Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động tự học phần đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam cho sinh viên trường đại học văn hóa, thể thao và du lịch thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.85 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________________________________

NGUYỄN THỊ THƠM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ,
THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2016


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________________________________

NGUYỄN THỊ THƠM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ,
THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HỐ

Chun ngành: Lý luận và PPDH bộ mơn Giáo dục chính trị


Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LÊ

NGHỆ AN, 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Trải qua hai năm theo học lớp Cao học Lý luận và Phương pháp Dạy học
bộ môn Giáo dục Chính trị - Khóa 22 tại Trường Đại học Vinh, tơi đã tích lũy
được nhiều kiến thức bổ ích cũng như đón nhận những tình cảm mà q thầy
cơ đã dành cho chúng tơi. Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới Khoa Giáo
dục Chính trị và Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Vinh cùng quý thầy cô đã
trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tơi, giúp tơi hồn thành khóa học và luận văn
tốt nghiệp.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Vũ Thị Phương Lê,
người đã hướng dẫn tận tình trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thiện đề tài
luận văn tốt nghiệp của tôi.
Nghệ An, tháng 7 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Thơm


3
MỤC LỤC

Trang
TRANG BÌA PHỤ .............................................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... 2
MỤC LỤC ........................................................................................................... 3
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 4
B. NỘI DUNG..................................................................................................... 11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN
HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA ............................................. 11
1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học phần
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên ............. 11
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học phần
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên ở Trường
Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa ....................................... 35
Chương 2. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG TỰ HỌC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ
DU LỊCH THANH HÓA .................................................................................... 46
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm............................................................................. 46
2.2. Tiến hành thực nghiệm ........................................................................... 53
2.3. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh .................................... 62
Chương 3. QUY TRÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG TỰ HỌC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ
DU LỊCH THANH HĨA .................................................................................... 68
3.1. Quy trình nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học phần Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên ở Trường Đại học Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa ............................................................. 68
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học phần

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên ở trường
Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa ....................................... 76
C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 92
E. PHỤ LỤC ....................................................................................................... 96


4
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước những thách thức lớn của xu thế hội nhập toàn cầu, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 2020, Đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá,
xã hội hố, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt… Đổi
mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp,
bậc học.
Tự học của học sinh, sinh viên là vấn đề không mới, nhưng luôn được đặc
biệt quan tâm, nhấn mạnh. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, trong Thư gửi Hội
thảo khoa học “Nghiên cứu và phát triển tự học - tự đào tạo” tổ chức ở Hà Nội
tháng 1/1998 viết: Tự học - tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi
người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau… Chất
lượng và hiệu quả giáo dục nâng cao khi năng lực tự học - tự sáng tạo của người
học, khi biến được quá trình giáo dục thành tự giáo dục.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi và chỉ khi tạo ra được
năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục. Trong quá trình học tập ở trường thì sinh viên tự học, tự
nghiên cứu là rất quan trọng và cái ranh giới học tập - nghiên cứu khoa học là
gần gũi, khó phân định. Nhưng để học tốt, nghiên cứu khoa học có hiệu quả thì
sinh viên cần khai thác và quan tâm đúng mức về vai trò “cầu nối” của phương

pháp tự học.
Tự học là hình thức học tập khơng thể thiếu được của sinh viên đang học
tập tại các trường cao đẳng, đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý,
khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm khơng chỉ ở người học mà cịn
là sự nghiệp đào tạo của nhà trường.


5
Tuy nhiên, thực trạng dạy học ở trường cao đẳng, đại học, đặc biệt là ý
thức tự học của sinh viên vẫn chưa thực sự có sự chuyển biến thực sự. Nhất là
đối với các mơn học chính trị nói chung, học phần Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐLCMCĐCSVN) nói riêng ở các trường cao đẳng,
đại học. Việc rèn luyện hoạt động tự học cho sinh viên trong giảng dạy
ĐLCMCĐCSVN còn gặp rất nhiều lúng túng và khó khăn.
Ở Trường Đại học Văn hố, Thể thao và Du lịch Thanh Hoá, mặc dù đội
ngũ giảng viên cũng đã cố gắng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực,
chủ động hướng sinh viên tích cực tự học, tự nghiên cứu, song nhìn chung, sinh
viên cịn thụ động trong quá trình học tập. Mặt khác, quá trình giảng dạy học
phần ĐLCMCĐCSVN của giảng viên trường chưa phát huy được tính tích cực
học tập của sinh viên vì gặp rất nhiều khó khăn về lý luận cũng như thực tiễn. Vì
vậy, làm thế nào để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng học tập
ĐLCMCĐCSVN của sinh viên, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo
của nhà trường là một vấn đề hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã thông qua và chọn vấn đề Nâng
cao hiệu quả hoạt động tự học học phần Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng Sản Việt Nam cho sinh viên Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du
lịch Thanh Hố làm đề tài luận văn thạc sĩ.
Hiện nay, vấn đề tự học có vai trị quan trọng trong việc chiếm lĩnh tri
thức của người học. Các nhà giáo dục trên thế giới cũng như Việt Nam đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về phương pháp tự học.

Tác giả N.A.Rubakin (người Nga) (1984), có tác phẩm: Tự học thế nào,
Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, đã tổng kết kinh nghiệm học tập của bản thân
và đề ra cơ sở khoa học cho hoạt động tự học. Theo tác giả, cứ đặt ra câu hỏi
cho mình rồi tự tìm cách trả lời, đó chính là tự học.
Tác giả B.P.Exipov (1961), với tác phẩm Công tác tự học của học sinh
trong giờ lên lớp, Nhà xuất bản Giáo dục, đã chỉ ra các cơ sở khoa học và các


6
biện pháp tổ chức tự học cho người học trong các giờ trên lớp với sự hướng dẫn
của người thầy.
I.F.Kharlamôp (1978) trong tác phẩm Phát huy tính tích cực của sinh viên
như thế nào, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, đã khẳng định vai trị to lớn của
cơng tác tự học để phát huy tính tích cực trong hoạt động trí tuệ của người học
khi tiếp thu tri thức mới.
Ở Việt Nam, có nhiều cơng trình đề cập đến vấn đề vận dụng phương
pháp tự học như:
Giáo sư Lê Khánh Bằng (1998) với cơng trình Tổ chức phương pháp tự
học cho sinh viên, Nhà xuất bản Hà Nội khẳng định việc tổ chức tự học cho sinh
viên là hoàn tồn có tính khả thi và góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác giáo
dục trong nhà trường, từ đó tác giả đề ra một số giải pháp tổ chức cho sinh viên
tự học nhằm đạt hiệu quả cao hơn.
PGS.TS.Nguyễn Ngọc Bảo (1995), trong cơng trình Phát triển tính tích
cực, tính tự lực của học sinh trong q trình dạy học, Nhà xuất bản Giáo dục, đã
khẳng định học là hoạt động tự lực, là trung tâm trong quá trình dạy học.
Tác giả Nguyễn Hiến Lê (1992) với tác phẩm Tự học một nhu cầu của
thời đại, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị quan trọng
của công tác tự học trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Nguyễn Kỳ (1996) trong bài Biến quá trình dạy học thành q
trình tự học, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số 3, đã đưa ra cơ sở lý luận của

phương pháp dạy học tích cực và chỉ rõ q trình tự học của trị là q trình tự
nghiên cứu, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều chỉnh dưới sự hướng dẫn, tổ chức,
trọng tài của thầy.
Tác giả Nguyễn Cảnh Tồn (1997) với tác phẩm Q trình dạy học, Nhà
xuất bản Giáo dục, đã phân tích đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học.
Theo tác giả, tự học là học với sự nỗ lực cao độ.


7
Vấn đề tự học cũng đã được đề cập đến trong nhiều luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ như:
Trịnh Quang Từ (1995), Các biện pháp tổ chức tự học cho sinh viên các
trường quân sự, luận án tiến sĩ Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
Nguyễn Thị Thanh Hương (2008), Vận dựng phương pháp tổ chức hoạt
động tự học để nâng cao năng lực học tập phần Chủ nghĩa xã hội của sinh viên
các trường Cao đẳng (Qua khảo sát tại trường Cao Đẳng y tế Nghệ An), luận
văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh;
Lê Thị Long (2009), Hướng dẫn học sinh tự học trong chương trình Giáo
dục cơng dân lớp 12 ở trường Trung học phổ thông chuyên Phan Bội Châu, luận
văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh;
Phan Thị Tuyết Mai (2010), Vận dụng phương pháp tổ chức hoạt động tự
học vào giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
(phần thứ nhất) nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên ở trường
Cao Đẳng văn hoá nghệ thuật Nghệ An, luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục,
Trường Đại học Vinh;
Nguyễn Kim Huệ (2010), Nâng cao tính tự học của học sinh đối với môn
Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thơng Nguyễn Chí Thanh quận Tân
Bình Tp.HCM, luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh;
Trần Văn Bắc (2012), Tổ chức hoạt động tự học môn Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam tại trường Đại học sư phạm TP.HCM, luận

văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh;
Hoàng Văn Hoan (2011), Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên
trường cao đẳng nghề trong dạy học mơn chính trị (Qua khảo sát ở trường
Cao đẳng nghề miền Đông Nam Bộ, luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục,
Trường Đại học Vinh;
Nguyễn Thị Kim Thi (2012), Rèn luyện kỹ năng tự học mơn chính trị
cho học sinh của trường trung cấp chuyên nghiệp (Qua khảo sát ở trường


8
Trung cấp y dược Bắc Ninh), luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại
học Vinh, v.v..
Nhìn chung, các luận án, luận văn trên đã đề cập các vấn đề lý luận về
phương pháp tự học, chỉ ra thực trạng vận dụng phương pháp hướng dẫn tự học
và đề xuất quy trình, giải pháp vận dụng phương pháp hướng dẫn tự học.
Trên các tạp chí chun ngành cũng có các bài viết đề cập đến vấn đề tự
học của nhiều tác giả như:
Hà Thị Đức (1993), “Về hoạt động tự học của sinh viên sư phạm”, Tạp
chí Nghiên cứu Giáo dục, số 5;
Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Tính (1999), “Hiệu quả của việc dạy tự học
ở đại học”, Tạp chí Đại học và Trung học chuyên nghiệp, số 3… Các tác giả này
đều viết về phương pháp dạy học tích cực, trong đó có đề cập phương pháp
hướng dẫn học sinh tự học.
Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu vai trò của hoạt động tự học
trong quy trình chiếm lĩnh tri thức của người học và chỉ rõ thực trạng của hoạt
động này, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc tự học.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào đề cập đến một cách tồn diện
việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học cho sinh viên Trường Đại học Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Thanh Hố. Cơng trình của tác giả khơng trùng lắp với các
cơng trình đã cơng bố.

2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu lý luận hoạt động tự học, luận văn đề xuất quy
trình và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học phần
ĐLCMCĐCSVN cho sinh viên ở trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du Lịch
Thanh Hóa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả hoạt động
tự học học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh
viên Trường đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa.


9
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học
học phần đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên
Trường đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa.
- Đề xuất quy trình và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học
học phần đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên
Trường đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu biện pháp, cách thức để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học
học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học phần Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên ở Trường Đại học Văn
hóa, Thể thao và Du Lịch Thanh Hóa, những số liệu được khảo sát năm học
2015 - 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp khác như: lịch

sử - lôgic; so sánh; phân tích, tổng hợp, phỏng vấn, điều tra, thực nghiệm, xử lý
thông tin...
6. Giả thuyết khoa học
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học cho
sinh viên trong giảng dạy học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học học phần Đường lối
cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam ở trường Đại học Văn hóa, Thể thao và
Du lịch Thanh Hóa hiện nay.


10
- Là tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên chuyên ngành lý luận và
phương pháp Giáo dục chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học học
phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên
1.1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học cho
sinh viên

1.1.1.1. Khái niệm tự học, bản chất và đặc điểm của hoạt động tự học
* Khái niệm tự học
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn trong tác phẩm “Quá trình dạy học” viết: “Tự
học là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ như quan sát,
tổng hợp, so sánh, phân tích,... và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng cơng cụ)
cùng các phẩm chất của mình cùng các động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan và
thế giới quan (như tính tiến thủ, khách quan, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa
học...) để chiếm lĩnh tri thức nào đó”[48, .59-60].
Khi nói về vấn đề tự học, tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng: “Tự học là hình
thức hoạt động của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do
chính sinh viên tiến hành trên lớp, ở ngồi lớp hoặc khơng theo chương trình và
sách giáo khoa quy định. Tự học là một hình thức dạy học cơ bản ở bậc đại học
có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân, nhưng có quan hệ chặt chẽ
với q trình dạy học” [39, tr.276]. Ở đây tác giả đặt vấn đề tự học trong mối
quan hệ chặt chẽ với hoạt động giảng dạy của giảng viên, nhấn mạnh hiệu quả
của hoạt động tự học phụ thuộc nhiều vào vai trò của cách thức, phương pháp
dạy học của giảng viên. Trong quá trình tự học, người học rất muốn được biết họ


12
nên tự học như thế nào, học những nội dung gì và kết quả được đánh giá ra sao
để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Thực chất của hoạt động tự học là quá trình người học cá nhân hố việc
học, nhằm thoả mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hoạt động học tập
một cách tự giác, tích cực. Người học bằng các thao tác tư duy tự mình chiếm
lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và tiến hành các hoạt động thực hành nhằm tích
luỹ kiến thức từ kho tàng kiến thức của nhân loại, biến những tri thức và kinh
nghiệm của sách vở thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân người học.
* Bản chất và đặc điểm của hoạt động tự học
- Bản chất của hoạt động tự học

Về bản chất, quá trình học tập của sinh viên là q trình nhận thức có tính
chất nghiên cứu.
Tự học vừa mang ý nghĩa củng cố trau dồi kiến thức, vừa có ý nghĩa mở
rộng hiểu biết, tự học có nghĩa là sinh viên phải độc lập, tự xây dựng kế hoạch,
phương pháp học tập cho mình, tự tìm tịi, phân tích những sách vở, tài liệu tiến
tới làm chủ tri thức kỹ năng kỹ xảo.
Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người học
bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định. Như vậy,
có thể hiểu: Tự học là hoạt động có mục đích và người học phải nỗ lực bằng
chính sức lực của mình.
Tự học là một mắt xích của q trình học tập. Giữa học và tự học có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Học chỉ có hiệu quả cao khi có sự tự học.Tự học
cũng có thể được coi là kết quả cuối cùng của quá trình học.
Tự học là một hình thức tổ chức dạy học, trong đó với vai trị hướng dẫn
của người thầy, người học bằng các thao tác tư duy tự mình chiếm lĩnh tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo và tiến hành các hoạt động thực hành nhằm tích luỹ kiến thức từ
kho tàng kiến thức của nhân loại, biến những tri thức và kinh nghiệm của sách
vở thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân người học.


13
Chúng tôi cho rằng, bản chất của tự học là q trình người học cá nhân
hố việc học, nhằm thoả mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hoạt
động học tập như tự đọc, tự nghiên cứu, phân tích, so sánh, khái qt hố, các
hoạt động thực hành, thí nghiệm, giao lưu ngoại khố để hồn thành nhiệm vụ
học tập. Nói một cách khái quát, tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức
độ cao.
- Đặc điểm của hoạt động tự học
Hoạt động tự học diễn ra khi người học thực sự có nhu cầu muốn học.
Việc tự học của cá nhân xuất phát từ nhu cầu muốn học, muốn làm phong phú

thêm kiến thức, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo của mình.Vì vậy, hiệu quả của quá
trình này phụ thuộc vào sự tự thân nỗ lực của cá nhân người học.
Hoạt động tự học phải được thực hiện thông qua làm việc thực sự với
nhiều hình thức học khác nhau. Người học có thể học bằng nghe, quan sát và
cũng có thể tham gia trực tiếp vào quá trình học tập chung của tập thể để
cùng nhau xây dựng, thống nhất chuẩn kiến thức đạt được sau quá trình mọi
người tự học.
Điều kiện để diễn ra hoạt động tự học là các tình huống có vấn đề. Đứng
trước những tình huống có vấn đề, người học buộc phải tích cực suy nghĩ, tìm
tịi, nghiên cứu để giải quyết vấn đề đó. Các tình huống có vấn đề có thể là do
người học tự đặt ra trong q trình phân tích của tư duy nhưng chủ yếu vẫn là
những tình huống đến từ sự gợi mở của người thầy. Vì vậy, một trong các nhiệm
vụ quan trọng của giảng viên khi thiết kế bài giảng là phải tạo ra các tình huống
có vấn đề để kích thích sự tìm tịi của sinh viên.
Tự học sẽ có hiệu quả cao khi người học có đầy đủ phương tiện hỗ trợ cho
hoạt động tự học của mình. Ngồi các phương tiện truyền thống khơng thể thiếu
như giáo trình, các tài liệu hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo, phải kể
đến các phương tiện và điều kiện hiện đại như hệ thống băng đĩa, máy vi tính,


14
máy chiếu cũng như các phương tiện nghe nhìn. Ngồi ra, để tiến hành hoạt
động tự học cần có mơi trường vật chất và tinh thần. Phải có điều kiện vật chất
phục vụ cho việc tự học như địa điểm lớp học, thư viện, điều kiện vệ sinh học
đường, phòng học, góc học tập.
1.1.1.2. Vai trị của hoạt động tự học
Trong bất cứ quá trình dạy học nào, nhất là q trình dạy học ở Trường
Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, giảng viên ln giữ một vai
trị quan trọng đặc biệt đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt
động học tập của sinh viên. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giảng viên có kiến

thức uyên thâm, sâu rộng đến đâu, phương pháp dạy học hay đến mấy mà sinh
viên không chịu khó học hỏi, đầu tư thời gian suy nghĩ nghiên cứu, khơng có sự
lao động của cá nhân, khơng có niềm khao khát với tri thức, say mê học tập,
khơng có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý... thì việc học tập khơng đạt
kết quả cao được.
Vì vậy, có thể khẳng định vai trị của hoạt động tự học ln giữ một vị trí
rất quan trọng trong quá trình học tập của sinh viên. Tự học là yếu tố quyết định
chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Trong tư tưởng giáo dục của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi
trọng vai trị của tự học. Theo Người, tự học có một vai trị đặc biệt quan trọng
và khơng thể thay thế: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”
[37, tr.273].
Vai trị tự học đã được Hồ Chí Minh xác định là làm cốt. Cốt ở đây có thể
hiểu là cốt yếu, là chủ chốt, là nòng cốt. Như vậy, tự học chính là yếu tố cốt lõi
của hoạt động học, là bộ khung, là nội lực quyết định chất lượng học tập.
Quan niệm này bao hàm các khái niệm tự học - tự học có hướng dẫn - tự
học một mình - tự kiểm tra - tự đánh giá - tự giáo dục theo quan điểm giáo dục
hiện nay. Để thực hiện vai trò quan trọng như vậy, tự học phải xuất phát từ một
mục đích cao cả, với những mục tiêu cụ thể rõ ràng.


15
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh tự học thật sự có vai trị quan trọng
trong qua trình học tập của người học. Tự học là một dòng chảy liên tục, người
học khơng được để cho nó gián đoạn, khơng ngắt qng; dù cơng việc có bề
bộn, dù cuộc sống có tất bật đến đâu cũng khơng được ngừng tự học.
Khi bàn về vai trò tự học nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Tự
học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều
kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý
báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục

được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mơ của giáo dục được mở
rộng khi có phong trào tồn dân tự học” [38, tr.3].
Nhiều sinh viên đã thành công khi biết kết hợp khoa học giữa thời gian
học ở trên lớp với thời gian học ở nhà. Nếu sinh viên nào cũng vận dụng được
như thế thì chắc chắn chất lượng giáo dục của chúng ta sẽ tốt lên nhanh chóng.
Hơn nữa học ở trường đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và
khó, cho nên ngồi thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu để
mở rộng và đào sâu tri thức qua đó làm giàu vốn hiểu biết và nâng cao hiệu quả
học tập cũng như nghề nghiệp của mình trong tương lai.
Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cịn giúp họ có được hứng
thú, thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm, hồn
thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến
đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh viên
mở rộng đào sâu kiến thức, hiểu thêm về thế giới, con người xung quanh mà cịn
giúp sinh viên hình thành được các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ tạo nên
bản sắc tồn tại của loài người, vừa kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống,
vừa sáng tạo những giá trị mới. Tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học,


16
rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và
lòng say mê nghiên cứu khoa học.
Chính ý chí và năng lực tự học sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm năng to
lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, giúp họ vượt
lên mọi khó khăn, trở ngại để chiếm lĩnh nội dung tri thức.
Nhưng để việc “dạy có hiệu quả” nhất thiết phải được đánh giá từ việc
“học có hiệu quả”. Việc dạy phải dẫn đến việc học của người học có chất lượng

cao hơn. Phải làm thay đổi cách hiểu, cách sống, cách lao động của người học.
Dạy học không phải là chất đầy vào một cái thùng rỗng mà chính là thổi bùng
lên ngọn lửa trí tuệ, ngọn lửa của sự say mê học tập để hình thành năng lực và
thói quen học tập. Dạy là khởi động quá trình tự học.
Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là hạ thấp vai trò của giảng viên
và tập thể cán bộ công nhân viên trong nhà trường. Các lực lượng này có tác
dụng lớn trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn sinh viên tự học một
cách đúng hướng và hiệu quả. Mỗi thầy cô giáo cần dạy các em cách tự học, tự
đào sâu kiến thức đã học, cách học với thầy, với bè bạn. Đó là vấn đề truyền đạt
những phương pháp để lĩnh hội và làm phong phú kiến thức. Muốn làm được
điều đó, mỗi thầy giáo cơ giáo phải là tấm gương sáng về tự học, tự sáng tạo.
Tận dụng tối đa các điều kiện để học mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, mọi
phương tiện và học với mọi người.
Như vậy, qua thực tế nghiên cứu tác giả có thể khẳng định, hoạt động tự
học, năng lực tự học ln có một vai trị quan trọng trong quá trình học tập của
sinh viên sư phạm. Quá trình này giúp cho sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo nghề nghiệp trong tương lai. Trong quá trình tự học, sinh viên từng bước
biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân, tạo
điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ
vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức đã học, đã nghiên cứu vào giải quyết
các nhiệm vụ trong quá trình giảng dạy sau này


17
1.1.1.3. Nội dung, hình thức của hoạt động tự học
* Nội dung của hoạt động tự học
Bàn về hoạt động tự học và nâng cao hiệu quả hoạt động tự học cho sinh
viên như thế nào là một vấn đề hồn tồn khơng đơn giản. Ngồi việc tìm hiểu
khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của sinh viên
thì mỗi giảng viên rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ

bản, các phương pháp tối ưu rèn luyện hiệu quả hoạt động tự học cho sinh viên.
Đặc biệt là việc nhận diện xem những phương pháp đó ngồi sự thích ứng chung
cho mọi sinh viên có đáp ứng được cho từng nhóm đối tượng trong những giai
đoạn và điều kiện, hồn cảnh khác nhau trong suốt q trình đào tạo hay không.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của
hoạt động tự học như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp
cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu
cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.
Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung,
thống nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác
định như sau:
- Xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập.
Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu
tiên. Bởi vì, thành cơng khơng bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng
tùy tiện thiếu tính tốn, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và
thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ
không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời
mà khơng có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến
cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với
một niềm vui sáng tạo bất tận.


18
Trong rất nhiều động cơ học tập của sinh viên, có thể khn tách thành
hai nhóm cơ bản:
+ Các động cơ hứng thú nhận thức.
+ Các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được
với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ,

động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tị mị. Động cơ này sẽ xuất
hiện thường xuyên khi giảng viên biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận
thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ
người học.
Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với
ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách
nhiệm đối với gia đình, thầy cơ, uy tín danh dự trước bạn bè… Từ đó các em
mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ
học tập, những yêu cầu từ giảng viên, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã
hội và sự điều chỉnh của dư luận.
Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng
chẳng được đem lại từ bên ngồi mà nó hình thành và phát triển một cách tự
giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy, người giảng viên phải tùy đặc điểm môn
học, tùy đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp
thích hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng của sinh viên.
Điều quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học
tập của mình.
Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những
trị giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có
ranh giới vơ cùng mỏng manh. Nó địi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh
mẽ cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng
thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã
được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ


19
học tập nói chung khơng khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên khơng phải là hồn
tồn khơng có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có
những hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh
và ngoại sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức,

khơi dậy trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngồi. Trong đó, người thầy đóng
vai trị chủ đạo.
- Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm
vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch
phải được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi
thậm chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng
thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng
để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học
dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ khơng cao. Sau khi đã xác định
được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung
lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng
mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp q trình
tiến hành việc học được trơi chảy thuận lợi.
- Tự mình nắm vững nội dung tri thức
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối
lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn
đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bề vững khơng… tùy thuộc vào nội lực của
chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các
hoạt động:


Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều

nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe
giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội thảo, làm thí nghiệm,


20

quan sát, điều tra… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc
thơng tin một cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần lớn
sinh viên rời xa sách và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn
giản vì nó thỏa mãn trí tị mị, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể
đến sự nhiễu loạn thơng tin mà nếu khơng vững vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ sa vào
những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân
cách, tâm hồn. Trong đó từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con
đường tốt nhất của mọi người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp tự học rẻ
tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp
toàn diện và có sự xuất hiện của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu
trong q trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc
không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngồi việc tiếp nhận tri thức cịn phải
biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc
sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là
cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm nhận thơng thường.


Xử lí thơng tin: Việc xử lí thơng tin trong q trình tự học không bao giờ

diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia cơng, xử lí mới có thể sử dụng được. Q
trình này có thể được tiến hành thơng qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược,
tổng hợp, so sánh…


Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa

học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các
tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… sinh viên thường
gặp rất nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc
tập hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được.

Trong trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá
rộng. Chỉ cần tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có
giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi


21
hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng
rất cần thiết.


Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin

tri thức hay diễn ngôn theo yêu cầu thơng qua các hình thức: hội thảo, báo cáo
khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là cơng việc cuối cùng của quá
trình tiếp nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát
triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người
học chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác làm việc
nhóm tốt.
- Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập:
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức:
dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của giảng viên, bản thân tự đánh giá,
sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với
mục tiêu đặt ra ban đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan
tâm thường xun. Thơng qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình,
hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để
từ đó có hướng khắc phục hay phát huy.
Vấn đề tự học rõ ràng khơng hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có
hiệu quả nhất thiết sinh viên phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể
bằng chính nội lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho
sự phát triển. Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực

trong việc trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với
phương pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học tự đào tạo của
sinh viên mới đi vào chiều sâu thực chất.
* Hình thức của hoạt động tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
Hình thức 1: Cá nhân tự mày mị theo sở thích và hứng thú độc lập khơng
có sách và sự hướng dẫn của giáo viên.


22
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá
trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới,
đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên
nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải
có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không
thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt
động của mình.
Hình thức 2: Tự học có sách nhưng khơng có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà khơng có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong
sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi
người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thơng tin giữa
thầy và trị bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới
dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau
đó học sinh về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trị là nhân tố hỗ trợ,

chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai
trò là chủ thể của q trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham
gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trị chính là mối quan hệ
giữa nội lực và ngoại lực, ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc
tác thúc đẩy nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy,
nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của
bản thân để hoàn thành những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người


23
học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo
viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như
vậy ở hình thức tự học thứ ba này q trình tự học của học sinh có liên quan
chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có
yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giáo viên và quá trình tự học
của học sinh.
1.1.1.4. Các kĩ năng cơ bản của hoạt động tự học
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có
liên quan đến hoạt động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại
hình kỹ năng chun biệt. Các nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ năng tự học
theo nhiều cách khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu ở Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, kỹ năng tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm kỹ năng
định hướng, nhóm kỹ năng thiết kế (lập kế hoạch), nhóm kỹ năng thực hiện kế
hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Tiếp thu những
quan điểm trên, chúng tôi phân chia hoạt động tự học bao gồm các nhóm kỹ
năng cơ bản sau:
* Kỹ năng định hướng

Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập
cơ sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ
thể có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức
năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo
kế hoạch. Để có được cơ sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
Học nhằm mục đích gì? Học vì u thích mơn học, vì trách nhiệm với gia đình
và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao? Thái độ học tập ra sao? Học
với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua loa? Học như thế nào? Người
học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản thân.
* Kỹ năng lập kế hoạch học tập


24
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung
và phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học
tập. Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và
chiếm lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học
phải chú ý một số điểm sau: Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích
của kế hoạch. Đó có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho
từng mơn, từng phần. Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho
từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hồn cảnh
của mình. Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần
xác định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian
công sức cho nó.
* Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Muốn thực hiện thành cơng kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần nắm
vững tri thức đã chọn lựa, xử lý để tiến hành các thao tác hoàn thiện bài tập
được giao.
* Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự

đánh giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được,
cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có
kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, sinh viên cần: Thứ nhất: tự trả lời câu hỏi trong
sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi, dự kiến câu trả lời, tái
hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm hoặc trước lớp
để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục. Thứ hai, tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết
hoặc thảo luận cùng bạn bè. Thứ ba, làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc
các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh
nghiệm…
1.1.1.5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động tự học
Có thể nói để đánh giá hiệu quả hoạt động tự học dựa vào rất nhiều yếu
tố, sau đây là một số tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động tự học


×