Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện tuyên hóa, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.68 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM TIẾN NAM

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN TUN HĨA, TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM TIẾN NAM

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN TUN HĨA, TỈNH QUẢNG BÌNH

Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Cán bộ hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. GVCC. ĐOÀN MINH DUỆ



NGHỆ AN - 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành là do sự phấn đấu, nỗ lực của bản thân, đồng thời có
sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS. TS. GVCC. Đồn Minh Duệ, cũng như
các Thầy giáo, Cô giáo Khoa Giáo dục Chính trị và Phịng Đào tạo Sau đại học
thuộc Trường Đại học Vinh.
Tôi cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình, sự
giúp đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng nghiệp tại Huyện ủy, UBND huyện
Tun Hóa, tỉnh Quảng Bình trong suốt quá trình học tập và viết Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi tới các Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà khoa học, các bạn
đồng nghiệp lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Tác giả

Phạm Tiến Nam


3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA ..................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................. 3
BẢNG QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... 4
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ ........................................................................ 11
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu ..................................... 11
1.2. Vai trị, vị trí và tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở .............. 14
1.3. Các yếu tố cấu thành chất lượng và các yếu tổ đảm bảo chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ...................................................................... 18
Kết luận chương 1 ................................................................................................ 28
Chương 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN TUN HĨA, TỈNH QUẢNG BÌNH ............................ 29
2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở huyện Tun Hóa, tỉnh Quảng Bình ................................................ 29
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của huyện Tun Hóa,
tỉnh Quảng Bình ............................................................................................ 33
Kết luận chương 2 ................................................................................................ 60
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN
TUN HĨA, TỈNH QUẢNG BÌNH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY........................... 61
3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình ............................................................. 61
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình giai đoạn hiện nay .................. 66
Kết luận chương 3 ................................................................................................ 89
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................... 90
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 92


4
BẢNG QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT

1.


BCH:

Ban chấp hành

2.

BCT:

Bộ Chính trị

3.

CNH, HĐH:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

4.

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

5.

CBCC:

Cán bộ chủ chốt

6.


CCB:

Cựu chiến binh

7.

ĐTNCSHCM:

Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

8.

HĐND:

Hội đồng nhân dân

9.

HTCT:

Hệ thống chính trị

10. KT- XH:

Kinh tế - xã hội

11. MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc


12. XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

12. UBND:

Ủy ban nhân dân


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cấp xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp cơ sở là một cấp trong hệ thống
chính trị bốn cấp của Việt Nam. Cấp cơ sở giữ một vai trị, vị trí hết sức quan
trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và nhiệm vụ cấp
trên giao, là cấp trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa
Đảng, nhà nước với nhân dân.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cán bộ
là gốc của mọi công việc”, công việc thành cơng hay thất bại đều do cán bộ.
Khơng có đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng khơng
trở thành hiện thực. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức luôn được Đảng ta
quan tâm chú ý đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách cụ thể trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, Đảng ta đã xác định CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ có tầm
quan trọng hàng đầu. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp lãnh đạo và tổ
chức thực hiện các q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn và xây dựng
nơng thơn mới. Vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò cực kỳ
quan trọng. Nếu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở khơng được xây dựng ngang

tầm thì khơng thể thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mà Đảng ta đã đề ra.
Nắm bắt được tầm quan trọng đó, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định trong các kỳ
Đại hội từ trước đến nay và nhất là trong Đại hội lần thứ XII là lấy phát triển
kinh tế làm trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Trong cơng tác xây dựng
Đảng thì cán bộ và cơng tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu "then chốt trong
vấn đề then chốt", là nguyên nhân của nguyên nhân. Nghị quyết Hội nghị
BCHTW lần thứ 4, khoá XI của Đảng đã khẳng định: “Giải quyết tốt vấn đề


6
nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên là một nhiệm vụ rất quan trọng của công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay, góp phần trực tiếp nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, giúp xây dựng Đảng ta
trong sạch, vững mạnh” [2, tr. 8].
Thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý cho thấy cấp cơ sở là cấp trực tiếp
tổng hợp các yêu cầu của người dân và cũng là cấp trực tiếp giải quyết các
vướng mắc, khó khăn của dân, nơi nhân dân trực tiếp gửi gắm niềm tin vào
Đảng, Chính quyền. Bởi vậy, lực lượng thực thi nhiệm vụ ở cơ sở mà trước hết
là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải đủ khả năng để đảm nhận sứ mệnh cao
cả này. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tốt thì phong trào ở đó được đẩy
mạnh, xã hội ổn định, kinh tế phát triển, quốc phòng an ninh được đảm bảo.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở giỏi về năng lực, trình độ, khả năng thích ứng với nhiệm vụ đảm nhiệm.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ngày càng phải đạt tiêu chuẩn chức danh, chương trình và nhiệm vụ. Đó chính là
căn cứ để các cấp ủy Đảng, chính quyền thực hiện tốt cơng tác quy hoạch, tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ và các chế độ, chính sách khác.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Tun Hóa, tỉnh Quảng Bình ln được các cấp uỷ Đảng quan tâm, xem là
nhiệm vụ trọng yếu, góp phần củng cố lịng tin của quần chúng nhân dân vào sự

nghiệp cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của huyện Tuyên Hóa vẫn có nhiều mặt hạn chế, một
số cán bộ chưa đáp ứng về trình độ chun mơn, năng lực cơng tác, thiếu tinh
thần trách nhiệm, một số cán bộ có biểu hiện nhũng nhiễu, gây phiền hà cho
nhân dân, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, đang làm suy giảm
niềm tin của nhân dân và cản trở tiến trình đổi mới, một số cán bộ có tư tưởng
chọn việc, cơ hội, một số cán bộ chậm khắc phục khuyết điểm. Do vậy, vấn đề
đặt ra là cần phải xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp


7
cơ sở có đầy đủ năng lực, phẩm chất, có đủ đức và tài để đáp ứng với yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về các vấn đề như: đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong
giai đoạn mới; ở một số tỉnh cũng có những cơng trình nghiên cứu về nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cơng chức nói chung và cán bộ xã, phường, thị trấn
nói riêng. Một số cơng trình bàn về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp xã của một số huyện nhưng chưa thật sự đi sâu vào vấn đề để nghiên cứu và
các yếu tố tác động đến chất lượng của cán bộ chủ chốt cấp xã và ở mỗi nơi đều
có sự khác nhau.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình” làm đề
tài luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành Chính trị học.
Vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở nói riêng đã được nhiều chun gia, nhà khoa học cũng như nhiều cơng trình
khoa học đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến lĩnh vực trên:
PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên: Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy

mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003; TS.
Nguyễn Duy Hùng: Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo phường hiện nay, Nxb CTQG, HN 2007; Trần Huy Thanh: Các
biện pháp tâm lý nâng cao tính tích cực lao động của cán bộ, công chức trong
cơ quan, nhà nước hiện nay, Nxb CTQG, HN 2010; Luận án Tiến sĩ: Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay của Phạm Công Khâm, năm 2000; Luận văn Thạc sĩ: Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện
nay, năm 2002; Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công


8
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay của Dương Hương Sơn, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
Một số đề tài NCKH, bài viết được đăng trên các Tạp chí, như:
GS,TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ
cán bộ cơ sở, Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002; Tiến sĩ Lê Văn Hịe, về hồn
thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi, Đề tài độc lập cấp
nhà nước: "Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị các tỉnh
miền núi", Hà Nội, 2002; Thu Thuỷ: Chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ xã là
người dân tộc thiểu số, Tạp chí Xây dựng Đảng số 8/2014; Trần Thị Hạnh: Thực
trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, Tạp chí Lý luận Chính trị số
10/2015; Phan Hữu Tích: Xây dựng phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, Tạp chí Lý luận Chính trị số 11/2015.
Dưới góc độ khoa học, các cơng trình nói trên là hết sức có giá trị đối với
những người đã và đang nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Tuy
nhiên, đến nay vấn đề: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở huyện Tun Hố, tỉnh Quảng Bình vẫn chưa có cơng trình nào đề cập, do vậy,
đây là đề tài nghiên cứu đầu tiên mang tính tồn diện đối với cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở trong những năm qua ở huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình, từ đó đưa ra một
số quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở huyện Tuyên Hố, tỉnh Quảng Bình.


9
- Đưa ra quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Tun Hóa, tỉnh
Quảng Bình.
4.2. Phạm vi
Đề tài khảo sát chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thuộc 19 xã
và 1 thị trấn ở huyện Tuyên Hóa, giai đoạn từ 2011 đến 2015, gồm 11 chức
danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó
chủ tịch UBND; Chủ tịch MTTQ, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội LHPN,
Chủ tịch Hội CCB, Bí thư ĐTNCS Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp lịch sử- Lơgic;

- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp thống kê;
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học của chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở.
Các giải pháp đưa ra có thể được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và áp
dụng cho công tác lãnh đạo, quản lý của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp
nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tại huyện Tuyên Hóa nói
riêng và các địa phương khác nói chung.
Báo cáo khoa học của Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các học viên cao học cũng như sinh viên ngành chính trị.


10
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Cán bộ
Theo Luật Cán bộ, công chức: "Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách" [31, tr. 9].
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt: "Cán bộ: Người làm việc trong cơ quan
nhà nước - cán bộ nhà nước; người giữ chức vụ, phân biệt với người bình

thường, khơng giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước" [41, tr. 13] Để
thống nhất cách gọi, tại Điều 4, Luật cán bộ, cơng chức được Quốc hội khóa XI
thơng qua ngày 13/11/2008, định nghĩa: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở Trung
ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước” [31, tr. 8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát,
giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng,
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình
dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng"
[26, tr. 247].
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm dùng để
chỉ những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hồn
thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân cơng.
Như vậy, có một số cách hiểu về khái niệm cán bộ, nhưng tựu chung lại,
có hai cách cơ bản:


12
Thứ nhất, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị, xã hội, các doanh nghiệp
nhà nước và các lực lượng vũ trang từ Trung ương đến cơ sở;
Thứ hai, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ
chức để phân biệt với người khơng có chức vụ.
Từ những cách hiểu như vậy cho thấy, người cán bộ có bốn đặc trưng
cơ bản:
Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong
HTCT... lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.

Cán bộ giữ chức vụ, trọng trách trong một tổ chức của HTCT.
Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công cơng tác sau khi hồn
thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung,
chất lượng hoạt động và thời gian cơng tác của họ.
Có thể nói, theo cách hiểu chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình
thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ
nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
1.1.2. Cán bộ chủ chốt
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt: Chủ chốt là tính từ chỉ "quan trọng nhất, có
tác dụng làm nịng cốt”. Như vậy, nói chủ chốt là nói đến quan hệ trong một tập
hợp nhất định có nhiều cá nhân, nhiều thành viên và vị trí, tính chất của những
cá nhân, thành viên trong tập hợp ấy [41, tr. 29].
- Quan niệm về cán bộ chủ chốt
Từ những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu Cán bộ chủ chốt là
người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nịng cốt trong


13
các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm
đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
mình về lĩnh vực cơng tác được giao.
Xuất phát từ vị trí cơng việc, có thể khái quát, cán bộ chủ chốt có những
đặc trưng cơ bản sau:
Là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác định
phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác, đưa ra các quyết định và tổ

chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao; Kiểm tra,
giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều
chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hồn chỉnh lý luận. Đồng thời, CBCC cịn là người giữ vai
trị đồn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ
chính trị của đơn vị.
CBCC đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu
cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính quyền (cấp trưởng,
cấp phó); trưởng các đồn thể và là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên
và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực cơng tác
được đảm nhận.
Từ nhận thức đó, đặc biệt theo quan điểm được khẳng định trong Nghị
quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5, khóa IX “Về đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” cũng như Nghị định
112/2011/NĐ- CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ “Về cơng chức xã, phường,
thị trấn” thì tác giả luận văn đề cập đến đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở
hiện nay bao gồm các chức danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã; Chủ tịch, Phó
Chủ tịch HĐND xã; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã; Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Bí
thư Đồn Thanh niên; Chủ tịch Hội Nông dân.


14
1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Chính quyền cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính, là bộ
máy lãnh đạo, quản lý gần dân nhất, sát dân nhất. HTCT cấp cơ sở là nền tảng
của HTCT, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước.
Từ khái niệm CBCC có thể hiểu CBCC cấp cơ sở là những người đứng
đầu, giữ vị trí quyết định trong các cơ quan Đảng, chính quyền, đồn thể trong

HTCT ở cơ sở. Theo đó, đội ngũ CBCC cấp cơ sở mà đề tài tiến hành khảo
sát, điều tra bao gồm: Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND,
Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch MTTQ,
Chủ tịch Hội Phụ nữ, Bí thư ĐTNCSHCM, Chủ tịch Hội CCB, Chủ tịch Hội
nông dân.
1.2. Vai trị, vị trí và tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.2.1. Vai trị, vị trí của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
V.I. Lênin khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào dành
được quyền thống trị nếu nó khơng tạo ra được trong hàng ngũ của mình, những
lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào” [23, tr.109].
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ. Người viết “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”; “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người
khẳng định: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng, khơng có đội ngũ
cán bộ tốt thì dù có đường lối, chủ trương, chính sách đúng, sự nghiệp cách
mạng khó mà thành cơng” [25, tr. 290]; “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành
cơng hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa
chọn cán bộ và nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy
cũng vơ ích” [25, tr. 296]. Người cho rằng, vai trò của người cán bộ như “chiếc
cầu nối” giữa Đảng, chính phủ, với nhân dân. Cán bộ là người đem chính sách


15
của Đảng, Nhà nước vào quần chúng để tuyên truyền, giáo dục vận động quần
chúng thực hiện có hiệu quả mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước. Điều này lại càng đúng đối với đội ngũ cán bộ cơ sở.
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng nhận định: "Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế

độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [10, tr.34].
Đảng ta ln coi cán bộ có vai trị quyết định đối với sự nghiệp cách
mạng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) khẳng định trong cơng
cuộc đổi mới đất nước thì: Cán bộ hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi
mới. Cán bộ nói chung có vai trị rất quan trọng, cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí
nền tảng cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chất lượng và hiệu quả thực thi
pháp luật một phần được quyết định bởi sự triển khai ở cơ sở. Cấp cơ sở là cấp
trực tiếp gắn với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở
xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất
lượng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có một ví trí vơ cùng quan trọng trong hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở, là những người hàng ngày trực tiếp tiếp xúc
với dân, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống và biến thành hành động cách mạng của quần chúng.
Như vậy, cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là nhân tố
quyết định đến sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong cơng tác xây
dựng Đảng. Ngồi những vị trí, vai trò trên cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn có vị
trí, vai trị thể hiện những phương diện sau đây:
- Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vừa là người đại diện Đảng, Nhà nước, vừa
là người đại diện cộng đồng, vừa là người cùng làng, cùng họ, vừa là người dân,
là người gần gũi dân, sát dân nhất cho nên họ là người trực tiếp nắm bắt tâm tư,


16
nguyện vọng tình cảm của dân để phản ánh lên các cấp chính quyền để các cấp
chính quyền đặt ra chính sách đúng. Thực tế cho thấy, ở đâu mà cán bộ gần dân,
hiểu dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của dân thì ở đó các cấp chính
quyền sẽ đề ra chính sách đúng, ngược lại ở đâu mà cán bộ quan liêu, hách dịch,
cửa quyền thì sẽ đề ra chính sách khơng phù hợp.

- Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho nhân dân và vận
động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách, pháp luật đó trong cuộc sống.
Là người tiên phong gương mẫu trong việc thực hiện chính sách pháp luật và
xây dựng gia đình văn hóa ở khu dân cư.
- Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu,
những thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người am hiểu các phong tục tập quán,
truyền thống dân tộc của địa phương, họ là người tập hợp được khối đại đoàn
kết toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự quản của cộng đồng dân cư.
Tóm lại, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người có vị trí, vai trị quan trọng
trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong cộng
đồng dân cư.
1.2.2. Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo, Đảng đại diện cho lợi ích của
giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Vì vậy đội ngũ
CBCC cấp cơ sở phải có những tiêu chuẩn cơ bản như sau:
Thứ nhất, Phải có tri thức và văn hố chính trị, có khả năng lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN giàu
mạnh. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng, Đảng của giai cấp cơng nhân là trí tuệ, lương
tâm và thời đại. Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn


17
minh” vì vậy, người cán bộ của Đảng phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng
kho tàng tri thức nhân loại đã tạo ra.
Thứ hai, CBCC cấp cơ sở phải đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc của
nhân loại lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ ba, CBCC cấp cơ sở phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trên cơ sở
lập trường của giai cấp công nhân tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách
mạng, với chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định con
đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có năng lực dự báo và định hướng
sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp
luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có ý
thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, CBCC cấp cơ sở phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục
vụ nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cần kiệm liêm chính, chí
cơng vơ tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý
thức tổ chức kỷ luật, trung thực khơng cơ hội gắn bó mật thiết với nhân dân và
được nhân dân tín nhiệm.
Thứ năm, CBCC cấp cơ sở phải có kinh nghiệm và nghệ thuật trong hoạt
động chính trị, linh hoạt nhạy bén, giải quyết kịp thời đúng đắn những tình
huống phức tạp xảy ra.
Như vậy, với vai trị vơ cùng quan trọng và trách nhiệm nặng nề, người
CBCC cấp cơ sở có những tiêu chuẩn cần phải có. Để ln xứng đáng là người
tiêu biểu, đại diện và lãnh đạo nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, tin cậy và uỷ
thác. Người CBCC cấp cơ sở phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng mọi mặt,
thống nhất giữa đức và tài, thực hiện được mục tiêu to lớn là đưa sự nghiệp cách
mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi, CBCC cấp cơ sở cần có những tố
chất cơ bản sau:


18
Là người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo,
điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp
trên về nhiệm vụ được phân cơng.

Là người có trách nhiệm tiếp nhận các chủ trương chính sách và sự lãnh
đạo từ cấp trên.
Là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hố đường lối, chính sách
của Đảng, chính quyền cấp trên vào điều kiện ở cơ sở, chủ trì việc hoạch định
chiến lược mục tiêu, phương hướng, đề ra chủ trương, chính sách động viên, tổ
chức nhân dân thực hiện những nhiệm vụ phát triển KT- XH ổn định đời sống
nhân dân trên địa bàn cấp cơ sở.
Có thẩm quyền giải quyết các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phịng trong phạm vi tồn xã, có khả năng tổ chức cơng việc và là
trung tâm đoàn kết của tổ chức.
Như vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở là những người đứng đầu
quan trọng nhất trong HTCT cấp cơ sở, có ảnh hưởng quyết định đến việc chấp
hành chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính
trị, văn hố xã hội trên địa bàn cấp xã mà mình phụ trách.
1.3. Các yếu tố cấu thành chất lượng và các yếu tổ đảm bảo chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.3.1. Các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.3.1.1. Năng lực tư duy lý luận
Là tổng thể tri thức trí tuệ, phương pháp làm việc của chủ thể, đáp ứng
yêu cầu phát triển, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn về những vấn đề thực tiễn,
giúp cho CBCC cơ sở có những phản ứng sắc bén, khả năng vận dụng sáng tạo,
linh hoạt lý luận vào thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động lãnh
đạo, quản lý cơ sở. Nó được biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất, đó là khả năng tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước một cách đúng đắn, khả năng phát hiện những mâu


19
thuẫn, những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và khả năng vận dụng

sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để xây dựng chương trình, kế
hoạch công tác, kế hoạch phát triển KT- XH phù hợp với thực tiễn ở cơ sở.
Thứ hai, năng lực tư duy lý luận mang tính khái quát, là khả năng liên
kết tri thức các lĩnh vực, các ngành nghề, các bộ phận phong phú, đa dạng thành
một chỉnh thể ở mức độ khái quát cao. Đồng thời phân định được tính đặc thù,
tính riêng biệt của các loại lĩnh vực, bộ phận để khi lãnh đạo, chỉ đạo vừa mang
tính lịch sử cụ thể vừa mang tính khái quát tổng hợp.
Thứ ba, năng lực hiện thực hóa những tri thức đã lĩnh hội thành các chủ
trương, chương trình, kế hoạch hành động. Nó thực hiện khả năng vận dụng lý
luận vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn, vận dụng cái chung một cách
đúng đắn vào từng tình huống cụ thể. Đó cũng là khả năng tổng hợp để có cách
nhìn hệ thống, nắm được cái chủ yếu, cái bản chất của sự vật, hiện tượng trong
sự vận động, trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn cơ sở.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận của CBCC cấp cơ sở có giá trị định
hướng đúng đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ.
Cơ sở của năng lực tư duy lý luận là tri thức lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kho tàng tri thức của nhân loại, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và sự trải nghiệm thực tiễn của đội ngũ CBCC trong phong
trào cách mạng.
1.3.1.2. Năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn
Là năng lực tổ chức vận hành bộ máy HTCT cấp cơ sở, có nhiệm vụ xác
định hoạt động nhịp nhàng, cân đối có trật tự, có hiệu lực, hiệu quả nhằm hiện
thực hoá những mục tiêu đề ra. Biểu hiện cụ thể của năng lực tổ chức thực tiễn
của đội ngũ CBCC cấp cơ sở như sau:
Một là, có khả năng thu nhập và xử lý thông tin liên quan đến mọi mặt
của đời sống xã hội: Chính trị, kinh tế, văn hố, an ninh quốc phịng… ở cơ


20

sở một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Cơng tác lãnh đạo quản lý là biểu
hiện mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo quản lý và khách thể bị lãnh đạo,
quản lý. Mối quan hệ này được phản ánh qua thông tin hai chiều giữa chủ thể
và khách thể. Thiếu thông tin hoặc xử lý thông tin không kịp thời, chính xác
người lãnh đạo quản lý dễ rơi vào tình trạng quan liêu, độc đốn, chun
quyền xa rời thực tiễn.
Đội ngũ CBCC cấp cơ sở gắn liền với cơ sở, họ vừa phải tổ chức thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, vừa phải bám sát, nắm chắc tình hình
cơ sở để triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch đúng đắn phù hợp với thực tiễn
cơ sở. Vì vậy, thu thập xử lý thơng tin đầy đủ trước hết phải nắm vững chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị Nghị quyết của cấp trên, đồng
thời phải xây dựng phương pháp làm việc khách quan, khoa học hình thành
mạng lưới cung cấp thơng tin xác thực từ cơ sở, kết hợp với việc đi sâu, đi sát
nắm vững những diễn biến hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng từ
nhân dân. Sau khi có đầy đủ thơng tin, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở
cần có khả năng tổng hợp, khái quát, phân tích để rút được những đặc điểm
nguyên nhân, đề ra được những giải pháp và quyết định đúng đắn giải quyết có
hiệu quả những nhiệm vụ đặt ra.
Hai là, khả năng tổ chức bộ máy, phối hợp các lực lượng, các bộ phận, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ đặt ra ở cơ sở. CBCC ở cấp cơ sở phải có tư duy tổ
chức, phối hợp các bộ phận trên cơ sở phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu
của đội ngũ cán bộ dưới quyền, từ đó bố trí phù hợp với năng lực, sở trường,
đồng thời là trung tâm đoàn kết, thu hút cán bộ cấp dưới và nhân dân, tạo nên
sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra.
Ba là, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát để duy trì, điều chỉnh việc thực
hiện các quyết định quản lý, đồng thời phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy
sinh nhằm giải quyết, tìm ra những lệch lạc, sai sót để sửa chữa, điều chỉnh các
vấn đề thực tế đặt ra, từ đó đưa ra các quyết định có hiệu lực, hiệu quả. V.I.



21
Lênin chỉ rõ: “Khi mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định, quyết định được
thông qua, bộ máy con người đã được sắp xếp thì trọng tâm của sự lãnh đạo,
quản lý phải chuyển sang lĩnh vực kiểm tra và gắn với kiểm tra là đôn đốc, uốn
nắn, tổ chức thực hiện đến cùng quyết định” [23, tr. 342].
Công tác kiểm tra, giám sát làm tăng hiệu quả các quyết định quản lý,
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ một cách triệt để, tránh các căn bệnh vốn có như
qua loa, đại khái, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Năng lực này còn thể hiện ở khả năng đánh giá hiệu quả việc thực
hiện các quyết định và khả năng đúc rút kinh nghiệm thực tiễn kịp thời.
1.3.1.3. Năng lực sáng tạo và tính quyết đốn
Năng lực sáng tạo là khả năng vận dụng tri thức lý luận và khoa học vào
thực tiễn khơng rập khn máy móc, tìm ra những con đường mới, phương pháp
mới, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra phù hợp với đòi hỏi khách
quan. Với tư duy năng động, CBCC cấp cơ sở phải nắm bắt được sự vận động
biến đổi không ngừng ở cơ sở trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ
thể và phát triển để đưa ra những quyết sách đúng.
Bên cạnh đó, phải tìm ra cái mới, phân tích được nguyên nhân phát sinh,
xu hướng vận động của các vấn đề đặt ra ở cơ sở để có những giải pháp phù
hợp. Thực tiễn hết sức phong phú, vì vậy CBCC cấp cơ sở phải có khả năng
phân loại, hệ thống hoá vấn đề, xác định được trọng tâm, mâu thuẫn cơ bản để
có phương án giải quyết sát đúng, đề ra những quyết định nhanh nhạy, phát huy
được nguồn lực, tiềm năng của các địa phương, nhằm phát triển kinh tế, xã hội.
Đi cùng với tính sáng tạo là tính quyết đốn, đó là khả năng nắm bắt được vấn
đề, ban hành những quyết định dứt khốt, khơng do dự, khơng rụt rè, đùn đẩy,
thối thác trách nhiệm. Trên cơ sở nắm vững cơ sở khoa học của vấn đề, nắm
vững phương pháp luận trong giải quyết vấn đề, tính quyết đốn tăng thêm hiệu
lực, hiệu quả quản lý, tạo được niềm tin cho người thực hiện, bảo đảm sự nhất
quán trong việc ra quyết định. Nó là sản phẩm của tính kiên quyết, tính chủ



22
động, tư duy sáng tạo, sự thận trọng và niềm tin khoa học. Tính quyết đốn khác
hẳn với bệnh hách dịch, cửa quyền, quan liêu, mệnh lệnh, liều lĩnh và phiêu lưu.
Tính quyết đốn thể hiện trước hết ở khả năng phán đốn chính xác tình hình,
đưa ra được quyết định chỉ đạo ngay lập tức, chính xác trong những tình huống
bất ngờ mà khơng địi hỏi thời gian chờ đợi để phân tích sự kiện hoặc chưa có
đủ sự kiện cần thiết để phân tích. Quyết định sẽ có được do sự nhạy cảm của
trực giác, khả năng phán đốn, phân tích, tổng hợp nhanh nhạy trên cơ sở tri
thức phong phú đã được tích lũy. Cấp cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động của đời
sống xã hội, nơi tổ chức và thực thi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước,
nơi hàng ngày, hàng giờ CBCC gắn bó, gần gủi mật thiết với nhân dân. Vì vậy,
những vấn đề xảy ra cũng hết sức phong phú, phức tạp, nhạy cảm đòi hỏi CBCC
cấp cơ sở phải giải quyết kịp thời, đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra. Nếu
không giải quyết kịp thời sẽ không đạt được hiệu quả công tác lãnh đạo quản lý;
mất thời cơ, lúng túng, bị động, công việc dồn ép, làm chậm sự phát triển KTXH. Nếu quyết định sai, võ đốn, chậm trễ sẽ gây mất lịng tin, có thể là ngòi nổ
bùng phát xung đột hoặc tạo mâu thuẫn, gây mất ổn định trật tự xã hội ở các địa
phương. Nếu khơng quyết đốn, trơng chờ, ỷ lại cấp trên, dựa dẫm vào tập thể
thì hiệu quả cơng tác kém. Vì thế, CBCC cấp cơ sở phải khơng ngừng học tập,
rèn luyện để có tri thức nhận biết được sự vận động của thực tiễn, hiểu và nắm
vững cơng việc mình phụ trách, có phương pháp luận khoa học, rèn luyện tính
quyết đốn để có khả năng ra quyết định một cách dứt khoát và dám chịu trách
nhiệm về quyết định của mình.
1.3.1.4. Năng lực xây dựng khơng khí dân chủ, hài hịa trong các mối
quan hệ
Mơi trường hoạt động của CBCC cấp cơ sở luôn gắn liền với con
người. Công tác lãnh đạo quản lý của họ là sự tác động đến con người bằng
nhiều phương thức khác nhau. Vì thế khả năng giao tiếp vừa thể hiện năng
lực lãnh đạo vừa là một nghệ thuật để nâng cao năng lực lãnh đạo. Phần lớn



23
thời gian làm việc của CBCC cấp cơ sở là giao tiếp với cấp trên (để nhận chỉ
đạo) với cấp dưới (để triển khai công việc) và đặc biệt là giao tiếp với nhân
dân. Chất lượng công tác phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giao tiếp, làm việc
với con người.
Năng lực làm việc với con người là khả năng nắm bắt được tâm lý tư
tưởng của đối tượng thông qua giao tiếp để chuyển tải chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước vào cuộc sống thông qua con người. CBCC cấp cơ sở phải
xây dựng được các mối quan hệ, phải thu hút mọi người tham gia vào cơng việc
chung xuất phát từ lợi ích chung. Có thái độ điềm tĩnh, cư xử nhã nhặn, lịch sự,
tế nhị, khiêm tốn với nhân dân, tôn trọng hiểu rõ tâm tư tình cảm lợi ích của
nhân dân, thơng cảm lắng nghe ý kiến nhân dân. Biết tự phê bình và phê bình,
phát huy sáng kiến của nhân dân, nghiêm khắc với những tiêu cực. Do vậy,
CBCC cấp cơ sở phải có khả năng đồn kết, phát huy sức mạnh của đội ngũ cán
bộ cơ sở trong HTCT, sức mạnh của toàn dân và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân để thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tóm lại đội ngũ CBCC cấp cơ sở là cầu nối giữa Đảng, các cơ quan Nhà
nước với dân. Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, đội ngũ CBCC
cấp cơ sở đóng vai trị rất quan trọng, thậm chí quyết định sự thành bại của sự
nghiệp cách mạng. Do vậy, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta ln coi
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp cơ sở.
Trong ý nghĩa đó, cùng với tiến trình xây dựng kinh tế, xã hội, nhiệm vụ xây
dựng Đảng và đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp
sở được Đảng ta đặc biệt quan tâm.
1.3.2. Các yếu tố đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.3.2.1. Yếu tố đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Chất lượng cán bộ cấp cơ sở hình thành và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố, trong đó chủ yếu và quan trọng là thơng qua đào tạo với mục đích làm cho
trở thành người có năng lực theo tiêu chuẩn nhất định.



24
Đào tạo cán bộ cấp cấp cơ sở là làm cho đội ngũ này có được những năng lực
theo những tiêu chuẩn nhất định. Năng lực ở đây bao gồm trình độ về kiến thức,
năng lực về hiểu biết, nhận thức sự việc, năng lực điều hành, tổ chức thực hiện,
sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện đạt mục tiêu...
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi mới nhưng cũng có
nhiều khó khăn, thách thức mới. Nhiệm vụ chính trị rất nặng nề phức tạp, đặt ra
nhiều vấn đề cho công tác cán bộ và đào tạo cán bộ. Địi hỏi tồn Đảng, tồn dân
phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở ngang tầm, có bản lĩnh
chính trị, phẩm chất cách mạng, có năng lực thực tiễn góp phần thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Phải nhận thức sâu sắc rằng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một khoa
học, hơn nữa là một khoa học về con người, do đó cần được hiểu sâu sắc. Đổi mới
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ sẽ tạo tiền đề cho quá trình tiếp tục đổi mới,
sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối của Đảng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI
của Đảng đã đánh dấu sự đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực của đất nước. Các kỳ
Đại hội tiếp theo Đảng ta tiếp tục khẳng định, phải chăm lo xây dựng thật tốt đội
ngũ cán bộ các cấp, các ngành và đổi mới quan niệm, phương pháp đánh giá, sử
dụng cán bộ trong tình hình mới. Trước hết, phải coi trọng việc xây dựng đội ngũ
cán bộ cấp xã, phường, thị trấn tại chỗ - đây là chiến lược mục tiêu lâu dài.
Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt cho cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở là cần thiết và cấp bách. Họ là những người trực tiếp gần
gũi nhân dân; vì vậy, trước hết phải hiểu sâu sắc đường lối, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để giải thích cho dân hiểu và trả
lời những thắc mắc của dân; đi sâu đi sát, tìm hiểu thực tế, gương mẫu, đi đầu
trong việc thực hiện những chủ trương như xóa đói giảm nghèo, chống quan

liêu, tham nhũng, phòng chống tệ nạn xã hội... và coi đó là nhiệm vụ của chính
mình mà Đảng, tổ chức đã giao cho.


×