước khác nhau có
thể khác nhau trong việc xác định độ tuổi của người có năng lực hành vi dân sự.
Pháp luật của các quốc gia đều không thừa nhận hiệu lực của những hợp đồng
do người khơng có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự
xác lập, thực hiện. Ngoài ra, những thoả thuận của người tuy có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự nhưng khơng có thẩm quyền đại diện (theo quy định của pháp
luật hoặc theo uỷ quyền) thì cũng khơng phát sinh hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, sự thoả thuận đó phải được đặt trong hình thức thích hợp. Ngồi
các u cầu nêu trên, để một thoả thuận được coi là hợp đồng thì sự thoả thuận
đó phải được đặt trong hình thức thích hợp phù hợp với ý chí chung của nhà
nước. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới coi hình thức của thoả thuận là

điều kiện để xem xét tính hiệu lực của thoả thuận đó. Nếu pháp luật quy định
phải tuân thủ những hình thức nhất định mà thoả thuận của các bên khơng tn
thủ đúng hình thức thì thoả thuận đó bị vơ hiệu. Ngược lại, một số nước khơng
coi hình thức là điều kiện xác định hiệu lực của hợp đồng (điển hình như Pháp)
do vậy hình thức của thoả thuận chủ yếu có ý nghĩa chứng minh (chứng cứ) mà
khơng có ý nghĩa xác định hiệu lực của hợp đồng.
Như vậy, bản chất pháp lý của mọi hợp đồng đều là sự thoả thuận nhưng
không phải mọi sự thoả thuận đều là hợp đồng mà muốn được coi là hợp đồng,
thoả thuận đó phải thoả mãn những điều kiện nhất định.
2. Quan hệ giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại.
Theo pháp luật hiện hành, Việt Nam tồn tại 2 loại hợp đồng là hợp đồng
thương mại và hợp đồng dân sự. Trước đây, tồn tại loại hợp đồng kinh tế theo
pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 song văn bản này đã hết hiệu lực thi hành.

4


Bộ luật dân sự đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự ở mức độ khái quát,
mang bản chất của hợp đồng nói chung khơng phụ thuộc mục đích của các bên
tham gia quan hệ hợp đồng. Điều 394 Bộ luật dân sự quy định: "Hợp đồng dân
sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự". Theo quy định của luật thương mại, ngoài các đặc
điểm của hợp đồng nói chung, hợp đồng thương mại cịn có một số đặc trưng
pháp lý riêng biệt để phân biệt với hợp đồng dân sự về chủ thể hợp đồng, về
mục đích xác lập hợp đồng …
- Về chủ thể của hợp đồng: trong hợp đồng thương mại phải có ít nhất
một bên là các thương nhân.
- Về mục đích của hợp đồng: Mục đích của các bên trong hợp đồng
thương mại là mục đích kinh doanh .Mục đích kinh doanh được hiểu là mong
muốn hướng đến lợi nhuận, lấy lợi nhuận làm mục tiêu cho hành động của các

bên tham gia giao kết hợp đồng. Trong khi đó, theo cách tiếp cận khi xây dựng
Bộ luật dân sự , khái niệm hợp đồng dân sự đã được mở rộng, bao trùm lên tất
cả mọi lĩnh vực, mọi chủ thể và mọi mục đích sinh hoạt, tiêu dùng, thuê lao
động hay kinh doanh...Trong điều kiện đó, hợp đồng thương mại khơng cịn là
hợp đồng độc lập bên cạnh hợp đồng dân sự mà được coi là dạng đặc thù của
hợp đồng dân sự trong các lĩnh vực kinh doanh. Nó mang đầy đủ các đặc điểm
của hợp đồng dân sự và chứa đựng thêm một vài nét đặc thù. Điều này phù hợp
với quan điểm lập pháp của Việt Nam khi xây dựng Bộ luật Dân sự 2005 với tư
cách là luật chung áp dụng cho mọi giao dịch trong đời sống, Luật Thương mại
2005 với tư cách là đạo luật riêng. Những yếu tố không được quy định tại Luật
Thương mại 2005 sẽ được điều chỉnh bởi các điều khoản của Bộ luật dân sự.
Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa hợp đồng thương mại với hợp đồng
dân sự khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học mà cịn có ý nghĩa thực
tiễn to lớn. Xác định được mối quan hệ này không chỉ giúp chúng ta lựa chọn
chính xác nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh mà còn tạo
5


cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp
luật về hợp đồng trong kinh doanh nói riêng.
3. Vị trí của chế định hợp đồng dân sự.
Như đã phân tích ở trên, hợp đồng là một trong những chế định luật đóng
vai trị xương sống trong ngành luật tư của bất kỳ một quốc gia nào. Trong hệ
thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là trong ngành luật dân sự, chế định hợp
đồng là chế định trụ cột. Những quy định của nó có đối tượng và phạm vi điều
chỉnh tương đối rộng, bao trùm lên nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội khác nhau.
Như vậy, chế định hợp đồng dân sự có vị trí đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực
dân luật tại các nước trên thế giới nói chung và ở tại Việt Nam nói riêng.
4. Vai trị của chế định hợp đồng dân sự
Từ vị trí hết sức quan trọng của chế định hợp đồng dân sự trong hệ thống

pháp luật Việt Nam nên nó cũng sẽ có vai trò hết sức to lớn trong đời sống và xã
hội. Chế định này nó đã góp phần điều chỉnh các quan hệ dân sự hàng ngày, nó
đã tạo ra khung pháp lý cần thiết và quan trọng cho các dao dịch dân sự diễn ra
thuận lợi và tránh được những tranh chấp trong quá trình người dân tiến hành
các dao dịch của mình. Hơn thế nữa, chế định này còn là nền tảng cho việc nhà
nước xây dựng các chế định hợp đồng trong thương mại. Có thể nói chế định
hợp đồng dân sự đã điều chỉnh một cách bao trùm toàn bộ các hoạt động của
người dân khi tham gia tiến hành giao dịch dân sự. Trong một số trường hợp,
các chủ thể tham gia ký kết các hợp đồng thương mại nhưng do có những thoả
thuận khơng rõ ràng và cụ thể, khi xảy ra tranh chấp, các cơ quan nhà nước sẽ
căn cứ vào những quy định nền tảng của chế định hợp đồng dân sự để điều chỉnh
II. các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự được quyền định tại điều
122 Bộ luật Dân sự 2005, theo đó, hợp đồng dân sự có hiệu lực khi có đủ các
điều kiện sau:

6


- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
- Người tham gia giao dịch hoàn tồn tự nguyện
Ngồi ra, hình thức của hợp đồng dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự trong trường hợp pháp luật có quy định.
1. Điều kiện chủ thể.
Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực nếu chủ thể của hợp đồng có năng
lực chủ thể tham gia vào giao dịch đó.
Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng

lực pháp luật là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền và
nghĩa vụ nhất định khi tham gia một quan hệ nào đó. Cịn năng lực hành vi là
khả năng thực tế các chủ thể bằng hành vi của chính mình thiết lập và thực hiện
các quan hệ dân sự.
Đối với cá nhân, dưới góc độ lý luận, năng lực hành vi dân sự của cá nhân
có thể chia làm 3 cấp độ:
- Người khơng có năng lực hành vi dân sự: Là người dưới 6 tuổi, khơng
thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà phải do người đại diện
xác lập và thực hiện thay.
- Người có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ: là những người từ đủ 6
tuổi đến dưới 18 tuổi, có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhỏ
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Các giao dịch
khác phải được sự chấp thuận của người đại diện.
Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài
sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện các

7


giao dịch dân sự mà khơng cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Là những người trên 18 tuổi, khơng bị
Tịa án tun bố mất năng lực hành vi dân sự.
Đối với tổ chức, năng lực hành vi và năng lực pháp luật được phát sinh
đồng thời từ khi tổ chức đó được thành lập hợp pháp. Như vậy, điều kiện tiên
quyết để xem xét một hợp đồng dân sự có hiệu lực hay khơng là yếu tố chủ thể
tham gia ký kết hợp đồng. Hợp đồng sẽ không phát sinh hiệu lực nếu chủ thể ký
kết khơng có năng lực hành vi để tham gia vào giao dịch đó hoặc chủ thể khơng
có thẩm quyền đại diện để xác lập và thực hiện các quan hệ đó. Ngồi ra, cũng
cần phải lưu ý một số loại hợp đồng dân sự cụ thể quy định các loại hình chủ thể

cụ thể tham gia và có thể kèm theo một số điều kiện đặc thù khác. Những điều
kiện này do pháp luật quy định, là một nội dung của năng lực pháp luật của các
chủ thể và hợp đồng chỉ có thể phát sinh hiệu lực nếu như các chủ thể đã thỏa
mãn tất cả các điều kiện này.
2. Điều kiện về mặt ý chí của các bên tham gia hợp đồng.
Hợp đồng là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. ý chí đích thực của
các bên tham gia phải phù hợp với ý chí các bên tuyên bố và thể hiện trong hợp
đồng. Sự tự nguyện, tự do ý chí trong hợp đồng được biểu hiện ở nhiều khía
cành khác nhau, song tập trung chủ yếu ở các vấn đề:
- Các chủ thể phải được tự do lựa chọn các loại quan hệ hợp đồng mình
tham gia. Muốn vậy, các chủ thể của quan hệ phải bảo đảm được quyền thông
tin đầy đủ, trung thực về quan hệ mình sẽ xác lập, về đối tác cũng như đối
tượng của hợp đồng.
- Trên cơ sở nắm giữ đầy đủ các thông tin cần thiết về hợp đồng sẽ tham
gia, các bên phải được tự do lựa chọn đối tác tham gia từng quan hệ xác thực.

8


- Nội dung quan trọng nhất trong điều kiện này là các bên phải được tự do
thỏa thuận về các điều khoản của hợp đồng không bên nào được ép buộc và
cưỡng ép bên nào. Những điều khoản hợp đồng phải là kết quả của quá trình
thương thảo một cách bình đẳng, trung thực, thẳng thắn và thiện chí của các bên.
3. Điều kiện mục đích và nội dung của hợp đồng.
Hợp đồng có hiệu lực khi mục đích và nội dung của hợp đồng không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Theo điều 123, mục đích của hợp đồng dân sự là những lợi ích hợp pháp
mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Mục đích các bên
hướng đến hay nói cách khác chính là khách thể của quan hệ hợp đồng giữa các
bên chỉ có thể đạt được thông qua việc tác động vào đối tượng của hợp đồng

theo ý chí của mỗi bên và theo thỏa thuận hợp đồng. Điều này nói lên rằng, mục
đích của hợp đồng có quan hệ chặt chẽ với nội dung của hợp đồng. Theo tinh
thần của Bộ luật dân sự 2005 thì cả mục đích và nội dung của hợp đồng phải
đồng thời không trái với các quy định của pháp luật và khơng trái với đạo đức xã
hội.
Khi mục đích xác lập quan hệ và nội dung của hợp đồng trái với các quy
định của pháp luật thì đương nhiên, pháp luật khơng thừa nhận tính hợp pháp
của nó. Việc xác định mục đích và nội dung của hợp đồng có trái các quy tắc của
pháp luật và đạo đức xã hội không không phải là điều đơn giản và dễ dàng.
4 Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Theo Bộ luật dân sự 2005 thì hình thức của hợp đồng chỉ là điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có quy định. Đây là một trong
những điểm mới rất tiến bộ của Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ luật dân sự 1995.
Hình thức của hợp đồng dân sự không được coi là một điều kiện đương nhiên để
xác định tính có hiệu lực của hợp đồng mà phải xem xét trong từng quan hệ cụ
thể với các quy định cụ thể của pháp luật về điều kiện hình thức của hợp đồng.

9


Hợp đồng khơng bị vơ hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, nếu trong từng trường loại hợp
đồng xác định, pháp luật không quy định việc vi phạm hình thức của hợp đồng
sẽ làm cho hợp đồng bị vơ hiệu thì sự vi phạm về hình thức này sẽ không đương
nhiên ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của các bên vẫn
được bảo đảm thi hành bởi các quy định của pháp luật.
Hình thức hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó
phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện

bằng văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân thủ các quy định đó.
III. Thực tế một số trường hợp hợp đồng vơ hiệu, vai trị của việc quy định điều kiện vô
hiệu của hợp đồng.

Khi hợp đồng dân sự khơng có một trong các điều kiện đã phân tích ở trên
thì vơ hiệu. Hợp đồng vơ hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Như vậy, các điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để xác nhận tính hiệu lực
của hợp đồng. Chỉ khi một hợp đồng bảo đảm đầy đủ các điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng thì hợp đồng mới phát sinh hiệu lực và mới có giá trị bắt buộc thi
hành như là luật đối với các bên.
Cụ thể, một số hành vi vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng sẽ
bị vô hiệu như sau:
1. Vi phạm điều kiện về chủ thể:
Trường hợp thứ nhất: hợp đồng dân sự sẽ vô hiệu do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xác lập, thực hiện thì theo u cầu của người đại diện đó, Tịa án tuyên bố

10


giao dịch đó vơ hiệu nếu theo quy định của pháp luật hợp đồng này phải do
người đại diện của họ xác lập, thực hiện.
Trường hợp thứ hai, hợp đồng dân sự vô hiệu do người ký kết không đúng
thẩm quyền ký kết. Chẳng hạn như hợp đồng do Giám đốc chi nhánh ký kết mà
không được sự ủy quyền của Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc Cơng ty
mẹ….
2. Vi phạm điều kiện về ý chí và sự tự nguyện của các bên.
Trường hợp thứ nhất: Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo. Khi các bên

xác lập hợp đồng một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao
dịch giả tạo vơ hiệu cịn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp
giao dịch bị che giấu đó cũng vô hiệu khi không đáp ứng được các điều kiện nêu
trên. Trong trường hợp xác lập giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba thì giao dịch đó vơ hiệu.
Ví dụ như hai bên thiết lập quan hệ tặng cho nhà trong khi thực chất của
hợp đồng này lại là quan hệ mua bán. Trong tình huống này, hợp đồng tặng cho
này vơ hiệu vì ý chí tun bố ở đây khơng phải là ý chí đích thực của các bên.
Xét theo ý chí đích thực của các bên thì quan hệ hợp đồng được xác lập ở đây
phải là quan hệ mua bán. Hợp đồng mua bán phát sinh hiệu lực và có giá trị ràng
buộc quyền cũng như nghĩa vụ của các bên.
Trường hợp thứ 2: Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn.
Theo điều 131 Bộ luật dân sự 2005, khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị
nhầm lẫn có quyền u cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó, nếu bên
kia khơng chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền u cầu Tịa án tun bố hợp
đồng vơ hiệu.
Như vậy, yếu tố nhầm lẫn ở đây xuất phát từ lỗi vô ý của một trong hai
bên tham gia quan hệ. Các bên khơng có chủ định làm cho phía bên kia hiểu lầm
11


về tính năng, cơng dụng, giá trị hoặc bất kỳ một yếu tố nào khác song do sự
không thống nhất về ngôn ngữ, thông tục hoặc một nguyên nhân khác khiến bên
kia bị nhầm lẫn và do sự nhầm lẫn này mà quyết định ký kết hợp đồng. Do có sự
nhầm lẫn nên các bên không thực hiện được ý chí đích thực của mình. Vì vậy,
giao dịch này cũng khơng bảo đảm được tính chất tự nguyện tham gia của các
chủ thể.
Trường hợp thứ ba: hợp đồng không bảo đảm được tính chất tự nguyện
khi được giao kết do sự cưỡng ép, đe dọa, lừa dối.

Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ
ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm
cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ,
chồng, con của mình.
Khác với trường hợp thứ hai, trường hợp này luôn luôn được thực hiện
với lỗi cố ý của một trong hai bên. Yếu tố tự do ý chí và bày tỏ ý chí bị vi phạm
ở mức độ nghiêm trọng hơn trường hợp ký kết hợp đồng do nhầm lẫn.
Trường hợp thứ tư: chủ thể ký kết hợp đồng không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình. Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã ký kết hợp
đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Vì vậy, họ không thể nhận thức đầy đủ và đúng đắn các điều khoản của hợp
đồng. Quan hệ này khơng có yếu tố thỏa thuận nên không phát sinh hiệu lực
ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên.
-Hợp đồng vô hiệu do khơng tn thủ quy định về hình thức của hợp
đồng.

12


Hợp đồng chỉ vô hiệu nếu pháp luật quy định hình thức giao dịch là điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng nhưng các bên khơng tn thủ đúng hình thức đó
trong một thời hạn nhất định do Tịa án ấn định. Như vậy vô hiệu do vi phạm
điều kiện là vô hiệu tương đối.
-

Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp

luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng công
nhậnvà tôn trọng. Việc xác định nội dung của hợp đồng vi phạm
các điều cấm của pháp luật khơng mấy khó khăn, song xác định
nội dung của hợp đồng trái với đạo đức xã hội lại là vấn đề không
đơn giản.

3.Vi phạm về nội dung và mục đích của hợp đồng trái pháp luật và đạo
đức xã hội
Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng đã thoả thuận trong hợp đồng dân sự. Theo
điều 402 BLDS 2005 quy định:Tuỳ theo tong loại hợp đồng, các bên có
thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
1.Đối tượng của hợp đồng dân sự là tài sản phải giao ,công việc phảI làm
hoặc không được làm
2.Số lượng,chất lượng
3.Giá,phương thức thanh toán
4.Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
5.Quyền, nghĩa vụ các bên
6.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng

13


7.Phạt vi phạm hợp đồng
8.Các nội dung khác
Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt được khi xác lập hợp đồng đó (mục đích thực tế)
Mục đích và nội dung của hợp đồng có quan hệ chặt chẽ với nhau .Con

người xác lập,thực hiện hợp đồng luân nhằm đạt được mục đích nhất
định. Muốn đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thoả thuận về nội
dung và ngược lại những cam kết bất thỏa thuận về nội dung của họ là để
đạt được mục đích của giao dịch.
Để hợp đồng có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của giao dịch
không trái pháp luật, đạo đức xã hội điều cấm của pháp luật là những quy
định của pháp luậtkhông cho phép chủ thể thực hiên những hành vi nhất
định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giũa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. đối
tượng của hợp đồng lầ tài sản phải giao ,công việc phải làm hoặc không
được làm, tài sản là tài sản được phép giao dịch, nhưng công việc được
làm không vi phạm điều cấm pháp luật và không trái đạo đức xã hội mới
là đối tượng của hợp đồng. Những hợp đồng được xác lập nhằm trốn tránh
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là những hợp đồng dân sự có mục đích
và nội dung khơng hợp pháp, khơng làm phát sinh hiệu lực pháp luật của
hợp đồng đó, niếu chỉ một bên có lỗi thì bên đó phải bồi thường thiệt hại
cho bên kia.
Ví dụ:Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích của các bên hướng tới
là quyền sở hữu tài sản, đểđạt được mục đích này họ phải thoả thuận về
nội dung của hợp đồng mua bán gồm các điều khoản như đối tượng( vật
bán) về giá cả,thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng, tuy
nhiên trong thực tiễn không phải bao giờ các chủ thể cũng có cùng mục

14


đích.Có nhưng trường hợp họ bán tài sản để trốn tránh việc kê biên tài
sản…những trường hợp này là trái pháp luật.

4.Vi phạm về hình thức của hợp đồng

Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật, hình
thức của hợp đồng là phương tiện thể hiện nội dung mà các chủ thể đã xác
định. Thông qua phương tiện này mà đơí tác cũng như người thứ 3 biết
được nội dung của hợp đồng đã xác lập, hình thức của hợp đồng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tung dân sự, nó là chứng cứ xác nhận
các mối quan hệ đã ,đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách
nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm sảy ra.
Tuỳ thuộc vào nội dung ,tính chất của từng hợp đồng cũng như tuỳ thuộc
vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất
định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ
thể:hình thức của hợp đồng được quy định tai điều 401 BLDS 2005
Như vậy hình thức cùa hợp đồng dân sự tương đối đa dạng tạo điều kiện
cho các chư thể kí kết thuận tiện hơn
Đối với những hợp đồng phá luật đã có quy định buộc phải giao kết theo
một hình thức nhất định thì các bên phải theo hình thức đó.
chỉ những trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn
bản, phải có chứg thực,chứng nhận,đăng ký hoặc xin phép mà các bên
không tn thủ se bị coi là vơ hiệu.
Ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm sẽ phải được lập thành văn bản ,giấy yêu cầu
bảo hiểm có chữ ký của bên mua bảo hiểm là bộ phận không tách rời của
hợp đồng bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là
bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm. Nếu hợp đồng bảo hiểm
mà hình thức giao kết là hình thức miệng thì hợp đồng này đương nhiên bị
15


vô hiệu khi các bên không tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của
một hoặc các bên thì tồ án xem xét và buộc các bên thực hiện quy định
về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định. Việc ấn định thời
hạn do toà án quyết định căn cứ vào tình hình cụ thể.Khi các bên không

thực hiện và tất các quy định về hình thức của hợp đồng trong thời hạn do
tồ án quyết định thì hợp đồng đó mới vơ hiệu bên có lỗi làm cho hợp
đồng vơ hiệu phải bồi thường thiệt hại
IV. Một số kiến nghị và đề xuất

1. Nhận xét chung
Nhìn chung các quy định của Bộ luật dân sự 2005 đã quy định tương đối
chi tiết và hợp lý về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Có một số
sửa đổi bổ sung quan trọng so với bộ luật dân sự 1995 về vấn đề này như:
a. Bỏ quy định về trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do tưởng
tượng.
b. Thay đổi quy định về điều kiện hình thức của hợp đồng dân sự là
điều kiện của hợp đồng theo hướng thơng thống hơn. Quan điểm lập pháp này
phù hợp với quan điểm lập pháp hiện đại, đặc biệt gần gũi hơn vơí quan điểm về
hợp đồng của Anh- Mỹ, theo đó, ý chí đích thực của các bên được nhấn mạnh, ý
chí tun bố có vị trí thứ yếu hơn.
2. Một số kiến nghị và đề xuất.
* Đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng.
Nhìn chung các quy định của pháp luật đã tương đối phù hợp song cần
phải hướng dẫn cụ thể hơn (có thể trong Nghị định quy định chi tiết thi hành
hoặc Thông tư hướng dẫn) về một số vấn đề sau:
-Về quy định tại điểm b khoản 1 điều 122 : “ Mục đích và nội dung
của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”
16


Các điều cấm của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những
hành vi nhất định. Pháp luật bao trùm lên mọi lĩnh vực quan trọng của đời sống
xã hội. Số lượng các mối quan hệ của nó rất rộng và khơng thể liệt kê dược hết.

Có thể có trường hợp hành vi của các bên vi phạm một quy định nào đó của
pháp luật về lĩnh vực khơng hề liên quan tới các giao dịch của các bên như. Có
phải trong mọi trường hợp hợp đồng đều vơ hiệu mà khơng xem xét tơí tính
chất, mức độ, nội dung vi phạm trong quan hệ mật thiết với việc thực hiện hợp
đồng và lợi ích của Nhà nước khơng?
Hơn nữa, mục đích của các bên trái với quy định của pháp luật và trái
với đạo đức xã hội. Quy định này có hợp lý khơng khi đối tượng tác động của
các quy phạm pháp luật là hành vi xử sự của con người chứ khơng phải mục
đích hay ý tưởng của họ. Luật chỉ điều chỉnh khi mục đích đó phải được hiện
thực bằng những hành vi cụ thể của các chủ thể tham gia. Nếu quy định như trên
thì phải làm rõ cách xác định mục đích của các bên như thế nào? Bởi vì mục
đích hay động cơ tham gia là nhân tố thuộc về tinh thần, chỉ có thể xác định
được thơng qua biểu hiện thực tế của các bên. Việc xác định mục đích tham gia
quan hệ của các bên phụ thuộc rất lớn vào những người thực thi pháp luật.
Phạm trù “ trái đạo đức xã hội” rất mơ hồ và khó xác định. Chính vì
vậy mà dẫn tới hai xu hướng thực tế trái ngược nhau là: sự vận dụng một cách
tùy tiện của thẩm phán hoặc là né tránh áp dụng điều khoản này. Với bất kỳ một
xu hướng áp dụng nào cũng đều gây ảnh hưởng theo hướng tiêu cực tới công tác
áp dụng pháp luật và vi phạm pháp chế.
* Đối với các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
Như đã phân tích, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên song không phải
bất kỳ sự thỏa thuận nào cũng được coi là hợp đồng và có hiệu lực thi hành.
Trước khi ký kết hợp đồng, các bên phải nắm rõ được các quy định của pháp
luật liên quan tới hợp đồng đặc biệt là các quy định liên quan tới điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng. Nếu không, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, các bên có
17


thể phải gánh chịu những tổn thất không nhỏ. Quyền và lợi ích của các bên
khơng được pháp luật bảo hộ vì căn cứ pháp lý để xác lập quyền và nghĩa vụ của

các bên là hợp đồng dân sự lúc này khơng cịn hiệu lực nữa.
Cần thiết phải tìm hiểu kỹ lưỡng về các vấn đề đã phân tích ở trên, đặc
biệt là vấn đề liên quan tới thẩm quyền ký kết. Việc xác định đúng thẩm quyền
đại diện và ký kết rất quan trọng và là công việc phải tiến hành đầu tiên khi tham
gia thương lượng ký kết hợp đồng. Trên thực tế rất nhiều trường hợp hợp đồng
đã hoặc đang được thực hiện phải dừng lại do bị tịa án tun vơ hiệu do chủ thể
ký kết không đúng thẩm quyền. Điều này đặc biệt nguy hiểm trong trường hợp
một bên cố tình lợi dụng sự kém hiểu biết và nguồn thông tin chưa đầy đủ của
bên kia để trục lợi cho riêng mình.
Để bảo đảm tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng, các bên cũng cần tìm
hiểu đầy đủ và kỹ lưỡng tất cả các thơng tin cần thiết về phía đối tác và giao
dịch có ý định xác lập.
* Đối với chủ thể thực thi pháp luật.
Các chủ thể có trách nhiệm thực thi luật pháp, đặc biệt là thẩm phán của
các tịa án có chức năng xét xử các vụ án dân sự cần phải: Nắm bắt, hiểu rõ và
vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Với những tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng, công việc đầu tiên của các thẩm phán là xem xét hiệu lực của hợp
đồng đó. Tuy nhiên, trên thực tế, có khơng ít các thẩm phán coi nhẹ công việc
này, bỏ qua hoặc không điều tra xem xét môt cách kỹ lưỡng nên đã đưa ra phán
quyết không đúng với các quy định của pháp luật. Nhiều khi giữa lý thuyết và
thực tế có một khoảng cách khá xa nên việc áp dụng các quy định của pháp luật
về điều kiện hợp đồng vào từng trường hợp cụ thể thực tế phát sinh không phải
là vấn đề đơn giản. Điều này địi hỏi năng lực, trình độ của thẩm phán phải được
chú trọng bồi dưỡng và nâng cao, đặc biệt là các kiến thức về luật pháp và kỹ
năng hành nghề.
18


KẾT LUẬN.

Hợp đồng là chế định pháp luật “xương sống” trong nền kinh tế thị
trường, có vai trị là cơ sở pháp lý không thể thiếu cho việc thiết lập và thực hiện
các quan hệ dân sự. Cùng với sự phát triển của các quan hệ dân sự , pháp luật về
hợp đồng ở Việt Nam trong những năm qua cũng từng bước được xây dựng và
hoàn thiện. Các quy định của pháp luật đã góp phần quan trọng vào việc điều
chỉnh các quan hệ kinh tế xã hội, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần trong giai đoạn chuyển đổi ở Việt Nam.
Bộ luật dân sự 2005 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới trong pháp
luật về hợp đồng của Việt Nam. Vấn đề cần thiết lúc này là cần phải có một giải
pháp tổng thể để bảo đảm thực thi các quy định đó một cách hiệu quả, phát huy
được vai trò tiên phong mở đường cho các quan hệ kinh tế, xã hội phát triển và
tạo một môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh cho các quan hệ này diễn ra một
cách lành mạnh, bảo đảm lợi ích của các chủ thể tham gia và lợi ích chung của
Nhà nước, của xã hội.

19



×