Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở huyện thủ thừa, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.22 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

Lê Hoàng Hùng

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN THỦ
THỪA, TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Long An - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

Lê Hoàng Hùng

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN THỦ
THỪA, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Lƣơng Bằng

Long An - 2016



1
LỜI CẢM ƠN

Trong q trình thực hiện đề tài, tơi đã nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều
thầy cô và đồng nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn: Ban Giám hiệu, Phịng Đào
tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trƣờng Đại học Vinh; quý thầy giáo,
cô giáo tham gia giảng dạy lớp cao học chuyên ngành Chính trị học khoá 22 của
Đại học Vinh mở tại trƣờng Đại học Kinh tế - Công nghiệp Long An đã dành
cho chúng tôi nhiều chỉ dẫn khoa học quý báu. Tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc
tới PGS.TS. Nguyễn Lƣơng Bằng - trƣờng Đại học Vinh đã tận tình hƣớng dẫn,
giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành biết ơn: Ban Thƣờng vụ Huyện ủy - UBND
Huyện Thủ Thừa, Đảng ủy - UBND các xã, thị trấn của huyện Thủ Thừa, tỉnh
Long An; bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và
động viên khích lệ tơi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Long An, tháng 6 năm 2016
Tác giả

Lê Hoàng Hùng


2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

Ban Chấp hành

BTV


Ban Thƣờng vụ

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB

Chủ nghĩa tƣ bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

LHPN

Liên hiệp Phụ nữ

TBCN

Tƣ bản chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


3

MỤC LỤC
Lời cảm ơn ............................................................................................. 1
Danh mục các chữ viết tắt ...................................................................... 2
Mục lục................................................................................................... 3
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................... 4
B. NỘI DUNG ..................................................................................... 12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÔNG THÔN MỚI VÀ CHẤT
LƢỢNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI.......................................................................... 12
1.1. Một số khái niệm có liên quan. ..................................................... 12
1.2. Vị trí của chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong xây
dựng nông thôn mới. ........................................................................................ 36
Kết luận Chƣơng 1 ............................................................................... 49
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG AN ..................................................... 41
2.1. Những yếu tố ảnh hƣởng đến việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long
An. ................................................................................................................. 41
2.2. Chất lƣợng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở huyện Thủ Thừa
trong xây dựng nông thôn mới thời gian vừa qua. ........................................ 58
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp cơ sở huyện Thủ Thừa trong xây dựng nông thôn mới. .......... 70
Kết luận Chƣơng 2 ............................................................................... 78
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ HUYỆN THỦ THỪA
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ..................................................................80
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
huyện Thủ Thừa trong xây dựng nông thôn mới. ............................................... 80
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
huyện Thủ Thừa trong xây dựng nông thôn mới. ............................................... 87
Kết luận Chƣơng 3 ............................................................................. 109
C. KẾT LUẬN ................................................................................... 111
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................... 113


4

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là những ngƣời lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng, tổ chức điều
hành công việc, là hạt nhân của một tổ chức, là nịng cốt của một phong
trào. Cán bộ khơng chỉ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng
mà cịn là mắt xích trọng yếu trong tồn bộ hoạt động của Đảng ta, là
nhân tố quyết định sự thành cơng của cách mạng. Trong bất kỳ hồn cảnh,
điều kiện lịch sử cách mạng nào, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln coi cán bộ và công tác cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của công
tác xây dựng Đảng - là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc cách mạng. Vị
trí của cơng tác cán bộ gắn liền với vai trị của đội ngũ cán bộ. Lúc sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngƣời sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng cộng sản
Việt Nam đã nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [20, tr273],
"công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"[20, tr269]. Thấm

nhuần tƣ tƣởng của Ngƣời, trong suốt hơn 85 năm xây dựng và phát triển, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quyết định quá
trình cách mạng. Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều đánh dấu những
bƣớc trƣởng thành, tiến bộ của đội ngũ cán bộ. Vì thế, Đảng luôn chú trọng tới
yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, toàn diện, đặc biệt tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt, coi đây là vấn đề cốt lõi.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc
xác định là nhiệm vụ chiến lƣợc trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Xây dựng
nơng thơn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, cơng bằng, văn minh, có kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội hợp lý, hiện đại là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng,
toàn dân, của cả hệ thống chính trị, mà trƣớc hết là địa bàn cơ sở.
Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nƣớc ta


5
hiện nay, là nơi tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, có nhiệm vụ và vai trị to lớn
trong việc cụ thể hoá mọi chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nƣớc. Cán bộ chủ chốt là ngƣời tổ chức, lãnh đạo mọi thành viên
trong tập thể hƣớng vào một mục đích chung để hồn thành tốt mọi nhiệm vụ
chính trị của địa phƣơng mình. Việc hồn thành hay khơng hồn thành tốt nhiệm
vụ ở cơ sở phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực, phong cách của ngƣời
lãnh đạo. Do vậy, vấn đề cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp này có ý nghĩa hết sức
quan trọng, ảnh hƣởng đến chất lƣợng hoạt động và hiệu quả quản lý, điều hành
của Đảng, Nhà nƣớc nói chung. Địi hỏi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở phải
đảm bảo đƣợc các tiêu chuẩn cả về phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ năng
lực; phong cách, tác phong cơng tác để có thể nhận thức đúng và biến chỉ thị,
nghị quyết, chính sách, đƣờng lối, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc thành hiện
thực trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX “về đổi mới và nâng cao chất lƣợng của

hệ thống chính trị ở xã, phƣờng, thị trấn” đã xác định: “xây dựng đội ngũ cán bộ
ở cơ sở xã, phƣờng, thị trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập
trung giải quyết, trong đó yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ
chức vận động nhân dân thực hiện đƣờng lối của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc,
công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng,
không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo cơng tác đào tạo, bồi dƣỡng, giải
quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”[10, tr167-168].
Huyện Thủ Thừa đƣợc tách lập từ huyện Bến Thủ, tỉnh Long An vào năm
1983, trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, hệ thống chính trị cơ sở đƣợc
xác lập và củng cố. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đƣợc xây dựng và từng
bƣớc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thể hiện rõ nét là tình hình an ninh chính trị
đƣợc giữ vững, kinh tế, văn hóa - xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân đƣợc nâng lên, bộ mặt nông thôn luôn khởi sắc.


6
Qua đó, đã khẳng định đƣợc năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, chính quyền,
đồn thể các cấp, trong đó có sự đóng góp khơng nhỏ của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cơ sở. Để xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ
sở có thể đảm đƣơng đƣợc yêu cầu nhiệm vụ trong những năm qua là nhờ sự
thƣờng xuyên quan tâm lãnh đạo của Huyện ủy, Ban Thƣờng vụ Huyện ủy đã
quán triệt và cụ thể hoá các Nghị quyết của Trung ƣơng, của Tỉnh uỷ về công tác
cán bộ, xây dựng Nghị quyết chuyên đề về cán bộ và công tác cán bộ để thực
hiện ở cấp mình, từ đó đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đƣợc ổn định, từng
bƣớc đƣợc chuẩn hóa về chun mơn, chính trị, đạo đức và bản lĩnh công tác,
đặc biệt là từng bƣớc đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng,
hệ thống chính trị cơ sở, trong đó có đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở của huyện
vẫn còn những hạn chế, yếu kém, nhất là trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ
chức thực hiện và vận động quần chúng,… Đồng thời, những tiêu chuẩn để đánh

giá, quản lý, sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn bất cập trƣớc
tình hình mới, đặc biệt là trong cơng cuộc xây dựng nơng thơn mới hiện nay địi
hỏi phải đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Vấn đề đặt ra, đòi hỏi Huyện ủy, Ban Thƣờng vụ Huyện ủy Thủ Thừa
phải khẩn trƣơng lãnh đạo làm tốt cơng tác chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở. Có nhƣ vậy mới xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
đáp ứng đƣợc nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, nhất là trong điều kiện đất
nƣớc đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để thực
hiện nhiệm vụ đó, trƣớc hết cần cụ thể hóa những tiêu chuẩn chung về cán bộ
của Đảng thành hệ thống những tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp cơ sở một cách phù hợp với tình hình thực tế của huyện Thủ Thừa. Đồng
thời vận dụng hệ tiêu chuẩn đó làm cơ sở cho việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo,
bố trí, sử dụng,… đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nhằm đạt mục tiêu xây


7
dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lƣợng, đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, tác phong khoa học và trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ huyện Thủ
Thừa đến năm 2020 và những năm tiếp theo, thực hiện thành công sự nghiệp
xây dựng nông thôn mới ở huyện Thủ Thừa.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề :“Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới
ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An” làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị học.
Đây là vấn đề hết sức thiết thực, nhằm nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới nói riêng, qua đó góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng của
Đảng bộ huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An nói chung.
Liên quan đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ hiện nay đã đƣợc các nhà
lý luận nghiên cứu nhiều từ nghị quyết của Đảng các cấp đến các đề tài nghiên

cứu khoa học. Có thể chia thành các nhóm sau:
- Nhóm các tác phẩm kinh điển, các văn kiện của Đảng. Chẳng hạn Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa VIII) “về
chiến lược cán bộ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa IX) “về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa X) “về nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên”.
- Một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ của Đảng đã
đề cập đến việc chuẩn hóa các chức danh cán bộ: Tác phẩm “Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”, PGS.TS.
Trần Xuân Sầm chủ biên, 1998. Trong sách trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn


8
của việc xác định tiêu chuẩn cán bộ; thực trạng việc thực hiện tiêu chuẩn đối với
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị; xác định tiêu chuẩn
cán bộ trong những năm tới và phƣơng hƣớng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ theo tiêu chuẩn xác định.
- Tài liệu bồi dƣỡng lý luận và nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ. Tài liệu
lƣu hành nội bộ do Ban Tổ chức Trung ƣơng phối hợp với Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, phần những vấn đề nghiệp vụ, trong đó: Bài 4
- Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ - trình bày những vấn đề chủ yếu về xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ và quy trình xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; Bài 5, Bài 6 đề cập đến
yêu cầu của việc sử dụng tiêu chuẩn cán bộ làm cơ sở cho công tác đánh giá, lựa
chọn, bổ nhiệm, đánh giá, điều động, luân chuyển, đào tạo… cán bộ và Bài 9 đổi mới và nâng cao chất lƣợng tổ chức chính quyền và đội ngũ cán bộ cơ sở xã,
phƣờng, thị trấn, trong đó có phần xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Tác phẩm
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, PGS.TS. Nguyễn Phú

Trọng và PGS.TS. Trần Xuân Sầm chủ biên, 2003. Nội dung đề cập đến cơ sở lý
luận của việc sử dụng tiêu chuẩn cán bộ trong công tác cán bộ; những kinh
nghiệm xây dựng tiêu chuẩn cán bộ của Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng; những quan điểm, phƣơng hƣớng chung trong việc nâng cao chất lƣợng
cơng tác cán bộ, trong đó có nội dung về “tiêu chuẩn hóa cán bộ”.
- Đề tài Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng “Chuẩn hóa đội ngũ cấp ủy
viên quận, huyện của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay” của Trƣơng
Thị Bạch Yến, bảo vệ năm 2006 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề tài Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng “Chuẩn hóa đội ngũ cán
bộ thuộc diện thành ủy, huyện ủy quản lý ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện
nay” của Nguyễn Chí Cƣờng, bảo vệ năm 2007 tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh. Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập, phân tích từ các góc độ


9
khác nhau đối với hệ thống chính trị ở cơ sở, về cán bộ và công tác cán bộ; về vị
trí, vai trị của hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ
sở hiện nay, qua đó đề ra các giải pháp nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ cơ
sở trong giai đoạn mới.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu khoa học về xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam hiện nay, trong đó đề cập, xác định rõ vai trị, trị trí quan
trọng của hệ thống chính trị cơ sở trong q trình thực hiện, qua đó làm cơ sở lý
luận cho quá trình nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới, tiêu biểu nhƣ:
- Nghiên cứu của Tô Xuân Dân (chủ biên), Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng
(2013): “Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam: Tầm nhìn mới, tổ chức quản lí
mới, bước đi mới”, Nxb Nơng nghiệp. Nghiên cứu của Vũ Văn Phúc (chủ biên),
Hồ Xuân Hùng, Phạm Tất Thắng…, “Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Nxb CTQG, H. 2012. Nghiên cứu của Nguyễn Hồng
Chuyên (2013), “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng

nông thôn mới”, Nxb Tƣ pháp, HN. Nghiên cứu của Nguyễn Anh Thuỳ, Tài liệu
hỏi - đáp xây dựng nông thôn mới cấp xã, sách viết về những câu hỏi - đáp về
những nguyên tắc cơ bản xây dựng nông thôn mới cấp xã theo Quyết định 491/QĐTTg của Thủ tƣớng Chính phủ.
- Thuỳ Linh, Việt Trinh, hệ thống hoá Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí
quốc gia về xây dựng nơng thơn mới 2014: Có hiệu lực kể từ ngày 20-11-2013.
Nxb Nơng nghiệp, H. 2013.
Từ những khảo sát các đề tài liệu khoa học trên cho thấy vấn đề nghiên
cứu, bàn về cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay có nhiều nhƣng việc
nghiên cứu vấn đề để chuẩn hóa, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở nƣớc ta chƣa
nhiều và đặc biệt trên địa bàn huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An thì chƣa có một


10
cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và cũng chƣa đƣợc nghiên cứu
khảo sát, đánh giá một cách khoa học. Vì vậy, việc triển khai luận văn “Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn
mới ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An” là hết sức cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay, nhằm đề xuất các
nhóm giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong
xây dựng nơng thơn mới, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
huyện từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới.
Nghiên cứu thực trạng thông qua khảo sát, nghiên cứu thực tế chất lƣợng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của huyện Thủ Thừa.
Đề xuất phƣơng hƣớng và các nhóm giải pháp khả thi để nâng cao chất

lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong sự nghiệp xây dựng nông thôn
mới ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng cơng tác chuẩn hóa và
chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An
từ năm 2010 đến năm 2015, trong đó tập trung vào giai đoạn từ khi có chƣơng
trình xây dựng nơng thơn mới đến nay. Đề xuất phƣơng hƣớng và những nhóm
giải pháp nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở áp dụng từ nay
cho đến năm 2020 và những năm tiếp theo.


11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc; các văn kiện Đại hội Đảng và các nghị quyết Hội nghị
Trung ƣơng; các cơng trình nghiên cứu khoa học đã đƣợc công bố trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng về vấn đề này…
Luận văn sử dụng những nghị quyết, kế hoạch, đề án cùng các tài liệu có
liên quan về xây dựng đội ngũ cán bộ của Tỉnh ủy, Huyện ủy huyện Thủ Thừa,
tỉnh Long An.
Luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học khác nhƣ: phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, lơgíc, trừu tƣợng và
cụ thể, so sánh, tổng kết thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Làm rõ lý luận về cán bộ, công tác cán bộ và thực trạng chất lƣợng đội
ngũ cán bộ ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An từ năm 2010 đến nay. Đề xuất một
số nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Kết quả nghiên

cứu của đề tài có thể vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công
tác cán bộ cấp cơ sở nhằm nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ của huyện, đặc
biệt là góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ thứ tƣ BCH
Trung ƣơng Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” và Chiến lƣợc cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc của Đảng.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chƣơng, 7 tiết.


12

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÔNG THÔN MỚI VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm nông thôn mới
Theo từ điển Tiếng Việt - 1998 của Nhà xuất bản Thanh Hóa: “nơng thơn
là khu dân cƣ tập trung chủ yếu làm nông; phân biệt với thành thị”[28]. Cịn
theo tài liệu học tập Chƣơng trình xây dựng nơng thơn mới có viết, nơng thơn là
phần lãnh thổ khơng thuộc nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã, thị trấn;
đƣợc quản lý bởi cấp hành chính cơ sở đó là Ủy ban nhân dân xã.
Đối với thuật ngữ “nơng thơn mới” thì đến nay chƣa có khái niệm chính
thức, song có thể hiểu, xây dựng nơng thơn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận
động lớn để cộng đồng dân cƣ ở nơng thơn đồng lịng xây dựng thơn, xã, gia
đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất tồn diện (nơng nghiệp,
cơng nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hố, mơi trƣờng và an ninh nông thôn
đƣợc đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân đƣợc nâng

cao. Xây dựng nơng thơn mới là sự nghiệp cách mạng của tồn Đảng, tồn dân,
của cả hệ thống chính trị. Nơng thơn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội,
mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Xây dựng nơng thơn mới giúp cho
nơng dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đồn kết, giúp đỡ nhau xây
dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Đặc trƣng của nông thôn mới là có kinh tế phát triển, đời sống vật chất và
tinh thần của cƣ dân nông thôn đƣợc nâng cao; nông thôn phát triển theo quy
hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, môi trƣờng sinh thái đƣợc bảo


13
vệ; dân trí đƣợc nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc đƣợc giữ gìn và phát huy; an
ninh trật tự tốt, quản lý dân chủ; chất lƣợng hệ thống chính trị đƣợc nâng cao.
1.1.2. Nội dung xây dựng nơng thơn mới
Trong suốt q trình lãnh đạo, Đảng ta ln khẳng định: “Hiện nay và
trong nhiều năm tới, vấn đề nơng nghiệp, nơng dân và nơng thơn vẫn có tầm
chiến lƣợc đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn hƣớng tới xây dựng một nền nơng
nghiệp hàng hố lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất
lƣợng và khả năng cạnh tranh cao; gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn
mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng
miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội”[11,tr.190-191].
Đặc biệt đến Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
(khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW (ngày 05 tháng 8 năm 2008) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết đã nêu một cách toàn diện quan
điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết khẳng định nơng
nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vai trị to lớn, có vị trí quan trọng trong sự
nghiệp cơng nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nƣớc. Chính vì vậy, các vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải đƣợc giải quyết đồng bộ, gắn với q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Nơng nghiệp, nơng thơn nƣớc ta cịn là

khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có hiệu quả. Phát triển nơng
nghiệp, nơng thơn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải
dựa trên cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với
điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực. Giải quyết vấn đề nơng nghiệp, nông dân, nông thôn không chỉ là
nhiệm vụ của nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và tồn xã hội. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội hiện đại ở nông thơn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức
tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch


14
vụ, đô thị theo quy hoạch; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công
nhân - nông dân - trí thức vững mạnh; khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của dân cƣ nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh
hơn ở các vùng cịn nhiều khó khăn; nơng dân đƣợc đào tạo có trình độ sản xuất
ngang bằng với các nƣớc tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng
vai trị làm chủ nơng thơn mới.
Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ƣơng đã nêu một cách
tổng quát về mục tiêu, nhiệm vụ cũng nhƣ phƣơng thức tiến hành q trình xây
dựng nơng thơn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn
phát triển của đất nƣớc. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy
những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh của toàn dân, huy
động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Trong Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định xây dựng nông thôn
mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong định hƣớng phát triển kinh tế
xã hội của đất nƣớc. Cƣơng lĩnh chỉ rõ: “Coi trọng phát triển các ngành công
nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành cơng nghiệp có
lợi thế; phát triển nông, lâm, ngƣ nghiệp ngày càng đạt trình độ cơng nghệ cao,

chất lƣợng cao gắn với cơng nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới...”[13,
tr.75].
Trong Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta cũng đã
xác định rõ định hƣớng xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: “Quy hoạch
phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cƣ. Phát
triển mạnh cơng nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trƣờng. Triển
khai chƣơng trình xây dựng nơng thơn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng
theo các bƣớc đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy
những nét văn hóa đặc sắc của nơng thơn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu
hạ tầng nông thôn. Tạo môi trƣờng thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tƣ


15
vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tƣ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả Chƣơng trình đào tạo nghề cho 1
triệu lao động nông thôn mỗi năm. Thực hiện tốt các chƣơng trình hỗ trợ nhà ở
cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách, chƣơng trình nhà ở cho đồng bào
vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cƣ, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở
núi, ven sông, ven biển.”[13, tr.123].
Đánh giá những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế, yếu kém và nguyên
nhân sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng (khóa X) “về nơng nghiệp, nông dân, nông thôn”, đồng thời tiếp tục
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, ngày 09
tháng 5 năm 2014, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 97-KL/TW “về một số
chủ trƣơng, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 7 (khố X) về
nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn”. Trong đó, Bộ Chính trị tiếp tục đề ra một số
chủ trƣơng, giải pháp chủ yếu tiếp tục thực hiện nghị quyết đến năm 2020, đó là:
“1- Đẩy mạnh, cơng tác tuyên truyền, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trị của nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

2- Rà soát, điều chỉnh bổ sung nâng cao chất lƣợng cơng tác quy hoạch.
3- Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn gắn
với tái cơ cấu nền nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
4- Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, chú trọng nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa, tinh thần của dân cƣ nơng thơn, nhất là các vùng cịn nhiều khó
khăn.
5- Tiếp tục đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, củng cố và nâng cao
hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã.
6- Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản.
7- Đổi mới và nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề cho lao động nông thôn.


16
8- Đổi mới cơ chế, chính sách, huy động đa dạng các nguồn lực cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
9- Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nƣớc về nông nghiệp.”[17]
Thực hiện đƣờng lối của Đảng, ngày 28 tháng 10 năm 2008, Chính phủ đã
ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP “ban hành Chƣơng trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng khóa X về nơng nghiệp, nơng dân và nơng thơn”, theo đó, Chính phủ xác
định mục tiêu là “Xây dựng nền nơng nghiệp phát triển tồn diện theo hƣớng
hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lƣợng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đạt mức tăng trƣởng 3,5 - 4%/năm; bảo đảm vững chắc an ninh
lƣơng thực quốc gia cả trƣớc mắt và lâu dài. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở
nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch
vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cƣ nông thôn tăng lên 2,5 lần
so với hiện nay. Nâng cao chất lƣợng cuộc sống vật chất và tinh thần của dân cƣ
nông thôn, nhất là ở các vùng cịn nhiều khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để
nơng dân tham gia đóng góp và hƣởng lợi nhiều hơn vào q trình cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Hồn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
nông thôn; xây dựng nông thôn mới bền vững theo hƣớng văn minh, giàu đẹp,
bảo vệ mơi trƣờng sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; đảm bảo điều kiện
học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông
thôn gần với các đô thị trung bình. Nâng cao năng lực phịng chống giảm nhẹ
thiên tai, thực hiện một bƣớc các biện pháp thích ứng và đối phó với biển đổi khí
hậu tồn cầu, nhất là nƣớc biển dâng”[1].
Tiếp đến, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nơng
thơn mới (Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009) và Chƣơng
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nơng thôn mới giai đoạn 2010 - 2020
(Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010). Chƣơng trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã nêu: “xây dựng, tổ chức cuộc sống của


17
dân cƣ nông thôn theo hƣớng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và mơi
trƣờng sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ. Phát triển đồng bộ hệ
thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp quy hoạch không gian xây
dựng làng (ấp, thôn, bản), xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành,
địa phƣơng; kết hợp giữa hỗ trợ của Nhà nƣớc với phát huy nội lực của cộng
đồng dân cƣ nông thôn. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức tốt
đời sống văn hóa cơ sở. Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với
yêu cầu của nền nơng nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hóa gồm cả nông nghiệp và
phi nông nghiệp, thực hiện “mỗi làng một nghề”. Chƣơng trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nơng thơn mới là chƣơng trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng,
có nội dung tồn diện; bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục tiêu chung của chƣơng trình đƣợc Đảng ta
xác định là: “xây dựng nơng thơn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng
bƣớc hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nơng
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với

đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; mơi trƣờng sinh thái đƣợc bảo vệ; an ninh trật tự đƣợc giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân ngày càng đƣợc nâng cao”[30].
1.1.3. Khái niệm cán bộ và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Để làm rõ các khái niệm trên, ta phải hiểu cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong
hệ thống hành chính bốn cấp ở Việt Nam hiện nay. Cấp cơ sở vừa là cấp cuối
cùng trong quản lý xét theo cấp độ của hệ thống chính trị, nhƣng nó là cấp đầu
tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của toàn bộ hệ thống
chính trị của nƣớc ta. Vì cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của
nhân dân, nơi chính quyền gần dân nhất. Nơi tổ chức và triển khai thực hiện
đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Mọi
đƣờng lối, chủ trƣơng có đƣợc thực hiện tốt hay khơng phụ thuộc vào chất lƣợng


18
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, mà nhất là phụ thuộc vào phẩm chất,
năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ đảng viên trong các tổ
chức đảng, chính quyền và các đồn thể nhân dân ở cơ sở. Chất lƣợng, hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở có ảnh hƣởng rất lớn đến tình cảm, thái
độ, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà
nƣớc.
Từ “Cán bộ” đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa và rất phong phú. Nó xuất hiện
trong xã hội của chúng ta rất lâu. Từ “cán bộ” du nhập vào nƣớc ta bắt nguồn từ
Trung Quốc, đƣợc phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ban đầu, từ
“cán bộ” dùng trong quân đội để phân biệt giữa ngƣời chỉ huy và ngƣời chiến sĩ.
Ngƣời chỉ huy ở đây đƣợc hiểu là cán bộ từ cấp tiểu đội phó trở lên. Dần dần từ
cán bộ đƣợc hiểu rộng ra hơn dùng để chỉ tất cả những ngƣời hoạt động kháng
chiến để phân biệt với nhân dân.
Trong từ điển Việt - Nhật, danh từ “cán bộ” đƣợc dùng với nghĩa là
ngƣời ở hạng cao trong một đoàn thể, là (yếu nhân) nhân vật quan trọng.

Hay trong từ điển Từ Hải, cán bộ đƣợc giải thích để chỉ chung những
nhân viên công chức, nhằm phân biệt với những nhân viên tạp vụ, binh lính,
cơng nhân, có nghĩa là chun chỉ những ngƣời có trách nhiệm lãnh đạo nào đó
nhƣ trƣởng thôn, đội trƣởng thiếu niên tiền phong…
Trong Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên đã nêu
rõ “Cán bộ: Ngƣời làm việc trong cơ quan nhà nƣớc - cán bộ nhà nƣớc; ngƣời
giữ chức vụ, phân biệt với ngƣời bình thƣờng, khơng giữ chức vụ trong các cơ
quan, tổ chức nhà nƣớc”[39].
Còn trong cuốn "Từ điển tiếng Việt" của Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm
2002, có viết: “Cán bộ: 1. Ngƣời làm cơng tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ
quan nhà nƣớc. Cán bộ nhà nƣớc. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị. 2. Ngƣời làm
cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với ngƣời thƣờng


19
khơng có chức vụ. Đồn kết giữa cán bộ và chiến sĩ. Họp cán bộ và công nhân
nhà máy. Làm cán bộ Đồn thanh niên.”[27, tr.207].
Riêng Luật Cán bộ, Cơng chức đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII thơng qua đã nêu rõ: “Cán bộ là công dân Việt Nam,
đƣợc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong
cơ quan Đảng, nhà nƣớc, tổ chức chính trị xã hội Trung ƣơng, tỉnh, huyện, thị xã
trong biên chế và đƣợc hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc.” Hay “Cán bộ xã,
phƣờng, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, đƣợc bầu
cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thƣờng trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Bí thƣ, Phó Bí thƣ Đảng ủy, ngƣời đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam đƣợc tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hƣởng
lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc.”[26]
Nhƣ vậy, khái niệm cán bộ có thể hiểu: Cán bộ là ngƣời lãnh đạo, quản
lý hoặc ngƣời làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm

việc, hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc hoặc từ các nguồn khác nhau. Họ
đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
Còn cán bộ cấp cơ sở là công dân Việt Nam đƣợc bầu cử, bổ nhiệm giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thƣờng trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,
Bí thƣ, Phó Bí thƣ Đảng ủy, ngƣời đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ
sở trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc, bao gồm cán bộ
chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động làm việc công để thực hiện chức trách đƣợc giao, bao gồm: Cán bộ giữ
chức vụ qua bầu cử và cán bộ chuyên môn đƣợc Ủy ban nhân dân tuyển chọn;
đội ngũ này có chế độ làm việc và đƣợc hƣởng chính sách về cơ bản nhƣ cán bộ
nhà nƣớc. Cán bộ cơ sở có đủ điều kiện đƣợc thi tuyển vào ngạch công chức ở


20
cấp trên. Cán bộ không chuyên trách ở cấp cơ sở là những ngƣời không làm
công việc thƣờng xuyên, liên tục, không hƣởng lƣơng từ ngân sách của nhà
nƣớc. Những ngƣời này họ đƣợc hƣởng phụ cấp hàng tháng do Uỷ ban nhân dân
tỉnh quyết định.
Cán bộ cấp cơ sở là ngƣời giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá
sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nƣớc về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội ở cơ sở; là ngƣời giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ chức thực
hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và mọi chủ trƣơng, kế
hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng nhƣ mọi chƣơng trình, kế
hoạch của chính quyền; là cầu nối quan trọng nhất giữa Đảng, Nhà nƣớc với
nhân dân; giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc đẩy phong trào
cách mạng của quần chúng ở cơ sở.
Hiện nay, đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và xây dựng nơng thơn mới, trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi
mới nhƣng cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới. Nhiệm vụ chính trị rất nặng
nề, phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề cho cơng tác cán bộ và đào tạo cán bộ. Địi hỏi

toàn Đảng, toàn dân phải xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ cơ sở ngang tầm, có bản
lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, có năng lực thực tiễn góp phần thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ những phân tích trên ta thấy cán bộ cấp cơ sở có vị trí, vai trị và
những đặc điểm cơ bản:
Cán bộ cấp cơ sở là những ngƣời gần dân, sát dân, biết dân, trực tiếp triển
khai đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến nhân dân, gắn
bó với nhân dân. Nhƣ khi luận bàn về vị trí, vai trị của cán bộ lãnh đạo đối với
sự nghiệp cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen là những ngƣời đặt nền móng cho
sự phát triển lý luận và thực tiễn về công tác cán bộ của giai cấp vô sản. Hai ông
không chỉ là những ngƣời sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn là


21
những ngƣời đem lý luận khoa học kết hợp với phong trào công nhân, lập nên tổ
chức cộng sản đầu tiên trên thế giới. Giai cấp vơ sản và chính đảng của mình
muốn giành đƣợc quyền lãnh đạo, giữ vững chính quyền cần phải xây dựng
đƣợc một đội ngũ cán bộ thật trung thành và tài năng mới đáp ứng đƣợc nhiệm
vụ cách mạng của mình. Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội lồi ngƣời và từ
chính q trình truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác đã
khẳng định: "Muốn thực hiện tƣ tƣởng thì cần có những con ngƣời sử dụng lực
lƣợng thực tiễn"[19, tr.181]. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng đang
ở thời kỳ Đảng chƣa nắm chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chƣa bàn nhiều
về vấn đề cán bộ. Nhƣng hai ông rất quan tâm đến việc xây dựng một đội ngũ
những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tƣ tƣởng cộng sản; lãnh đạo, tổ chức
các phong trào đấu tranh của giai cấp vơ sản, trên cơ sở đó, kết hợp với phong
trào cơng nhân để lập ra chính đảng của giai cấp công nhân. Theo quan điểm của
hai ông, cán bộ là những ngƣời tiêu biểu cho phong trào cách mạng; có tri thức
và trình độ nhận thức cao, biết kết hợp, vận dụng lý luận cách mạng với thực
tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng, lãnh đạo quần chúng thực

hiện các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ phải là những ngƣời tuyệt đối
trung thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động, có trách
nhiệm cao và đƣợc quần chúng noi theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tƣ tƣởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về
Đảng của giai cấp công nhân, V.I. Lênin đã đề ra những quan điểm quan trọng
về cán bộ trong quá trình xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Theo
V.I. Lênin, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trƣớc hết là ở chỗ đảm bảo tổ
chức thực hiện thắng lợi đƣờng lối chính trị của Đảng. Bởi vì, họ vừa là ngƣời
xây dựng đƣờng lối, vừa tiến hành lựa chọn phƣơng pháp chỉ đạo, tổ chức thực
hiện và kiểm tra quá trình vận động cách mạng, hƣớng tới mục tiêu đã đề ra. Vì
thế, V.I.Lênin nhấn mạnh: đƣờng lối, chính sách của Đảng đƣợc thực hiện thơng


22
qua con ngƣời, khi chính sách và nhiệm vụ cụ thể đƣợc vạch ra một cách đúng
đắn thì kết quả của cơng việc hồn tồn do cơng tác tổ chức và đội ngũ cán bộ
quyết định. V.I.Lênin coi việc lựa chọn, bố trí và bồi dƣỡng, rèn luyện cán bộ là
những vấn đề mấu chốt trong tồn bộ cơng tác cán bộ của đảng cộng sản cầm
quyền và ông cũng khẳng định "trong lịch sử, chƣa hề có một giai cấp nào giành
đƣợc quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra đƣợc, trong hàng ngũ của mình,
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào"[18, tr.473]. Để đấu tranh giành chính quyền thì vấn đề cán bộ
đặc biệt đƣợc coi trọng. Khi có chính quyền, vấn đề cán bộ càng quan trọng và
cấp bách hơn. V.I. Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động Nga, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức và lãnh đạo
Cách mạng tháng Mƣời Nga giành thắng lợi to lớn. Khi giành đƣợc chính
quyền, Đảng kiểu mới của V.I. Lênin trở thành Đảng cầm quyền. Lúc này, vấn
đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Ở giai đoạn này, nhiệm vụ
mới vơ cùng khó khăn của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân là quản lý nhà
nƣớc, quản lý kinh tế, xã hội nhằm xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã

hội chủ nghĩa. V.I. Lênin yêu cầu đội ngũ cán bộ phải nỗ lực cao hơn thời nội
chiến để hoàn thành sứ mệnh mới là quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội. V.I.Lênin
khẳng định: "Nghiên cứu con ngƣời, tìm ra cán bộ có bản lĩnh; hiện nay đó là
then chốt, nếu khơng thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy
lộn"[18, tr.449]. Để có đƣợc đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là
lĩnh vực quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, V.I. Lênin
đã coi trọng công tác đào tạo, bồi dƣỡng, lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các cƣơng
vị công tác, thƣờng xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ, chú ý giáo
dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho
cán bộ, chống bệnh quan liêu, xa dân, kiêu ngạo, thối hóa, biến chất.


23
Kế thừa quan điểm, tƣ tƣởng của C.Mác, V.I.Leenin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, ngƣời thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng nƣớc ta, luôn coi trọng công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đƣa cả nƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngƣời coi: "Cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc"[20, tr.269]. Vai trị của ngƣời
cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đƣợc thể hiện trong bốn mối quan hệ chủ
yếu: cán bộ với đƣờng lối chính sách, cán bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với
công việc và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của Ngƣời, cán bộ không
chỉ là ngƣời vạch ra đƣờng lối mà cịn là ngƣời có vai trò quyết định trong việc
tổ chức thực hiện đƣờng lối. Ngƣời nói: “Cán bộ là ngƣời đem chính sách của
Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng”[20, tr.269]; "Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng
tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, tồn bộ máy cũng tê liệt"[20, tr.54];
“Mn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[20, tr.273]. Nếu

có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đƣờng lối sẽ đúng đắn, là điều
kiện tiên quyết để đƣa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Cịn khơng có đội
ngũ cán bộ tốt thì dù có đƣờng lối, chính sách đúng thì cũng khó biến thành hiện
thực. Ngƣời cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng, nhƣng
khơng phải là “vật mang”, là “dây dẫn”, là “chuyển tải cơ học” mà chính là con
ngƣời có đủ tƣ chất, tài năng và đạo đức để làm việc đó. Bỡi lẽ, đem chính sách
của Đảng và Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đòi hỏi
ngƣời cán bộ phải có đủ trình độ, trí tuệ nhất định. Nếu khơng trong q trình
thực hiện nhiệm vụ, ngƣời cán bộ sẽ làm sai lệch tinh thần, nội dung của đƣờng
lối, chính sách và khi đó thật là nguy hiểm. Việc truyền đạt, giải thích và triển
khai thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nƣớc là một việc khó khăn, nhƣng
khó khăn và phức tạp hơn nhiều là nắm chắc tình hình, tâm tƣ, nguyện vọng


×