Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường dự bị đại học dân tộc sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.48 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________

ĐỖ THỊ LÝ

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG DỰ BỊ
ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2016


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________

ĐỖ THỊ LÝ

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG DỰ BỊ
ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN

Chuyên ngành: LL& PPDH Bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60. 14.01.11



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM THỊ BÌNH

NGHỆ AN - 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh dưới sự hướng
dẫn của cô giáo TS. Phạm Thị Bình, nhân dịp này tơi xin bày tỏ lịng biết ơn
chân thành tới cơ - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt quá
trình học tập cũng như quá trình viết luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn và lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Khoa Giáo dục
chính trị, Phịng Đào tạo sau đại học Trường Đại học Vinh cùng các thầy cô đã
trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tơi hồn thành khóa học. Tôi cũng xin được gửi
lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu Trường Dự bị Đại học dân tộc Sầm Sơn,
các thầy, cô giáo trong Trường đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tơi có thể
hồn thành tốt luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
ln bên tơi, động viên và khuyến khích tơi trong q trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng chắc chắn luận văn sẽ
khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong sự chỉ dẫn góp ý của các
thầy, cơ giáo, các nhà khoa học, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 8 năm 2016
Tác giả


Đỗ Thị Lý


3
MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ ............................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 2
MỤC LỤC ............................................................................................................ 3
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ............................................................... 4
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 5
B. NỘI DUNG...................................................................................................... 13
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ
LÊN LỚP Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN ........................ 13
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc ................. 13
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thơng
qua hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc
Sầm Sơn ......................................................................................................... 40
Chương 2. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN .......................................... 51
2.1. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 51
2.2. Quá trình thực nghiệm ............................................................................. 52
2.3. Kiểm tra, đánh giá sau thực nghiệm ........................................................ 67
Chương 3. QUY TRÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THƠNG QUA HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC NGỒI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN

TỘC SẦM SƠN ......................................................................................... 75
3.1. Quy trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thơng qua hoạt động giáo
dục ngồi giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn ................... 75
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân
tộc Sầm Sơn .................................................................................................... 81
C. KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95
D. DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................... 98
E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 99
F. PHỤ LỤC ......................................................................................................... 103


4
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

DBĐHDT

:

Dự bị Đại học dân tộc

DTTS

:


Dân tộc thiểu số

KNS

:

Kỹ năng sống

NGLL

:

Ngoài giờ lên lớp

UNICEF

:

Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc

UNESCO

:

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc

WHO

:


Tổ chức Y tế thế giới


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH) đất nước thì vấn
đề phát triển nguồn nhân lực là vơ cùng quan trọng. Con người mới trong thời kì
CNH, HĐH ngồi việc nắm vững tri thức, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ,
có phẩm chất đạo đức tốt cần phải có kĩ năng sống (KNS), kĩ năng hồ nhập.
Nền giáo dục nước ta cũng đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột
của giáo dục thế kỷ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận KNS, đó là: Học để biết,
học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.
Giáo dục KNS nói chung và giáo dục KNS phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của học sinh nói riêng là điều rất quan trọng. Cuộc sống ngày càng rủi ro
và phức tạp bởi sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, tất cả những điều đó
đều ảnh hưởng một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đến con người sống trong xã
hội và mức độ ảnh hưởng đáng lưu tâm nhất là học sinh, đặc biệt với học sinh
dân tộc thiểu số (DTTS), bởi đây là đối tượng mà KNS còn hạn chế do bị chi
phối bởi nhiều nguyên nhân như: môi trường sống, điều kiện kinh tế, phong tục
tập quán, đặc điểm tâm lý.
Thực tế cho thấy, tình trạng học sinh thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu hiện qua
hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình
huống trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công cộng;
thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ
mơi trường, giữ gìn vệ sinh cơng cộng, gây phiền hà cho người khác khi sử dụng
điện thoại di động; tình trạng bạo lực học đường, học sinh có lối sống lệch lạc,
bỏ học, vi phạm pháp luật… ngày càng gia tăng. Có nhiều ngun nhân khác
nhau dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu KNS,
chưa được tiếp cận với chương trình giáo dục KNS nên học sinh phổ thơng nói

chung, học sinh DTTS nói riêng cịn thiếu hụt những KNS cần thiết. Chính vì


6
thiếu KNS nên nhiều học sinh đã giải quyết các vấn đề gặp phải một cách tiêu
cực dẫn đến rủi do và các tệ nạn xã hội.
Có thể nói KNS của học sinh được hình thành qua nhiều con đường như
thông qua hoạt động học tập và giảng dạy, các sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoại
khóa, chương trình phối hợp giữa Nhà trường và các tổ chức xã hội cũng như
các hoạt động khác. Nhưng một trong con đường có tác động nhiều và ảnh
hưởng đến sự hình thành KNS cho học sinh là hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp (NGLL). Hoạt động giáo dục NGLL có liên quan đến việc mở rộng kiến
thức, tình cảm, tư tưởng, thể chất và tinh thần của học sinh. Việc kết hợp học tập
và rèn luyện kỹ năng thực hành giúp học sinh hiểu sâu hơn, nắm được bản chất
các sự vật hiện tượng, tạo niềm tin khoa học, óc sáng tạo trong giải quyết các
vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống sau này.
Hơn nữa, hoạt động giáo dục NGLL còn tạo điều kiện cho học sinh tiếp
xúc và trải nghiệm các vấn đề được đặt ra trong thực tiễn giúp các em có khả
năng ứng phó với những tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người xung quanh, sống tích cực, chủ động
và lành mạnh. Thế nhưng hoạt động giáo dục KNS trong các nhà trường hiện
nay chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Nội dung, hình thức tổ chức
các hoạt động giáo dục KNS chưa đa dạng, phong phú, chưa thu hút học sinh
tham gia.
Trường Dự bị đại học dân tộc (DBĐHDT) Sầm Sơn là trường chuyên biệt
thuộc hệ thống các trường đại học. Nhiệm vụ của Trường là bổ túc, nâng cao
trình độ văn hóa cho học sinh DTTS đã tốt nghiệp trung học phổ thơng, trung
học bổ túc để có đủ kiến thức vào học các trường đại học, cao đẳng. Thực tiễn
dạy và học ở trường DBĐHDT Sầm Sơn cho thấy, trình độ của học sinh dân tộc
cịn hạn chế nhiều mặt như chất lượng đầu vào còn thấp, trình độ văn hóa chung

chưa cao, cịn hạn chế về các kỹ năng. Học sinh DBĐHDT Sầm Sơn hầu hết là
con em các DTTS từ vùng sâu, vùng xa xuống học tập và sinh hoạt tập thể mang


7
theo rất nhiều tập tục lạc hậu, nhiều thói quen sinh hoạt còn chưa văn minh,
thiếu kinh nghiệm thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ
năng ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống...
Trong nền kinh tế tri thức như hiện nay đòi hỏi thế hệ trẻ là người dân
tộc không chỉ làm chủ tri thức, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng
miền mà cịn phải thực sự tự tin và có những kỹ năng nhất định nhằm thích ứng
với những biến động của hoàn cảnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, việc tổ chức các hoạt động giáo dục NGLL ở Trường DBĐHDT Sầm
Sơn chưa có chiều sâu đặc biệt là việc giáo dục KNS thông qua hoạt động giáo
dục NGLL chưa đạt được hiệu quả mong muốn; kỹ năng thực hành của một số
học sinh trong các hoạt động thường ngày chưa tốt; một số giáo viên còn lơ là,
xem nhẹ vai trò của nội dung giáo dục này dẫn đến chưa nhiệt tình, năng nổ
trong việc phối hợp thực hiện. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn
vấn đề: “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thơng qua hoạt động giáo dục
ngồi giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn” làm đề tài
nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học bộ
môn Giáo dục chính trị.
Có nhiều cơng trình khoa học, cuốn sách và đề tài luận văn Thạc sĩ, luận
án Tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề KNS và giáo dục KNS. Qua bước đầu tìm hiểu,
chúng tơi thấy:
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ KNS đã xuất hiện trong một
số chương trình giáo dục của UNICEF, trước tiên là chương trình “giáo dục
những giá trị sống” với 12 giá trị cơ bản cần giáo dục cho thế hệ trẻ. Những
nghiên cứu về KNS trong giai đoạn này mong muốn thống nhất một quan điểm
chung về KNS cũng như đưa ra một bảng danh mục các KNS cơ bản mà thế hệ

trẻ cần có.
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ chương trình
của UNICEF (1996) giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống


8
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường. Thơng qua q trình
thực hiện chương trình này, nội dung của khái niệm KNS và giáo dục KNS ngày
càng được mở rộng.
Khái niệm KNS thực sự được hiểu với nội hàm đầy đủ và đa dạng sau Hội
thảo Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống do UNESCO tài trợ được tổ chức từ
ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. Từ đó, những người làm
cơng tác giáo dục ở Việt Nam đã hiểu đầy đủ hơn về khái niệm KNS và trách
nhiệm giáo dục KNS cho người học.
Năm học 2010 - 2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có cơng văn số
453/KH-BGDĐT ngày 30/07/2010 về việc tăng cường thực hiện giáo dục KNS
trong tất cả các bậc học. Theo chủ trương này, Bộ đã cho phép thực hiện biên
soạn và xuất bản bộ tài liệu về tích hợp giáo dục KNS qua dạy học các môn học
ở cả ba cấp học phổ thông. Trong các tài liệu này, các tác giả đã nêu khá rõ khái
niệm, các cách phân loại, nguyên tắc, phương pháp tiếp cận, quy trình để giáo
dục KNS, đồng thời chỉ ra nội dung KNS được tích hợp trong các mơn học ở
nhà trường và đưa ra những hướng dẫn cụ thể để giáo viên trong trường phổ
thơng có thể thực hiện được tốt việc đưa giáo dục KNS vào tích hợp giảng dạy
trong các môn học ở nhà trường. Tuy nhiên, các hướng dẫn của Bộ được đưa ra
trong các tài liệu này mới chỉ đề cập đến những vấn đề chung, cơ bản về KNS và
giáo dục KNS cho tất cả các cấp học phổ thông ở tất cả các khu vực, địa bàn trên
cả nước, chưa có những hướng dẫn, chương trình cụ thể cho việc giáo dục KNS
trong các nhà trường cho các đối tượng học sinh khác nhau ở các khu vực sinh
sống khác nhau. Nhất là đối với đối tượng học sinh DTTS.
Ngày 28/7/2013, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển

đã ký duyệt Kế hoạch số 1088/KH-BGDĐT về hoàn thiện bộ tài liệu giáo dục
KNS trong một số môn học và hoạt động giáo dục cấp tiểu học, trung học cơ sở
và trung học phổ thơng trên tồn quốc với mục tiêu nâng cao chất lượng và đảm
bảo tính thiết thực của bộ tài liệu theo ý kiến góp ý của các cán bộ quản lý giáo


9
dục các cấp và giáo viên trực tiếp giảng dạy; bổ sung nội dung hướng dẫn đánh
giá kết quả giáo dục KNS và bộ công cụ đánh giá KNS theo từng môn học và
hoạt động giáo dục.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung
ương về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH
- HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Nội dung Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục đang chuyển
hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần
thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó cũng khẳng định thêm tầm quan
trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục KNS vào trường học cùng các môn học
và các hoạt động giáo dục.
Một trong những người đầu tiên nghiên cứu mang tính hệ thống về KNS
và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình, với hàng loạt các
bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học, giáo trình, tài liệu tham khảo…Tác giả
là người đã tạo ra nhiều hướng nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS ở Việt
Nam. Trong đó có các tác phẩm tiêu biểu như: Giáo trình giáo dục kỹ năng
sống, Xây dựng và thực nghiệm một số chủ đề giáo dục KNS cơ bản cho học
sinh THPT…
Tài liệu tập huấn, bồi dưỡng giáo viên tập 1, tập 2 (2010) của Nguyễn Thị
Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa về giáo dục giá trị và KNS cho học sinh phổ
thông đã làm rõ hơn một số vấn đề lý luận liên quan đến giá trị và KNS và
những nội dung cơ bản của giáo dục KNS cho học sinh. Đồng thời, các tác giả
cũng đưa ra quy trình tổ chức hoạt động và cấu trúc bài soạn về giáo dục KNS

cho học sinh phổ thơng.
Tài liệu tập huấn tích hợp giáo dục KNS trong chương trình giáo dục
thường xuyên cấp trung học phổ thông môn Giáo dục công dân (2014) của Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã cung cấp những lý luận chung về KNS và tầm quan


10
trọng của việc giáo dục KNS, định hướng giáo dục KNS cho học viên trung tâm
giáo dục thường xuyên.
Luận án Tiến sĩ của Phan Thanh Vân với đề tài “Giáo dục KNS cho học
sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”
(2010) đã khai thác được thế mạnh của hoạt động giáo dục NGLL để giáo dục
KNS cho học sinh trong nhà trường. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất được các
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục KNS cho học sinh trung học phổ
thông qua hoạt động giáo dục NGLL.
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Thu Hằng về vấn đề giáo dục KNS cho
học sinh DTTS khu vực miền núi Phía Bắc Việt Nam qua các mơn tự nhiên và xã
hội, khoa học (2013). Nội dung của đề tài đã nêu rõ việc giáo dục KNS cho học
sinh tiểu học người DTTS thông qua dạy học các môn tự nhiên và xã hội, khoa
học. Đồng thời tác giả đã đề xuất được hai giải pháp nhằm giúp học sinh tìm
kiếm tri thức, nâng cao KNS và cải thiện chất lượng giáo dục KNS.
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Trường Nguyên (2013) với đề tài “Quản lý
hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở các trường
trung học cơ sở trong bối cảnh hiện nay”. Nội dung của đề tài đã làm rõ thực
trạng giáo dục KNS và một số biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng giáo
dục KNS thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở các trường trung học cơ sở
trong bối cảnh hiện nay.
Luận văn Thạc sỹ của Hoàng Thị Hiền với đề tài “Quản lý giáo dục KNS
cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở các trường phổ thông dân
tộc nội trú trung học cơ sở tỉnh Tuyên Quang” (2014). Đề tài đã đề xuất được

một số biện pháp quản lý nhằm nâng có chất lượng hoạt động giáo dục KNS cho
học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của Nhà trường.
Như vậy, vấn đề KNS và giáo dục KNS đã được nghiên cứu và đang tiến
hành triển khai rộng rãi tới tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Nhìn chung, cơ
sở lý luận về KNS và giáo dục KNS đã được hình thành khá rõ. Tuy nhiên, vấn


11
đề đi sâu nghiên cứu về từng kỹ năng để làm rõ bản chất, các dấu hiệu đặc thù
của từng KNS, các biện pháp cơ bản để hình thành rèn luyện từng KNS. Nội
dung và biện pháp giáo dục KNS cho một số đối tượng giáo dục khác nhau như
học sinh ở nông thôn, thành thị, miền núi, DTTS... chưa được sáng tỏ.
Từ những phân tích và đánh giá ở trên có thể khẳng định: Các cơng trình
nghiên cứu nói trên đã đi sâu phân tích về vai trị của KNS và giáo dục KNS
dưới nhiều góc độ khác nhau. Nội dung và kết quả nghiên cứu đó cũng là những
điểm nhìn tham chiếu q báu cho chúng tơi trong quá trình triển khai nội dung
luận văn của mình. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa thực sự có một cơng trình
nào có được cách nhìn nhận, đánh giá cách sâu rộng, toàn diện về KNS và giáo
dục KNS cho học sinh Trường DBĐHDT Sầm Sơn để từ đó đề xuất một hệ
thống giải pháp có tính thiết thực khoa học, đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục KNS cho học sinh DBĐHDT Sầm Sơn. Do đó, chúng tơi cho
rằng đề tài đã lựa chọn có tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đề xuất các giải pháp giáo dục KNS cho học sinh thông qua
hoạt động giáo dục NGLL ở Trường DBĐHDT Sầm Sơn nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác giáo dục KNS và tạo cơ hội giúp học sinh nâng cao KNS.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác giáo dục KNS cho
học sinh thông qua hoạt động NGLL ở Trường DBĐHDT Sầm Sơn.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục KNS cho học sinh

thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở Trường DBĐHDT Sầm Sơn.
- Thực nghiệm sư phạm về giáo dục KNS cho học sinh thông qua hoạt
động giáo dục NGLL ở Trường DBĐHDT Sầm Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
KNS cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở Trường DBĐHDT
Sầm Sơn.


12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục KNS cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục NGLL
ở Trường DBĐHDT Sầm Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh trường DBĐHDT Sầm Sơn.
Nghiên cứu q trình giáo dục KNS cho học sinh thơng qua hoạt động
giáo dục NGLL trong năm học 2015 - 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài
sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết,
phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp điều tra bằng
phiếu hỏi, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp…
6. Giả thuyết khoa học
Việc giáo dục KNS hiện nay tại các Trường DBĐHDT nói chung và
Trường DBĐHDT Sầm Sơn nói riêng cịn nhiều hạn chế. Nếu đề xuất được các
giải pháp giáo dục KNS cho học sinh trường DBĐHDT phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý lứa tuổi thì sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục KNS.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo
luận văn bố cục gồm ba chương, 7 tiết



13
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thơng
qua hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Kỹ năng sống
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ chương trình
của UNICEF (1996) thơng qua Dự án “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và
phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do
Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cùng thực hiện. Thơng qua q trình thực hiện
chương trình này, nội dung của khái niệm KNS và giáo dục KNS ngày càng
được mở rộng. Cho đến nay, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau, dựa trên
các quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về KNS. Tuy nhiên, cho đến nay khái
niệm này vẫn nằm trong tình trạng chưa có một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), “KNS là khả năng để có hành vi thích
ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày” [9, tr.7].
Quan niệm này nhấn mạnh khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái
tinh thần và biết thích nghi tích cực khi tương tác với người khác và với mơi
trường của mình. Quan niệm này mang tính khái quát nhưng chưa thể hiện rõ
các kĩ năng cụ thể.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), “KNS là cách tiếp cận

giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý sự cân bằng


14
về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng” [9, tr.7]. Vì kỹ năng khơng
hình thành, tồn tại một cách độc lập mà hình thành, tồn tại trong mối tương tác
mật thiết và có sự cân bằng với kiến thức và thái độ.
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), “KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm các kỹ
năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn
đề, nhận thức được hậu quả…; Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân như: kỹ
năng ứng phó với căng thẳng, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng tự nhận
thức,…; Học để sống với người khác gồm các kỹ năng xã hội như: kỹ năng giao
tiếp thương lượng, kỹ năng tự khẳng định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc
theo nhóm, kỹ năng thể hiện sự cảm thông,…; Học để làm gồm các kỹ năng
thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng đạt mục tiêu, kỹ năng đảm
nhận trách nhiệm…” [9. tr.7-8].
Như vậy, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết
cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kỹ năng tự quản
lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học
tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của
mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Từ các quan niệm về KNS nêu trên có thể thấy: Khái niệm KNS được sử
dụng rộng rãi cho mọi lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, tùy theo cách tiếp cận vấn đề. KNS được hiểu theo
nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lí xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS
không chỉ bao gồm năng lực tâm lí xã hội mà cịn bao gồm cả những kĩ năng
tâm vận động. Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau nhưng điểm
thống nhất trong các quan niệm đều khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng

lực chứ không thuộc phạm trù kỹ thuật của hành động, hành vi.


15
Với phân tích nêu trên, chúng tơi sử dụng khái niệm KNS trong nghiên
cứu đó là: Khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách
cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm sốt, quản lí có hiệu quả các
nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
KNS có nhiều tên gọi khác nhau như: Kỹ năng tâm lý xã hội, kỹ năng cá
nhân, lĩnh hội và tư duy. Một kỹ năng có thể có những tên gọi khác nhau như:
kỹ năng hợp tác còn gọi là kỹ năng làm việc theo nhóm; kỹ năng kiểm sốt cảm
xúc cịn gọi là kỹ năng xử lý cảm xúc, kỹ năng làm chủ cảm xúc…; Kỹ năng
thương lượng còn gọi là kỹ năng đàm phán, kỹ năng thương thuyết…
KNS không tự nhiên có được mà phải hình thành dần dần trong quá trình
học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra
cả trong và ngồi hệ thống giáo dục. KNS vừa mang tính cá nhân vừa mang tính
xã hội. Bởi vì, KNS là khả năng của cá nhân nhưng phụ thuộc vào các giai đoạn
phát triển lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa của gia
đình, cộng đồng, dân tộc.
1.1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Ở cấp độ nhà trường,
khái niệm giáo dục chỉ quá trình giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo
nghĩa hẹp) được thực hiện thơng qua các hoạt động giáo dục. Đó là những hoạt
động do các cơ sở giáo dục tổ chức, thực hiện theo kế hoạch, chương trình giáo
dục và trực tiếp điều hành, chịu trách nhiệm về chúng.
Giáo dục KNS là trang bị cho người học những kiến thức, thái độ, giá trị
và tạo cơ hội cho họ rèn luyện, trải nghiệm trong cuộc sống thực tiễn từ đó giúp
họ có thể làm chủ bản thân, ứng xử tích cực với mọi người xung quanh và ứng
phó, giải quyết có hiệu quả các tình huống, vấn đề trong cuộc sống. Vì vậy, giáo
dục KNS thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở nhà trường là quá trình tổ chức

các hình thức hoạt động nhằm giúp người học vừa chiếm lĩnh được kiến thức
vừa rèn luyện để có được những KNS nhất định.


16
UNICEF và UNESCO cũng quan niệm rằng, giáo dục KNS khơng phải là
lĩnh vực hay mơn học nhưng nó được áp dụng lồng ghép vào các kiến thức, giá
trị và kỹ năng quan trọng trong quá trình phát triển của cá nhân và học tập suốt
đời. Có thể nói, giáo dục KNS được xem như là một cách tiếp cận giáo dục
nhằm mục đích giúp con người có những khả năng tâm lý để tương tác với
người khác và giải quyết những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng
ngày một cách có hiệu quả.
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kĩ năng, giá trị cá nhân thích hợp
với thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục KNS là làm thay đổi hành vi
của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả
tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để
nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững.
Vì vậy, giáo dục KNS cho học sinh được hiểu là giáo dục những kỹ năng mang
tính cá nhân và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình biết
(nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá
trị) thành những khả năng thực thụ giúp học sinh biết phải làm gì và làm như thế
nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
Có bốn con đường giáo dục KNS cho học sinh: Có thể tích hợp giáo dục
KNS thông qua khai thác tiềm năng giáo dục trong nội dung mơn học, qua
phương pháp dạy học tích cực khuyến khích sự tương tác, cùng tham gia, tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo... của học sinh; Giáo dục thông qua các chủ đề chuyên
biệt về KNS dưới hình thức hoạt động NGLL của các tổ chức Đồn thanh niên,
câu lạc bộ; Giáo dục KNS qua tiếp cận 4 trụ cột: Học để biết (Kỹ năng nhận

thức); Học để làm (Các kỹ năng thực tiễn); Học để cùng chung sống (Các kỹ
năng xã hội); Học để tự khẳng định bản thân (Các kỹ năng cá nhân); Thông qua
tham vấn trực tiếp với cá nhân hoặc nhóm học sinh.


17
Giáo dục KNS thông qua hoạt động giáo dục NGLL cho học sinh có ý
nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống nói chung và chính bản thân các em nói
riêng. KNS là cây cầu nối giúp cho con người vượt qua những bến bờ của thử
thách, ứng phó với những thay đổi của cuộc sống hàng ngày. Qua đó, giúp mỗi
con người xác định rõ giá trị của bản thân và tập thể, sống tự tin và có trách
nhiệm với chính mình và xã hội. Khi học sinh được trang bị những KNS cần
thiết giúp cho các em có thể giải quyết tốt các nhiệm vụ học tập, rèn luyện đặt ra
trong cuộc sống hàng ngày, giúp các em tự chủ, tự tin, mạnh dạn trong cuộc
sống. Giáo dục KNS giúp các em có thể sống an tồn mạnh khoẻ trong xã hội
ln ln biến đổi.
1.1.1.3. Hoạt động ngồi giờ lên lớp
* Khái niệm hoạt động giáo dục NGLL:
Hoạt động giáo dục NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là
con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động. Đây là điều kiện thuận lợi để học sinh củng cố và khắc sâu kiến thức
các môn học, mở rộng và nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội,
làm phong phú hơn vốn tri thức kinh nghiệm hoạt động tập thể, góp phần hình
thành tình cảm, niềm tin và sự phát triển nhân cách tồn diện cho học sinh.
Theo T.A.Ilina: “Cơng tác giáo dục học sinh ngồi giờ học thường được
coi là cơng tác giáo dục ngoại khóa. Cơng tác này bổ sung và làm giàu thêm
cơng tác giáo dục nội khóa. Trước tiên là phương tiên để phát hiện đầy đủ tài
năng và năng lực của trẻ em, làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của học
sinh đối với một hoạt động nào đó; đó là một hình thức tổ chức việc thực tập về
hành vi đạo đức, để xây dựng kinh nghiệm của hành vi này” [19, tr.61-62].

Tác giả Đặng Vũ Hoạt quan niệm: “Hoạt động giáo dục NGLL là việc tổ
chức giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học - kỹ
thuật, lao động cơng ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa nghệ


18
thuật, thẩm mỹ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí… để giúp các em hình thành
và phát triển nhân cách” [16, tr.7].
Theo quan điểm của chúng tôi: Hoạt động giáo dục NGLL là hoạt động có
mục đích, có kế hoạch được tổ chức ngoài thời gian học tập trên lớp. Đây là hoạt
động tiếp nối và thống nhất hữu cơ với các hoạt động học tập trên lớp, nhằm góp
phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo đáp ứng
những yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệ trẻ, đặc biệt đáp ứng yêu cầu
tạo nguồn đào tạo cán bộ cho khu vực miền núi.
* Mục tiêu, vị trí, nhiệm vụ của hoạt động giáo dục NGLL:
Mục tiêu: Nhằm củng cố và mở rộng kiến thức cơ bản, phổ thông mà
học sinh đã học trên lớp, đồng thời mở rộng vốn sống, vốn hiểu biết thực tiễn
của học sinh; Rèn luyện các kỹ năng cơ bản phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa
tuổi như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng tư duy, tự
quản, tổ chức, giao lưu, hoạt động xã hội… Hình thành và củng cố hệ thống
thái độ đúng đắn, phẩm chất đạo đức trong sáng, có cảm xúc, tình cảm đối với
con người, quê hương đất nước, với nghĩa vụ công dân tương lai, với Đảng,
với dân tộc.
Vị trí: Hoạt động giáo dục NGLL là một bộ phận cấu thành trong hoạt
động động dạy học giáo dục. Trong quá trình giáo dục, ngồi việc hình thành
cho học sinh ý thức, hành vi, kỹ năng hoạt động và ứng xử trong các quan hệ xã
hội về chính trị, đạo đức, pháp luật… còn phải tạo cơ sở cho các em bổ sung và
hồn thiện những tri thức đã học trên lớp. Vì vậy, q trình giáo dục khơng chỉ
được thực hiện qua các hoạt động giáo dục trên lớp mà còn qua các hoạt động
giáo dục NGLL.

Kết quả giáo dục cuối cùng được đánh giá qua hành vi, kỹ năng của học
sinh. Quá trình học tập trên lớp, việc hình thành hành vi, kỹ năng gặp rất nhiều
khó khăn do hạn chế về thời gian và tình huống thực tế và học sinh khó có khả
năng thể nghiệm tri thức thu nhận được qua các bài học. Vì vậy, việc nhà trường


19
tổ chức các hoạt động vào thời gian NGLL là điều kiện để hình thành thái độ,
hành vi và rèn luyện KNS cho học sinh.
Nhiệm vụ của hoạt động giáo dục NGLL: Giúp học sinh bổ sung, củng
cố và hoàn thiện những tri thức đã được học trên lớp, đồng thời giúp các em có
những hiểu biết mới đặc biệt là những vấn đề có tính chất thời đại như: bảo vệ
mơi trường, dân số, hịa bình thế giới… Hoạt động giáo dục NGLL giúp học
sinh có điều kiện để vận dụng tri thức đã học vào hoạt động hằng ngày, biết tự
điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống cho phù hợp, từng bước làm giàu thêm
những kinh nghiệm thực tế xã hội cho học sinh. Thông qua hoạt động giáo dục
NGLL cịn giúp học sinh định hướng chính trị xã hội, có những hiểu biết nhất
định về truyền thống đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của đất nước. Từng bước hình thành cho
học sinh niềm tin vào chế độ xã hội, vào tương lai của đất nước từ đó các em
có lịng tự hào dân tộc, mong muốn làm đẹp truyền thống của trường, quê
hương đất nước.
Hoạt động giáo dục NGLL xây dựng cho học sinh lối sống phù hợp với
đạo đức, pháp luật, truyền thống tốt đẹp của địa phương và đất nước, bồi dưỡng
cho học sinh tính tích cực, năng động sẵn sàng tham gia vào các hoạt động xã
hội, hoạt động tập thể vì lợi ích chung và sự tiến bộ của bản thân.
Hoạt động giáo dục NGLL rèn luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng tự quản, tự giáo giáo dục, tự điều chỉnh, hòa nhập để thực hiện các nhiệm
vụ do thầy cô hoặc tập thể lớp giao.
Như vậy, hoạt động NGLL thực sự rất cần thiết và có nhiều khả năng giáo

dục KNS thơng qua việc chuyển tải các nội dung của hoạt động giáo dục NGLL
bằng các hình thức, phương pháp tích cực theo định hướng tiếp cận sẽ rất có
hiệu quả trong thực tiễn giáo dục ở nhà trường.


20
1.1.2. Giáo kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc
1.1.2.1. Vai trò của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Dự bị đại học dân tộc
Hoạt động giáo dục NGLL là hoạt động được tổ chức theo mục tiêu, nội
dung, chương trình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bản chất của hoạt động
này là thơng qua các loại hình hoạt động, các mối quan hệ nhiều mặt, nhằm giúp
người học chuyển hoá một cách tự giác, tích cực tri thức thành niềm tin, kiến
thức thành hành động, biến yêu cầu của nhà trường thành chương trình hành
động của tập thể lớp học sinh và của cá nhân học sinh tạo cơ hội cho học sinh
trải nghiệm tri thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng xử của mình trong mơi
trường an tồn, thân thiện có định hướng giáo dục.
Thơng qua hoạt động NGLL có thể giúp học sinh sống một cách an tồn,
khoẻ mạnh, có khả năng thích ứng với biến đổi của cuộc sống hàng ngày và rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi như: kỹ năng giao
tiếp ứng xử có văn hố; kỹ năng tổ chức quản lý và tham gia các hoạt động tập
thể với tư cách là chủ thể của hoạt động; kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện; củng cố, phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập,
lao động và cơng tác xã hội. Có thể nói hoạt động giáo dục NGLL thực sự rất
cần thiết và có nhiều khả năng giáo dục KNS cho học sinh nên cần phát huy tối
đa vai trò, tác dụng và hiệu quả của hoạt động giáo dục NGLL để tăng cường
giáo dục KNS cho học sinh.
Hoạt động giáo dục NGLL tạo điều kiện để học sinh thực hành và tăng
cường những KNS theo những cách thức phù hợp với từng nhóm đối tượng và

từng vùng. Chẳng hạn như: hoạt động kỉ niệm các ngày lễ lớn; hoạt động học
tập và tìm hiểu những truyền thống tốt đẹp của trường, của địa phương; hoạt
động kết nghĩa, giao lưu với các trường bạn, các đơn vị bộ đội; các hoạt động
tìm hiểu về văn hóa các dân tộc, các danh nhân, các nhà khoa học... Thông qua


21
hoạt động NGLL các em tiếp nhận không chỉ tri thức, mà cịn hình thành đạo
đức, sức khoẻ, thẩm mỹ và rèn các KNS cơ bản trong cộng đồng; thích ứng với
những đổi mới diễn ra hằng ngày trong gia đình, xã hội hiện đại như: Giao tiếp,
ứng xử với những người trong gia đình: ơng, bà, cha, mẹ, anh chị em; với người
trên và bạn bè ở trường, ở ký túc xá; biết kính trọng thầy giáo, cơ giáo; biết cảm
thông chia sẻ, giúp đỡ bạn bè,… biết thương lượng, chia sẻ, hợp tác, thích nghi
với sự đa dạng về văn hố gia đình, nhà trường, địa phương; hình thành được
các kĩ năng tư duy như sáng tạo, phê phán, giải quyết vấn đề, ra quyết định, phát
triển trí tưởng tượng…
Hoạt động giáo dục NGLL là những hoạt động gần gũi, phù hợp với tâm
sinh lý lứa tuổi, lôi cuốn các em tham gia; phạm vi kiến thức kỹ năng rộng lớn,
thuận lợi cho giáo viên hướng dẫn lựa chọn các hình thức, phương pháp giáo
dục phù hợp. Học sinh dễ tiếp thu, được trực tiếp tham gia hoạt động từ đó hình
thành kỹ năng một cách nhanh chóng. Hơn nữa hoạt động giáo dục NGLL góp
phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển các kỹ năng, hành vi, giáo dục
tình cảm, niềm tin ở học sinh, đặc biệt là hình thành và phát triển KNS giúp học
sinh sống một cách an tồn khỏe mạnh và thích ứng với môi trường sống luôn
biến đổi, tạo cơ sở cho sự phát triển nhân cách học sinh một cách toàn diện đáp
ứng với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục dục và đào tạo.
Việc giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường, ngoài việc lồng ghép
vào các mơn học hàng ngày thì hoạt động giáo dục NGLL là một trong những
con đường giáo dục có hiệu quả. Đây là dịp để học sinh củng cố kiến thức đã
học trên lớp, biến tri thức thành niềm tin ở mỗi học sinh, là cơ hội cho mỗi học

sinh có thể tự so sánh bản thân mình với những người khác, kích thích các em
vươn lên trong quá trình giáo dục. Mơi trường nội trú là yếu tố thuận lợi cho
việc thực hiện các hoạt động giáo dục NGLL, nếu thực hiện tốt hoạt động này sẽ
phát triển tối đa năng lực, nhu cầu và thiên hướng của học sinh.


22
Như vậy, có thể nói thơng qua hoạt động giáo dục NGLL có thể rèn luyện
các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi học sinh ở Trường DBĐHDT như: kỹ
năng giao tiếp; kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn; kỹ năng
hợp tác; kỹ năng tư duy sáng tạo… việc học sinh tham gia các hoạt động tập thể
với tư cách là chủ thể hoạt động, khả năng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập,
rèn luyện, củng cố phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập, lao động
và công tác xã hội.
1.1.2.2. Nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thơng qua hoạt
động giáo dục ngồi giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc
KNS là những kỹ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và
thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại. KNS đơn giản là tất cả
điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay
đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Giáo dục KNS cho học sinh thông qua
hoạt động giáo dục NGLL cần phải tìm hiểu, nghiên cứu về đối tượng học sinh
để đưa ra các nguyên tắc giáo dục phù hợp. Học sinh Trường DBĐHDT là con
em đồng bào các DTTS đã tốt nghiệp THPT thi trượt đại học được xét tuyển vào
học hệ DBĐHDT. Học sinh DTTS thường rụt dè nhút nhát, KNS cịn hạn chế.
Vì thế, khi giáo dục KNS cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục NGLL ở
trường DBĐHDT cần tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo sự tương tác.
KNS khơng chỉ hình thành qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu mà phải
thông qua hoạt động tương tác với người khác. Việc nghe giảng và đọc tài liệu

chỉ giúp người học thay đổi nhận thức về một vấn đề nào đó. Nhiều KNS như:
Kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn đề… được hình thành tốt trong
quá trình học sinh tương tác với bạn bè và những người xung quanh thông qua
hoạt động học tập hoặc hoạt động xã hội trong Nhà trường. Trong khi tham gia
các hoạt động có tính tương tác, người học có cơ hội thể hiện ý kiến của mình và


23
xem xét ý kiến của người khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động có tính chất
tương tác trong các hoạt động giáo dục NGLL sẽ tạo cơ hội quan trọng để giáo
dục KNS một cách hiệu quả.
Thứ hai, đảm bảo được trải nghiệm.
KNS được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống
thực tế. Người học chỉ có kỹ năng khi được tự mình làm việc đó. Kinh nghiệm
có được khi người học được hành động trong các tình huống đa dạng, qua đó
giúp người học sử dụng và điều chỉnh các kỹ năng phù hợp với điều kiện thực
tế. Giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục NGLL sao
cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích
kinh nghiệm sống của chính mình và người khác.
Thứ ba, ngun tắc đảm bảo tính q trình.
Giáo dục KNS khơng thể hình thành trong thời gian ngắn mà địi hỏi phải
có cả quá trình: nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một
quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới. Do đó, giáo
dục KNS có thể tác động lên bất cứ mắt xích nào trong chu trình đó: thay đổi
thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi, hoặc hành vi thay
đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ. Do vậy, giáo dục KNS không thể là
ngày một ngày hai mà phải là một quá trình và cần duy trì nó khơng thể cứng
nhắc, nửa vời được.
Thứ tư, đảm bảo thay đổi hành vi.
Mục đích cao nhất của giáo dục KNS là giúp người học thay đổi hành vi

theo hướng tích cực. Giáo dục KNS giúp người học thay đổi hay định hướng lại
các giá trị, thái độ và hành động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở
từng con người là một q trình khó khăn, khơng đồng thời. Có thời điểm người
học lại quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước. Do đó, giáo dục
KNS cần kiên trì và tổ chức các hoạt động liên tục để người học duy trì hành vi


24
mới và có thói quen mới; tạo động lực cho người học điều chỉnh hoặc thay đổi
giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận các giá trị,
thái độ và hành vi mới.
Thứ năm, thời gian và môi trường giáo dục KNS.
Giáo dục KNS cần được thực hiện mọi lúc mọi nơi và thực hiện càng sớm
càng tốt. Môi trường giáo dục được tổ chức nhằm tạo điều kiện cho người học
áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các tình huống trong cuộc sống. Giáo dục
KNS được giáo dục trong mọi môi trường như gia đình, nhà trường, xã hội.
Người tổ chức giáo dục có thể là cha mẹ, thầy cơ, bạn học hay là các thành viên
cộng đồng. Trong phạm vi trường học, giáo dục KNS được thực hiện trong các
giờ học, trong lao động, lồng ghép, thông qua các hoạt động đoàn thể xã hội,
hoạt động NGLL và các hoạt động giáo dục khác. Khi giáo dục KNS, cần đảm
bảo nguyên tắc phù hợp với đối tượng. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý và môi
trường của đối tượng mà lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
giáo dục phù hợp.
Đặc biệt trong quá trình giáo dục KNS cần phải tạo điều kiện tối đa cho
học sinh tham gia vào các tình huống thật trong cuộc sống. Do đó, khi tổ chức
hoạt động giáo dục NGLL nhằm tăng cường giáo dục KNS cho học sinh phải
đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục KNS.
1.1.2.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở Trường Dự bị đại học dân tộc
Giáo dục KNS phải xuất phát từ thực tiễn và gắn liền với thực tiễn, KNS

có bản chất tâm lí nhưng được thể hiện dưới những hành động, hành vi cụ thể,
gắn liền với việc tham gia giải quyết vấn đề của con người. Vì vậy, giáo dục
KNS phải được tiến hành thông qua những vấn đề, nội dung cụ thể nhất định,
nội dung đó phải đảm bảo tính thực tiễn, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi, mơi trường văn hóa, hồn cảnh sống của học sinh người DTTS.


×