Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu Thuyết trình bảo vệ“ Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính tại Công ty KSTK Điện I trong điều k docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.79 KB, 8 trang )

THUYẾT TRÌNH BẢO VỆ.
Kính thưa các Thầy, các cô trong hội đồng !
Qua thời gian thực tập và viết luận văn, hôm nay được sự đồng ý của hội đồng, em xin
trình bày nội dung đề tài nghiện cứu.
Thưa các thầy các cô, doanh nghiệp là một tế bào kinh tế xã hội, là một mắt xích trong
hàng chuỗi các mắt xích kinh tế thị trường. Nó luôn luôn phải cạnh tranh để tồn tại, đứng vững và
phát triển. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh và kinh doanh có hiệu
quả. Để đánh giá được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cần phải thực hiện phân tích tài
chính doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tiễn đó em đã chọn đề tài “ Hoàn thiện phương pháp phân
tích tài chính tại Công ty KSTK Điện I trong điều kiện hiện nay ”.
( Chỉ biểu 1 )
Đề tài nghiên cứu các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty KSTK
Điện I, số liệu minh giải được lấy trong hai năm 1995-1996.
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không và hiệu quả đó cao
hay thấp, điều đó phản ánh tình trạng tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu. Để đánh giá tình
trạng tài chính của các doanh nghiệp các nhà phân tích thường dùng một số chỉ tiêu tài chính
được chia thành 4 nhóm chính:(biểu 2 )
1
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán: là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả
năng đáp ứng yêu cầu chi trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về khả nănghoạt động: là nhóm chỉ tiêu cho phép đánh giá việc sử dụng
tài sản và nguồn lực của doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: là nhóm chỉ tiêu phản ánh mức
độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng huy động vốn vay của doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêuvề khả năngsinh lãi: nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh một cách tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được lựa chọn
phụ thuộc vào bản chất, qui mô của hoạt động phân tích.
Vì thời gian có hạn, em xin được trình bày cụ thể phân tích TC tại Công ty KSTK Điện I
trong chương 2.


Công ty khảo sát thiết kế Điện I với tên giao dịch quốc tế là PIDCI, thuộc Tổng công ty
Điện lực Việt nam có trụ sở đóng tại phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh xuân, thành phố
Hà nội. Nhiệm vụ và chức năng của Công ty là khảo sát và thiết kế các công trình điện .
Số vốn của công ty được thành lập lại theo NĐ 388/ HĐBT là 6.374.200.000 đồng , trong
đó :
-Vốn cố định : 5.8 tỷ đồng
2
-Vốn lưu động : 500 triệu đồng.
Đến nay tổng tài sản của công ty đạt được qua các năm 1994, 1995, 1996 được minh hoạt
theo biểu3 .
Theo bảng cân đối tài chính của công ty , ta có được bảng phân tích tình hình phân bổ vốn
của công ty qua các năm 1995, 1996 ( Biểu 4 )
Trong cơ cấu vốn của Công ty TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn (> 70%), TSLĐ và đầu tư dài hạn
chiếm tỷ trọng nhỏ hơn (> 20%). Qua các số liệu tổng số vốn cuối kỳ năm 1996 tăng so đầu năm
1996 là 3tỷ đồng. Trong đó Tài sản LĐ tăng 1,8 tỷ đồng là do hàng tồn kho tăng lên 2.5 tỷ đồng,
các khoản phải thu tăng lên, mặc dù tiền + TSLĐ khác năm 1996 đều giảm so với năm 1995. Tài
sản CĐ tăng hơn năm 1995 là 1.1 tỷ đồng ( 6,1%), như vậy trang thiết bị phục vụ sản xuất có được
đầu tư thêm, chứng tỏ Công ty rất chú trọng trọng việc mở rộng và phát triển sản xuất.

Dựa vào báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (biểu 5) ta có thể đánh giá được
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty qua 2 năm 1995, 1996: So sánh các chỉ tiêu
năm 1995 và năm 1996 ta thấy năm 1996 tình trạng tài chính của công ty có khả quan hơn. Tổng
doanh thu năm 1996 tăng hơn 1995 là : 1.7 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế tăng ≈ 900 triệu đồng.
Các khoản thuế nộp cho Nhà nước đều tăng. Như vậy trong năm 1996 Công ty tập trung được các
nguồn lực kinh tế, sản xuất kinh doanh có hiệu quả .
Số liệu trên các báo cáo kế toán ( bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh) trong 2 năm 1995 và 1996 mới chỉ phản ánh một cách khái quát toàn bộ tình hình tài
chính và kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Để thấy rõ thực trạng tài chính của Công ty và
thực trạng đó ảnh hưởng như thế nào đến kết quả sản xuất kinh doanh, Công ty đã sử dụng các
phương pháp truyền thống là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ để tiến hành phân tích

tài chính của Công ty qua 2 năm 1995 và 1996 theo các nội dung phân tích ở (biểu 6). Công ty tập
3
trung vào phân tích các chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động của vốn và các chỉ
tiêu doanh lợi .
Qua các chỉ tiêu đặc trưng về tài chính trên, chúng ta thấy được bức tranh toàn cảnh về
tình hình tài chính của Công ty năm 1996 so với năm 1995 là có tiến bộ hơn, thể hiện ở các chỉ
tiêu về doanh lợi vốn vốn năm 1996 đều cao hơn năm 1995. Tuy các hệ số này chưa cao do đặc
điểm sản xuất của Công ty, nhưng so với ngành thì cũng đáng khích lệ. Nguyên nhân chính là do
Công ty đã sử dụng vốn một cách hợp lý, tăng năng lực sản xuất của các loại tài sản nhất là tài
sản cố định (tỷ trọng TSCĐ năm 1996 < năm1995 nhưng vòng quay vốn CĐ 1996 lại > 1995).
Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đem lại lợi nhuận ngày
càng cao.
Như vậy, việc phân tích tài chính do Công ty thực hiện, với những kết quả đạt được đã
giúp cho ban giám đốc, cán bộ quản lý và các thành viên trong Công ty đánh giá một cách khái
quát thực trạng tài chính của Công ty trên một số mặt chủ yếu. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt
được, Công ty còn thể hiện nhiều hạn chế trong công tác phân tích trong những năm qua.
Thứ nhất, về thông tin sử dụng trong việc tính toán phân tích tài chính, Công ty chỉ lấy số
liệu trên 2 báo cáo kế toán, đó là Bảng cân đối tài sản và Báo cáo kết quả kinh doanh. Đặc biệt
trong công tác báo cáo kế toán của Công ty năm 1996 còn chưa đề cập đến Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ .
Thứ hai, về phương pháp phân tích Công ty chỉ sử dụng một số phương pháp phân tích có
tính chất truyền thống là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ và việc áp dụng chưa đồng
bộ và chưa toàn diện để phát huy hết tác dụng của từng phương pháp vào công tác phân tích,
chưa thật khoa học và có tính chất hệ thống để đánh giá đúng thực trạng tài chính của Công ty và
xác định đúng các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả đó . Công ty chưa mạnh dạn áp dụng phương
pháp mới vào phân tích như phương pháp Dupont để phân tích khả năng sinh lợi của vốn đầu tư.
Thứ ba, về nội dung phân tích, Công ty chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu phân
tích một cách khoa học, đầy đủ trên các mặt của hoạt động tài chính. Công ty mới chỉ tính toán và
phân tích được một số các chỉ tiêu có tính truyền thống như : tình hình sử dụng vốn, hiệu quả sử
dụng vốn và khả năng tạo ra lợi nhuận. Một số các chỉ tiêu khác trong hệ thống các chỉ tiêu

4
chuẩn mà các nước đã áp dụng như : đánh giá khả năng tài trợ, khả năng thanh toán lãi vay ...
Công ty chưa tính toán và phân tích được.
Thứ tư, công tác tổ chức phân tích tài chính của Công ty thường không kịp thời, không
đầy đủ, vì đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn rất thiếu, dẫn đến tình trạng hệ thống các báo
cáo tài chính - nguồn thông tin của hoạt động phân tích được hoàn thành rất chậm, chẳng hạn báo
cáo kế toán năm thường hoàn thành vào tháng 3, tháng 4, thậm trí tháng 5, tháng 6 của năm sau,
trong khi các quyết định về quản lý , nhất là quản lý tài chính phải ra hàng ngày.
Ngoài ra , Công ty còn gặp phải một số khó khăn khách quan khác trong quá trình phân
tích tài chính , chẳng hạn như : hệ thống chỉ tiêu trung bình của ngành chưa có , vì vậy Công ty
thiếu chuẩn mực chung để đánh giá , so sánh tình hình tài chính của Công ty mình với các doanh
nghiệp khác cùng ngành ...
Qua nghiên cứu thực trạng phân tích tài chính trong hai năm 1995 và 1996 của Công ty ,
đề tài mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau :
Trước hết , Công ty phải hoàn thiện về nguồn thông tin làm số liệu cho hoạt động phân
tích . Đó là, ngoài bảng cân đối kế toán Báo cáo kết quả kinh doanh, Công ty phải tiến hành lập
và sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, trên cơ sở đó Công ty sẽ tiến hành phân tích được các
dòng tiền trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tính ra một số chỉ tiêu liên quan đến tiền , bổ
xung vào hệ thống chỉ tiêu Công ty đã sử dụng. Có như vậy thì hệ thống chỉ tiêu phân tích mới trở
lên đầy đủ, phong phú , làm căn cứ cung cấp thông tin đánh giá toàn diện , chính xác tình hình tài
chính của Công ty trong các thời kỳ.
Ngoài ra trong quá trình phân tích tài chính Công ty nên sử dụng thêm một số báo cáo kế
toán khác như : bảng thuyết minh báo cáo tài chính... để làm căn cứ số liệu tính ra một số chỉ tiêu
cần thiết , đáp ứng nhu cầu thông tin mọi mặt về tình hình tài chính của Công ty cho ban lãnh đạo
và các đối tác cần sử dụng.
5

×