Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Từ ngữ và các biện pháp tu từ trong thơ trữ tình phạm thiên thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.55 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ THANH HUYỀN

TỪ NGỮ VÀ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHẠM THIÊN THƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ THANH HUYỀN

TỪ NGỮ VÀ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHẠM THIÊN THƯ

Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN

NGHỆ AN - 2015




LỜI CẢM ƠN
Trong q trình theo học ngành Ngơn ngữ học - khoa Ngữ văn - trường
Đại học Vinh và thời gian thực hiện luận văn, chúng tôi đã nhận được sự chỉ
bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo khoa Sư phạm Ngữ văn,
Trường Đại học Vinh. Ngồi ra, chúng tơi cịn nhận được sự động viên, khích
lệ của gia đình, đồng nghiệp và bạn bè. Nhân dịp này, chúng tôi xin chân
thành cảm ơn tất cả các thầy cơ giáo, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã giúp
đỡ chúng tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo,
TS. Nguyễn Hoài Nguyên, người thầy đã tận tâm hướng dẫn chúng tơi hồn
thành luận văn này.
Trong q trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, mặc dù đã cố gắng
song luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tơi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của q thầy cơ cùng tất cả các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015.
Tác giả


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ......................................................................... 2
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................... 6
5. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7
6. Bố cục của luận văn ................................................................................... 7
Chương 1. MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................... 8


1.1. Mấy vấn đề về thơ và thơ Việt Nam đương đại ..................................... 8
1.1.1. Mấy vấn đề về thơ ............................................................................ 8
1.1.2. Thơ Việt Nam đương đại ............................................................... 19
1.2. Thơ trữ tình và thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ....................................... 24
1.2.1. Khái quát về thơ trữ tình ................................................................ 24
1.2.2. Thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ........................................................ 25
1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................. 31
Chương 2. TỪ NGỮ TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHẠM THIÊN THƯ ................. 32

2.1. Từ trong tiếng Việt và từ trong văn chương ......................................... 32
2.1.1. Giản yếu về từ trong tiếng Việt ...................................................... 32
2.1.2. Từ trong văn chương ...................................................................... 34
2.2. Các lớp từ nổi bật trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ......................... 36
2.2.1. Từ đơn ............................................................................................ 36
2.2.2. Từ láy ............................................................................................. 41
2.2.3. Từ ghép........................................................................................... 47
2.3. Tiểu kết chương 2 ................................................................................. 56


Chương 3. CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ, MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG
THƠ TRỮ TÌNH PHẠM THIÊN THƯ .......................................................... 57

3.1. Các biện pháp tu từ ............................................................................... 57
3.1.1. So sánh tu từ ................................................................................... 57
3.1.2. Điệp và đối ..................................................................................... 64
3.1.3. Câu hỏi tu từ ................................................................................... 71
3.2. Những kết hợp bất thường về ngữ nghĩa .............................................. 76
3.2.1. Dẫn nhập......................................................................................... 76
3.2.2. Những biểu hiện bất thường về ngơn từ ........................................ 77

3.3. Một số hình ảnh trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ........................... 82
3.3.1. Tiểu dẫn .......................................................................................... 82
3.3.2. Hình ảnh em ................................................................................... 83
3.3.3. Hình ảnh chim ................................................................................ 85
3.3.4. Hình ảnh hoa .................................................................................. 88
3.4. Tiểu kết chương 3 ................................................................................. 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Từ tiếng Việt xét về mặt cấu tạo...................................................... 34
Bảng 2.2. Từ đơn trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ..................................... 37
Bảng 2.3. Từ láy trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ...................................... 42
Bảng 2.4. Từ ghép trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ................................... 48
Bảng 3.1. So sánh tu từ trong thơ Phạm Thiên Thư và Chế Lan Viên ............ 59
Bảng 3.2. Ý nghĩa của câu hỏi tu từ trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư ........ 76


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu ngơn ngữ nghệ thuật nói chung và ngơn ngữ thơ ca nói
riêng là một trong những hướng nghiên cứu được nhiều người quan tâm.
Nghiên cứu ngơn ngữ thơ ca, trong đó có việc tìm hiểu đặc điểm ngơn ngữ tác
giả là một trong những hướng đi cần thiết của việc nghiên cứu ngôn ngữ với
tư cách là phương tiện của nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật được tiếp cận
trên nhiều phương diện và tìm hiểu đặc điểm từ ngữ của một tác giả là hướng
tiếp cận vừa mang tính chuyên sâu vừa mang tính liên ngành hiện nay. Sự lựa
chọn đề tài nghiên cứu của chúng tôi xuất phát từ định hướng khoa học đó.

Trong nền thơ ca Việt Nam đương đại, Phạm Thiên Thư được biết đến
như một nhà thơ có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách tân thơ Việt. Bằng
những cách tổ chức ngôn từ đầy sáng tạo, Phạm Thiên Thư đã thực sự tạo nên
dấu ấn phong cách nghệ thuật của mình trên thi đàn. Đọc thơ Phạm Thiên
Thư, độc giả khơng khỏi kinh ngạc trước những hình ảnh mới lạ, những cách
diễn đạt vô cùng độc đáo bằng những “ẩn ngữ”, “mật ngữ”. Điều này được
thể hiện khá rõ trong tuyển tập thơ trữ tình của ơng. Sự hấp dẫn nhưng cũng
khơng ít thách thức của ngơn ngữ thơ Phạm Thiên Thư có sức hút lớn đối với
chúng tôi, mặc dù vẫn ý thức rõ rằng, bước vào cõi thơ Phạm Thiên Thư là đi
vào một lãnh địa đầy thử thách và khơng ít chơng gai.
Nhắc đến Phạm Thiên Thư là ta nhớ ngay đến Đoạn trường vô thanh,
Từ điển cười, cho đến Động hoa vàng và Ngày xưa Hoàng Thị, v.v.. Sự xuất
hiện của Phạm Thiên Thư đã làm cho nền thơ ca Việt Nam cuối thập niên 70
trở nên nhộn nhịp, mới mẻ. Đặc biệt, ở mảng thơ trữ tình, Phạm Thiên Thư
đã trở thành một “hiện tượng” tại miền Nam nước Việt. Rất nhiều bài thơ
của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc và trở thành làn sóng lan truyền


2
nhanh chóng trong lịng giới học sinh, sinh viên lúc bấy giờ. Sở dĩ, Phạm
Thiên Thư được đông đảo bạn đọc đón nhận bởi thơ ơng rất phong phú ở
cách ngắt nhịp, dùng từ, hình ảnh, với những câu thơ đẩy cái đạo đời bồng
bềnh trên cõi phật, làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái mênh mang
bao la của phù vân hư ảo.
Phạm Thiên Thư đã sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Các tác
phẩm của ông rất phong phú và đa dạng: thơ, kinh Phật, sáng tác từ điển cười,
v.v.. Ở một người cầm bút như Phạm Thiên Thư, tính cả về số lượng và chất
lượng thì ở mỗi thể loại đều cần thiết phải có những chun luận nghiên cứu
một cách cơng phu và toàn diện. Thế nên, thơ Phạm Thiên Thư đã trở thành
một đối tượng nghiên cứu lý tưởng xét từ nhiều góc độ khác nhau, những

cách tiếp cận khác nhau, trong đó có cách tiếp cận của ngơn ngữ học.
Từ nhận thức trên, chúng tôi chọn nghiên cứu Từ ngữ và các biện pháp
tu từ trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư làm luận văn cao học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiều từ ngữ và các biện pháp tu từ trong thơ trữ tình Phạm Thiên
Thư, luận văn hướng đến hai mục đích :
Thứ nhất, nhận diện những nét đặc sắc trong từ ngữ và các biện pháp tu
từ trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư, qua đó thấy được đặc điểm phong cách
ngôn ngữ thơ Phạm Thiên Thư.
Thứ hai, luận văn xác lập một cái nhìn tổng quan về sự vận động của
ngôn ngữ thơ Phạm Thiên Thư, qua đó nhận ra những nét cơ bản về sự vận
động của ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu về thơ trữ tình
Thơ trữ tình từ lâu đã được đơng đảo các nhà nghiên cứu quan tâm. Từ
góc độ lý luận, có các nhà nghiên cứu Trần Đình Sử (1987), Phan Ngọc
(1985), Mã Giang Lân (2000), Nguyễn Xuân Kính (1993), Bùi Văn Nguyên,


3
Hà Minh Đức (1971), Phan Diễm Phương (1998), Nguyễn Duy Bắc (1998),
Lê Lưu Oanh (1975, 1990), Trần Khánh Thành (2002), v.v.. Nghiên cứu thơ
trữ tình dưới góc độ ngơn ngữ học có các tác giả Mai Ngọc Chừ (1991),
Nguyễn Phan Cảnh (1985), Nguyễn Tài Cẩn (1998), Hữu Đạt (1998), Đỗ Đức
Hiểu (1993), Đỗ Lai Thúy (1992), v.v..
Gần đây, một số luận văn, luận án ở các trường đại học đã có những
nghiên cứu về thơ trữ tình dưới góc độ ngôn ngữ nhưng không nhiều, vẫn
chưa khai thác hết được những bí ẩn trong ngơn ngữ thơ. Vậy là, cơng việc
này vẫn còn phải tiếp tục.
2.2. Những nghiên cứu về thơ trữ tình Phạm Thiên Thư

Cho đến thời điểm này, thơ Phạm Thiên Thư vẫn chưa có cuốn sách
giáo khoa nào đề cập đến. Thế nhưng, những bài thơ của ông được đông đảo
độc giả hân hoan đón nhận. Mặc dù, không xuất hiện trong sách học nhà
trường nhưng nhiều bài thơ của Phạm Thiên Thư lại là những bức thư tình bỏ
túi của biết bao thế hệ học sinh, sinh viên một thời. Đã có rất nhiều nhà
nghiên cứu, nhà báo, nhạc sỹ giới thiệu về thơ Phạm Thiên Thư trên các trang
báo viết, báo mạng.
Vốn xuất thân từ một tu sĩ nhưng lại làm thơ tình, mà lại là những bài
thơ tình rất hay, vì thế, nhiều người đã phong Phạm Thiên Thư là vị tu sĩ lãng
mạn. Thái Tú Lạp trong bài viết Phạm Thiên Thư non cao tìm động hoa vàng
đã có cùng quan điểm với nhà văn Võ Phiến khi nhận xét về Phạm Thiên
Thư: “Thử tưởng tượng, nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một
bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hị, khơng hề lẽo
đẽo đưa em này đi rước em nọ... thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết
bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những
em nầy em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà khơng màng tới Kinh Hiền Kinh
Ngọc, khơng biết chng mõ gì ráo, thì trong kho tàng thi ca tình ái của ta
cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt đi chứ....”


4
Trong bài viết Những kỷ niệm của tôi về văn học miền Nam, Nguyễn
Đức Tùng [70] viết: “Ngôn ngữ của Phạm Thiên Thư... không mới mà lại mới,
mới mà lại khơng mới. Nhưng rõ ràng nó khác cách nói của các nhà thơ cổ
điển và các nhà thơ ngoài Bắc cùng thời”. Sở dĩ, Nguyễn Đức Tùng nói như
vậy bởi nhà phê bình đã nhận ra thơ Phạm Thiên Thư có nhiều nét lạ, lạ cả ở
cách dùng từ, hình ảnh. Lời thơ tiêu dao, thơ táo bạo, nhiều nét lạ. Vậy là,
không chỉ Nguyễn Đức Tùng, Võ Phiến mà tác giả Nguyên Anh [1] cũng
cùng quan điểm như vậy khi nhận xét về ngôn ngữ thơ Phạm Thiên Thư
(Phạm Thiên Thư tự cứu mình bằng thơ trên trang báo Vietnam.net số ra ngày

28/06/2009).
Lời thơ táo bạo, nhiều nét lạ nhưng thơ Phạm Thiên Thư lại dịu dàng
như chính con người ông vậy: “Thơ ông dịu dàng mà cũng cay đắng, nhưng
khơng phải lỗi ở ơng, đó là lỗi ở cuộc đời” [70].
Trịnh Y Thư với bài viết Thơ lục bát: một duyên phận long đong, đã
đánh giá rất cao về mảng thơ lục bát của Phạm Thiên Thư: “Chính thi sĩ
Phạm Thiên Thư mới là người đưa thơ lục bát lên một cầu vực mới và cho nó
cơ hội thêm một lần bung nở rực rỡ trong khu vườn văn nghệ Việt Nam”. Còn
về nhạc điệu trong thơ Phạm Thiên Thư thì: “Véo von như ca dao nhưng
thánh thót hơn và nếu phải so sánh với lục bát Nguyễn Bính thì “sang cả”
hơn, như nhạc Mozart bên cạnh nhạc Salieri”.
Trong bài viết Đường mưa nho nhỏ anh theo Ngọ về của Hoàng
Nguyên Nhuận [53], để trả lời cho câu hỏi Thế nào là mới với người sáng tác
văn học nghệ thuật? tác giả viết: “Phạm thiên Thư đã không biết lấy kéo mà
hớt câu ngắn câu dài cho lạ mắt. Không biết biến thi ca thành những mật ngữ
đồng bóng khúc mắc khó hiểu, hoặc chẳng ai hiểu gì cả vì thưởng ngoạn là
đồng trật sáng tạo, đọc thơ là làm thơ. Nên những vần thơ bốn chữ, năm chữ,
hoặc lục bát của Phạm thiên Thư có thể trở thành vật tế thần - bên cạnh


5
những con vật tế thần khác là thơ Mới, Thơ Đường luật, trên bàn thờ Cái Mới
một vài người đang hí hửng trật duột dựng lên”. Cuối cùng, Hồng Ngun
Nhuận cho rằng: “Mỗi tác phẩm đích thực là một thực tại mới, tất yếu mới.
Cịn mới hay hay mới khơng hay lại là chuyện khác”.
Trang báo phongdiep.net có đăng bài Thơ Việt, một hành trình chưa
ngừng nghỉ của Hồng Lan [44], tác giả khẳng định: “Dẫu thế nào, thì Hồng
Cầm, Phạm Thiên Thư cũng là những thi sĩ tài hoa bậc nhất của thơ Việt Nam
đương đại".
Ngồi ra, cịn có rất nhiều bài viết nghiên cứu về thơ Phạm Thiên Thư

như: Phạm Thiên Thư và ngày xưa Hoàng Thị đăng trên Vietnam.net (số ra
ngày 27/11/2005) của Trọng Thịnh. Trần Văn Thưởng, Nguyễn Đức Vân, tác
giả bài viết Phạm Thiên Thư - hồn thơ ‘khơng ngủ n. Hồng Ngun Vũ với
bài Cõi lạ Phạm Thiên Thư đăng trên báo Người lao động online (ngày
19/08/2007), v.v..
Nhìn chung, những nghiên cứu về Phạm Thiên Thư, thơ Phạm Thiên
Thư, trong đó, chủ yếu ở mảng thơ trữ tình là chưa nhiều. Hơn nữa, các bài
viết về thơ trữ tình Phạm Thiên Thư chủ yếu xuất phát từ phê bình văn học,
chưa có một bài viết nào tìm hiểu từ góc độ ngơn ngữ học. Do đó, nghiên cứu
ngơn ngữ thơ trữ tình Phạm Thiên Thư là hồn tồn mới mẻ. Đề tài của chúng
tơi cố gắng nhận diện một số đặc điểm ngôn ngữ thơ trữ tình của Phạm Thiên
Thư nhằm làm nổi bật một cá tính thơ độc đáo, mới lạ.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Như đã biết, Phạm Thiên Thư sáng tác rất nhiều thể loại: thơ trữ tình,
thi hóa kinh Phật, sáng tác từ điển cười để đẩy lùi tâm bệnh. Ngồi ra, ơng
cịn nghiên cứu phương pháp chữa bệnh có tên là Phathata (pháp, thân, tâm).
Ở mỗi thể loại đều cần có một chuyên luận nghiên cứu một cách công phu và


6
tồn diện. Vì giới hạn của đề tài, chúng tơi chỉ tập trung nghiên cứu mảng thơ
trữ tình của Phạm Thiên Thư (trong tuyển tập thơ do nhà thơ Phan Đức Nam
tuyển chọn) làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn của mình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tơi đặt ra cho luận văn phải giải quyết những nội dung dưới đây:
- Xác định lý thuyết về thơ, ngôn ngữ thơ, thể thơ trữ tình, đồng thời
đánh giá những đóng góp của thơ trữ tình Phạm Thiên Thư.
- Tìm hiểu những nét đặc sắc về từ ngữ trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư.
- Bước đầu tìm hiểu các biện pháp tu từ nổi trội trong thơ trữ tình Phạm

Thiên Thư.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Khi tiếp cận sáng tác của một nhà văn phải nghiên cứu toàn diện các
tác phẩm của họ trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ, đó là yêu cầu có tính
ngun tắc. Tuy nhiên, do nhiệm vụ có giới hạn của nó, luận văn chỉ tập trung
vào 133 bài thơ trữ tình trong Tuyển tập thơ trữ tình Phạm Thiên Thư do Phan
Đức Nam tuyển chọn, Nxb Đồng Nai, 2006.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Dùng phương pháp thống kê ngôn ngữ học để tiến hành thống kê, phân
loại tư liệu thể hiện các đặc điểm ngơn từ thơ trữ tình của Phạm Thiên Thư.
- Dùng các thủ pháp phân tích, miêu tả và tổng hợp để xử lý tư liệu
nhằm khái quát các đặc trưng ngơn ngữ thơ trữ tình Phạm Thiên Thư.
- Dùng phương pháp so sánh đối chiếu ngôn ngữ thơ trữ tình Phạm
Thiên Thư với một số tác giả, tác phẩm cùng thời để nhận diện những nét
riêng biệt, độc đáo của ngơn ngữ thơ trữ tình Phạm Thiên Thư.


7
5. Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên thơ trữ tình Phạm Thiên Thư được khảo sát và nghiên
cứu một cách tương đối tồn diện và có hệ thống từ góc độ ngơn ngữ. Các tư
liệu cùng với những nhận xét đánh giá của luận văn giúp người đọc nhận biết
khá đầy đủ những nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ trữ tình Phạm Thiên Thư.
Luận văn khẳng định, về phương diện hình thức thể hiện, thơ trữ tình Phạm
Thiên Thư là thế giới mới lạ và độc đáo của sự sáng tạo không ngừng, là cái
hay cái đẹp trong sáng tạo.
- Mặt khác, từ những kết quả nghiên cứu, chúng tơi hướng tới việc

khẳng định đóng góp to lớn của Phạm Thiên Thư ở lĩnh vực ngôn ngữ thơ.
Những thành cơng đó của ơng đã góp phần làm nên vẻ đẹp phong phú, đa
dạng của ngôn ngữ thơ hiện đại. Luận văn góp phần xác định vị trí Phạm
Thiên Thư trong nền thơ Việt Nam đương đại.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận
văn trình bày thành ba chương:
Chương 1. Một số giới thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2. Từ ngữ trong thơ trữ tình Phạm Thiên Thư
Chương 3. Các biện pháp tu từ và một số hình ảnh trong thơ trữ tình
Phạm Thiên Thư


8
Chương 1
MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Mấy vấn đề về thơ và thơ Việt Nam đương đại
1.1.1. Mấy vấn đề về thơ
1.1.1.1. Thơ là gì?
Để đi đến một định nghĩa về thơ là công việc hết sức khó khăn nhưng
rất cần thiết. Khái niệm thơ đã được đề cập rất sớm kể từ ngữ văn học Hy La, nền lí luận văn học cổ điển Trung Hoa cho đến ngày nay. Do thơ là một
thể loại văn học thuộc phương thức trữ tình; tác phẩm thơ bao giờ cũng biểu
hiện thế giới chủ quan của con người, những cảm xúc, tâm trạng, tình cảm,…
nhiều khi chỉ là một giây phút thăng hoa, khác thường nào đó của người làm
thơ, cho nên đã có nhiều cách lý giải khái niệm thơ. Lần theo diễn trình lịch
sử, có thể thấy nổi lên hai khuynh hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thần thánh hóa thơ ca, xem bản chất thơ ca là một cái gì đó
huyền bí, siêu nhiên mà con người khơng thể lý giải được. Theo đó, các nhà
nghiên cứu thường lý tưởng hóa thơ ca hoặc đối lập một cách cực đoan giữa
thơ ca với hiện thực cuộc sống. Chẳng hạn Platon cho rằng thơ là “thần

hứng”, bản chất của thơ ca thể hiện trong linh cảm, những cảm giác thiêng
liêng giữa thế giới cao xa của thần thánh và thế giới con người.
Ở Việt Nam, những năm đầu của thế kỉ XX, các nhà thơ như Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên cũng có những suy nghĩ khá cực đoan về thơ. Hàn Mặc Tử
cho rằng “làm thơ tức là điên”. Còn với Chế Lan Viên, “làm thơ là sự phi
thường. Thi sĩ không phải là người, nó là mơ, người say, người điên. Nó là
tiên, là ma, là quỷ, là tinh, là u. Nó thốt hiện tại, nó xáo trộn dĩ vãng, nó
ơm trùm tương lai. Người ta khơng hiểu được nó vì nó vơ nghĩa, tuy rằng
những cái vô nghĩa hợp lý” (Tựa Điêu tàn, 1937). Như vậy, hai nhà thơ này


9
đều quan niệm thơ thoát ly hiện tại, thơ là một cái gì đó cao siêu, huyền bí và
người làm thơ cũng tồn tại trong những khoảnh khắc “điên loạn”, thần bí,
khơng bình thường. Các nhà thơ nhóm Xn Thu Nhã Tập cũng cho rằng
“Thơ là cái gì đó huyền ảo, tinh khiết, cao siêu… thơ là đạo, là tôn giáo, là
tình yêu”. Nhìn chung, các quan niệm này đều lý giải bản chất thơ ca một
cách siêu hình, khơng thực tế. Theo họ, thơ ca là một thứ đạo - đạo sáng tác
và người làm thơ đều chung một thứ đạo. Gần đây, một số nhà nghiên cứu và
cả những người làm thơ cũng cho rằng không thể đưa ra một định nghĩa về
thơ, vì theo họ, một bài thơ là một định nghĩa về thơ.
Thứ hai, có thể lý giải được bản chất thơ, xác lập một định nghĩa về
thơ. Với khuynh hướng này, các nhà nghiên cứu từ xưa tới nay, từ Đông sang
Tây đã tốn rất nhiều giấy mực để trả lời câu hỏi Thơ là gì? Nhà thơ Octavio
Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì cả đến nói năng cũng trở nên ú ớ” [61,
tr.132]. Nhưng câu hỏi thơ là gì thì chẳng ai dám quả quyết là mình đã nhận
ra và nắm giữ được. Nhưng tham vọng của con người lại muốn đi tìm cái
khơng thể nắm bắt được nó. Vậy nên, thơ là hình văn (sự vật), thanh văn
(nhạc điệu) và tình văn (cảm xúc) [28, tr.97]. Thơ là cái dư âm của lời nói,
trong khi lịng người cảm xúc với sự vật mà hiện ra ngoài (Chu Hi) /Dẫn theo

[27]/. Thơ là sự phân vân giữa âm và nghĩa (P.Valéry) /Dẫn theo [27]/. Văn
xi thuộc về phía con người, thơ thuộc phe thượng đế (J.P.Sartre) /Dẫn theo
[27]/. Cịn nữa, Thơ là ngơn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó. Thơ là
ngơn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh [38], v.v..
Có thể dẫn ra hàng trăm định nghĩa khác về thơ nhưng chắc chắn vẫn
chưa có tiếng nói cuối cùng. Câu hỏi thơ là gì cịn thách thức các nhà nghiên
cứu, các nhà thơ, vẫn là nỗi ám ảnh con người. Bởi vì, thơ là một tổ chức có
trình độ cao của ngôn ngữ, là sự tinh tế của ngôn từ. Thơ trước tiên là cuộc
đời, là hiện thực, là tình cảm của nhà thơ nhưng thơ còn là thơ nữa. Thơ là


10
nghệ thuật của ngơn từ và những gì khơng phải là ngôn từ. Văn xuôi mới là
nghệ thuật của ngôn từ. Cái điều sau chỉ có trong thơ, khơng có trong văn
xuôi. Rất nhiều câu thơ hay chỉ là hay nhờ vào cái tình của người đọc với tác
giả, với toàn bài thơ mà ý nghĩa của câu thơ từ đó được sinh thành. Về điều
này, Crag Powell, nhà thơ, nhà phê bình, bác sĩ tâm lí người Úc cũng xác
nhận: “Thơ ca như là ngôn ngữ của vô thức và giấc mơ, bắt người ta từ các
kinh nghiệm thuộc về quá trình thứ cấp. Những bài thơ làm chúng ta rung
động một cách sâu xa là những bài thơ dấy lên được nỗi cảm xúc về sự hoà
hợp đã mất này, khi trong giả tưởng những biên giới giữa cái tôi và người
khác trở nên mờ nhạt ” /Dẫn theo [70, tr.491]/.
Hơn nữa, thơ là sự thể hiện tập trung nhất chức năng thẩm mĩ của ngôn
ngữ nhưng thơ lại được sáng tạo trên sự võ đốn của ngơn ngữ. Do đó, một
định nghĩa thơ là gì cũng dễ rơi vào võ đốn. Kết quả là, đã có q nhiều quan
niệm, cách định nghĩa về thơ. Những quan niệm về thơ thay đổi tuỳ từng nền
văn hoá, văn minh, thời đại, xã hội, giai cấp, tâm lí cá nhân, v.v.. Người
nghiên cứu hay người làm thơ sẽ có những định nghĩa khác nhau về thơ. Câu
trả lời thơ là gì khơng đến từ định nghĩa thơ mà là từ ý thức về cứu cánh của
thơ nói riêng, nghệ thuật nói chung. Thế nhưng, theo nhà nghiên cứu Đặng

Tiến [69], giới nghiên cứu thế giới hiện nay dường như đồng thuận với quan
niệm về thơ của R.Jakobson (1919): “Cách đặt đối tượng vào ngôn từ, vào
khối từ ngữ, tôi gọi đó là thời điểm duy nhất và thiết yếu nhất của thơ, đụng
không những vào lối kết hợp chữ nghĩa mà cịn đụng vào cái vỏ của ngơn từ.
Sự liên hợp tự động giữa ngữ âm và ngữ nghĩa (le sent et le sens) nhanh
chóng hơn thường lệ” /Dẫn theo [69, tr.25]/. R. Jakobson cịn giải thích thêm
rằng, trong thơ, từ pháp và cú pháp của chúng không phải là những chỉ dẫn
dửng dưng của thực tại, mà chúng có trọng lượng riêng và giá trị nội tại.
Nghĩa là, trong ngơn ngữ thi ca, kí hiệu tự bản thân nó đã hoàn tất một giá trị


11
độc lập. Về điều này, J.P.Sartre khẳng định thêm: Nhà thơ khước từ sử dụng
ngôn ngữ; sự khước từ sử dụng ngơn ngữ là muốn nói tuyệt đối khơng coi
ngơn ngữ như một kí hiệu, một cơng cụ giao tiếp đơn thuần. Như vậy, nhà thơ
phải chấp nhận một thứ lao động nhọc nhằn, khổ sai do không chịu ăn sẵn
ngôn ngữ đã được tiếp thu từ khế ước xã hội mà phải đi tìm một cách biểu đạt
khác. Nhà thơ là người đè một ngôn ngữ khác lên tiếng nói sẵn có của cộng
đồng - ngơn ngữ giao tiếp hàng ngày. Cũng bàn về thơ, theo Phan Ngọc:
“Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận
phải nhớ, phải cảm xúc, phải suy nghĩ cho chính hình thức ngơn ngữ này”
[56, tr.23]. Nói rằng, hình thức tổ chức ngơn ngữ của thơ hết sức qi đản là
nói trong ngơn ngữ giao tiếp khơng có tổ chức ngơn ngữ như thế. Cách quan
niệm thơ như là mỹ học của cái khác của Đỗ Lai Thuý [68] cũng tương tự.
1.1.1.2. Phân biệt thơ với văn xuôi
Vào thập kỉ 80, của thế kỷ XX, ở Pháp khởi sự cuộc tranh cãi giữa thơ
với văn xuôi. Có những nhà thơ khăng khăng coi ngơn ngữ thơ cao hơn ngơn
ngữ văn xi. Có những nhà thơ và vài nhà ngữ học trẻ cho rằng, khơng có
thơ, cũng chẳng có văn xi mà chỉ có sự đi lại giữa hai thứ. Cuối năm 2000,
tạp chí thơ hàng đầu của Pháp là Láction Poétique (Hành động thơ) ra một số

chuyên đề về thơ/văn xuôi, tập hợp nhiều bài viết của các nhà thơ, nhà văn,
nhà lí luận phê bình, nhà ngữ học xung quanh vấn đề phân biệt thơ và văn
xuôi. Trong bài Văn xuôi/ thơ: cuộc tranh cãi bị xuyên tạc, (Hoàng Hưng
dịch) tác giả Jean - Claude Montel có cái nhìn tổng thuật về cuộc tranh cãi
giữa thơ với văn xi: Có nhà nghiên cứu phân biệt thơ với văn xi trên ba
bình diện: chủ đề, tiết tấu và nghĩa (…). Văn xuôi phải chịu sự câu thúc của
thời gian (có khởi đầu và kết thúc), khơng có âm luật và tiết tấu. Cịn thơ có
thể vừa là bây giờ vừa là kí ức của ngơn ngữ (…). Chủ đề văn xi mơ tả,
diễn dịch, phân tích, chia tách, hợp nhất cái thực tại hoặc thông qua các nhân


12
vật, có hoặc khơng có câu chuyện. Chủ đề thơ được thoát ra khỏi cái thường
ngày, trong mọi trường hợp nó vượt ra ngồi sự tranh chấp sống/chết,
thành/bại, hiện/biến (…). Trong khi, thơ áp đặt một trải nghiệm độc nhất và
chưa từng có (khơng đầu khơng cuối) thì văn xi khơng thể trốn tránh sự
phán đốn đồng thời của cái biểu tượng và cái tưởng tượng, bởi vì, điều mà
văn xi tiến tới bao giờ cũng (đã) xảy ra ít nhất một lần. Nhà thơ đương đại
hàng đầu Pháp Jacques Roubaud có nói: Thơ khơng nói gì hết trong khi văn
xi nói một cái gì đấy (http://www. thotre.com, 17/5/2008). Cuộc tranh luận
ở Pháp, về cơ bản đã chỉ ra nhiều điểm khác biệt giữa thơ và văn xuôi. Dĩ
nhiên, thơ hiện đại đã và đang giải thoát khỏi những ràng buộc về thể thức, thi
luật cố định. Địa hạt thơ đương đại được nới rộng đường biên qua thơ tự do,
thơ văn xuôi, thơ hậu hiện đại, v.v.. Theo chúng tơi, có thể có nhiều khía cạnh
để phân biệt thơ với văn xuôi. Trước hết, các nhà văn, nhà thơ tư duy trên
chất liệu ngôn ngữ là khác nhau. Trong văn xuôi, các đơn vị ngôn ngữ cùng
một loạt giống nhau được tập hợp nhờ thao tác lựa chọn thông qua mối quan
hệ liên tưởng, hay nói cách khác, trong cùng một hệ hình. Nhà văn có thể
chọn bất kì đơn vị nào trong mối quan hệ nào trong mỗi hệ hình rồi kết hợp
với nhau để tạo nên thơng báo. Lựa chọn đơn vị nào trong từng hệ hình cũng

được nhưng khơng được phép lặp lại. Đấy chính là ngun lí làm việc của văn
xi, làm việc bằng thao tác kết hợp. Do đó, các thơng báo trong văn xuôi bao
giờ cũng dùng để nhắc gợi đến ngữ cảnh chứ hồn tồn khơng phải để giải
thích các đơn vị trong mỗi ngôn ngữ. Trong văn xuôi, lặp là điều tối kị.
Nhưng chính điều tối kị đó trong văn xi lại là thủ pháp làm việc của thơ.
Trong thơ, tính tương đối của các đơn vị ngôn ngữ lại được dùng để xây dựng
các đơn vị thông báo. Trong thơ, người ta chấp nhận từ điệp âm (phụ âm,
nguyên âm, thanh điệu), điệp từ, điệp câu,… tức là, khai thác triệt để thủ pháp
lặp lại các đơn vị ngôn ngữ. Các nhà thơ đã tư duy trên chất liệu ngôn ngữ


13
một cách khá đặc thù, hình thành các hệ hình, rồi từ các hệ hình xây dựng
thành chiết đoạn. Cứ như thế, các đơn vị ngôn ngữ trong thơ chồng xếp lên
nhau, thành nhiều tầng trên một bề mặt.
Trong thơ, sự tương đương của các đơn vị ngôn ngữ làm nên chiết đoạn
tạo thành thông báo bao giờ cũng bao hàm một sự tương đương về ý nghĩa.
Nghĩa là, sức mạnh của cơ cấu lặp lại, của kiến trúc song song trong thơ chính
là ở chỗ biểu thị một sự láy lại, song song trong tư tưởng.
Như vậy, trong thơ, chức năng mĩ học chiếm ưu thế nhưng không loại
trừ chức năng giao tiếp nên đã làm cho thông báo trở nên đa nghĩa, mập mờ,
có tính chất nước đơi. Thơ do vậy là ý tại ngôn ngoại, là hàm súc vơ cùng. Vì
sao văn xi là ý tại ngơn tại cịn thơ là ý tại ngơn ngoại, là phải hàm súc đa
nghĩa? Văn xuôi phải xây dựng nhân vật điển hình trong một hồn cảnh điển
hình nên phải miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật, bối cảnh xã hội,… nghĩa
là phải cụ thể, chi tiết nên một số câu chữ có thể giãn ra hay co lại là tuỳ ý đồ
tác giả nhưng nhìn chung chúng khơng cơ đúc như ngôn từ thi ca. Khác với
văn xuôi, thơ chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện
cái vô hạn của cuộc sống cũng như những tâm sự thầm kín trong đời sống nội
tâm của con người. Do đó, ngơn ngữ thơ hàm súc, giàu hình tượng, biểu cảm

và giàu sức tưởng tượng. Đó là một ngơn ngữ gợi hình gợi cảm, giàu nhạc
điệu. Nó biến hố hết sức kì ảo, lung linh, bất ngờ, thú vị. Thơ là nghệ thuật
của ngôn từ và những gì khơng phải là ngơn từ (chẳng hạn, thơ thị giác). Văn
xuôi mới là nghệ thuật của ngôn từ. “Thơ ca như là ngôn ngữ của vô thức và
giấc mơ, bắt nguồn từ các kinh nghiệm thuộc quá trình sơ cấp và gần gũi với
sự hoà hợp nguyên sơ của tình mẫu tử hơn là ngơn ngữ văn xi vốn thuộc
quá trình thứ cấp” (Crag Powell) /Dẫn theo [70, tr.491]/. “Thơ là tiếng lòng
được cất lên từ những ám ảnh chìm sâu trong vơ thức” [63].
Nếu ngơn ngữ văn xi là liền mạch thì ngơn ngữ thơ bao giờ cũng
chia cắt thành những đơn vị tương ứng với nhau. Việc tổ chức ngôn ngữ thơ


14
bao giờ cũng theo những quy luật tuần hoàn âm thanh, trong đó ln ln đề
ra sự chia cắt thành những vế tương đương. Cách tổ chức thơ có ưu thế hơn
văn xi bởi tính chắp khúc của nó. Một bài thơ được chia thành từng đoạn,
mỗi đoạn chia ra thành từng khổ, mỗi khổ có một số câu như nhau, mỗi câu
có một số chữ như nhau; các chữ này được bố trí theo một mơ hình về thanh
điệu, trường độ, số lượng âm tiết; mỗi câu thơ đều có sự cắt mạch thành các
vế tương đương tạo nên tiết tấu, nhạc điệu. Như vậy, thơ có một kiến trúc
hồn hảo về ngơn ngữ mà văn xi khơng làm như thế. Mặt khác, nội dung
thông báo của văn xuôi là nội dung do cú pháp đem lại. Còn ngữ nghĩa của
thơ, ngồi nội dung thơng báo cịn có những ngữ nghĩa khác. Nghĩa thông báo
của thơ khác nghĩa thông báo của văn xuôi. Câu văn xuôi chứa đựng một
thông báo cá biệt, hạn chế về địa điểm, đối tượng, thời gian. Một thông báo
của thơ là phi thời gian, phi khơng gian, là khơng có giới hạn cụ thể. Do đó,
câu thơ nào cũng đa nghĩa, cũng chứa đựng những nỗi niềm, những ám ảnh
buộc người đọc phải suy nghĩ, phải cộng cảm bằng sự trải nghiệm cá nhân.
Chính vì vậy, thơ là nơi tập trung nhiều cấu trúc mang tính ngoại lệ, bất quy
tắc. Về cơ bản, ngữ pháp của thơ khác với ngữ pháp điển phạm của văn xi.

Cịn nữa, khác với văn xi, thơ là một cấu trúc đầy nhạc tính. Thơ có
thể bỏ vần, khơng chặt chẽ về bằng trắc nhưng thơ không thể bỏ được nhịp
điệu. Nhạc tính trong thơ có thể thay đổi và có thể khác đi nhưng nhịp điệu thì
khơng thể mất. Nhịp điệu là phần nội tại của thơ, của bài thơ, của nhà thơ.
Mỗi nhà thơ chính danh phải có một nhịp điệu thơ của riêng mình. Nhịp điệu
làm nên sức ngân vang cho thơ, tạo sự ám ảnh cho người đọc và gợi tiếng
đồng vọng của những tiếng lịng.
1.1.1. 3. Các bình diện của ngơn ngữ thơ
a. Bình diện ngữ âm
Theo R. Jakobson: “Chức năng thi ca đem nguyên lí tương đương của
trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp. Tức là các yếu tố đồng vị trên trục tuyển


15
lựa (hệ hình) có thể được xuất hiện trong một thế tương quan nhất định trên
trục kết hợp (cú đoạn) tạo ra những hình tượng âm thanh lặp lại những cấu
trúc ngữ âm mang tính biểu trưng” [40]. Dĩ nhiên, nếu quy các yếu tố như
khổ thơ, sự điệp âm, vần thơ, nhịp điệu,… vào mỗi một bình diện âm thanh
thì chúng ta sẽ rơi vào tình trạng suy lí tư biện một cách khơng có căn cứ.
Việc chiếu ngun lí tương đương lên chuỗi kế tiếp có một ý nghĩa rộng hơn
và sâu hơn rất nhiều. Nó phải được hiểu như công thức của P.Valery: Thơ là
sự phân vân giữa âm và nghĩa. Nhưng, để nhận diện các mặt của ngơn ngữ
thơ, chúng ta tạm trừu tượng hố để hình dung các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và
ngữ pháp trong ngơn ngữ thơ.
Trước hết, thơ là hình thức tổ chức ngơn ngữ đặc biệt mang thuộc tính
thẩm mĩ về ngữ âm. Nói đến thơ là nói đến các yếu tố nằm trong sự vận dụng
nghệ thuật hình thức âm thanh ngơn ngữ. Đó là sự hồ phối về âm thanh, là
ngắt dòng, ngắt nhịp, là sự hiệp vần. Các đơn vị âm thanh như thanh điệu,
nguyên âm, phụ âm cùng với các thuộc tính âm thanh như cao độ, cường độ,
trường độ góp phần tạo nên nhạc điệu cho thơ. Tiếng Việt có số lượng thanh

điệu phong phú (6 thanh); các thanh có phẩm chất về âm vực (cao/thấp) và
đường nét (bằng phẳng/gãy); có số lượng nguyên âm và phụ âm lớn (14
nguyên âm, 23 phụ âm), được khai thác và tổ chức trong thơ nhằm tạo nên âm
hưởng, tiết tấu, nhạc điệu cho thơ. Khi khai thác nhạc tính trong thơ, ta cần
chú ý đến những sự đối lập sau: đối lập về trầm/bổng, khép/mở của các
nguyên âm làm đỉnh âm tiết; đối lập về tắc - kêu, tắc - điếc giữa hai dãy phụ
âm mũi và phụ âm tắc - vô thanh trong các âm cuối kết thúc vần; đối lập cao
thấp, bằng/trắc của các thanh điệu.
Ngoài việc tổ chức các đơn vị âm thanh theo sự đối lập, vần và nhịp thơ
cũng góp phần quan trọng tạo nên nhạc tính cho thơ. Phát ngơn bao giờ cũng
phải được thể hiện bằng một ngữ điệu. Mỗi dòng thơ, câu thơ chứa trong bản


16
thân nó một loại ngữ điệu đặc biệt, người ta gọi đó là nhạc thơ. Khi nhạc thơ
của một thể thơ đạt đến tính ổn định và làm nên nét khác biệt thì chúng trở
thành âm luật của thể thơ đó. Nhạc thơ được tạo nên bởi ba yếu tố chính là âm
điệu, vần điệu và nhịp điệu. Tuỳ thuộc từng bài thơ cụ thể mà một trong ba
yếu tố đó có vai trị nổi bật hơn. Trong bất cứ bài thơ nào, vai trò của ba yếu
tố này cùng được xác lập thì thi phẩm sẽ giàu nhạc điệu, ấn tượng ngữ nghĩa
càng phụ thuộc nhiều hơn vào ấn tượng ngữ âm. Âm điệu là một khái niệm
được xác lập trong thế tương quan với vần điệu, nhịp điệu và thanh điệu (tức
sự phối thanh). Âm điệu cịn có thể được hiểu là sự hoà âm được tạo ra từ sự
luân phiên xuất hiện giữa các đơn vị âm thanh (nguyên âm, phụ âm, thanh
điệu) có những phẩm chất ngữ âm tương đồng và khác biệt trên trục tuyến
tính. Về vần điệu, đây là khái niệm chưa có tính ổn định cao. Vần là yếu tố
lặp lại của một bộ phận âm tiết theo một vị trí nhất định trong dịng thơ (câu
thơ) có chức năng tổ chức, liên kết các câu thơ (dòng thơ) thành khổ thơ, các
khổ thơ thành bài thơ. Vần là yếu tố quan trọng tạo nên sự hòa âm giữa các
câu thơ. Về nhịp điệu, có thể hiểu nhịp điệu là cái được nhận thức thơng qua

tồn bộ sự lặp lại có tính chu kì, cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian
của những chỗ ngừng nghỉ, chỗ ngắt hơi trên những đơn vị cơ bản như câu
thơ (dịng thơ), khổ thơ, thậm chí đoạn thơ. Nhịp là yếu tố cơ bản, là xương
sống của bài thơ và là tiền đề cho hiện tượng hiệp vần trong thơ.
b. Bình diện ngữ nghĩa
Trong thơ, ngơn ngữ cơ đọng, từ ngữ và hình ảnh súc tích, đa nghĩa.
Mỗi từ ngữ khi được đưa vào thơ đều đã trải qua sự cân nhắc lựa chọn của tác
giả và được đặt vào những vị trí nhất định. Nhà thơ phải chấp nhận một thứ
lao động nhọc nhằn, khổ sai vì “Thơ là một lạng cảm xúc cộng với một tạ mồ
hôi” [19, tr.110]. Và “nhà thơ phải một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên
cánh đồng giấy, đổ bát mồ hôi lấy từng hạt chữ” [19, tr.118]. Nhà thơ Lê Đạt


17
tự nhận mình là phu chữ, bởi theo ơng: “Bất cứ một chữ nào cũng phải có
phần ngày của kí hiệu và phần đêm của sự vật. Bóng chữ có thể coi là phần
tiền kiếp khơng được hố giải của chữ. Như bóng con thuyền Trương Chi
thiếu nợ hị khoan mãi lòng chén nước Mị Nương” [19, tr.13]. Chữ hay bóng
chữ mà Lê Đạt nói ở đây là các đơn vị từ ngữ. Nhưng do thơ là ngôn ngữ
trong chức năng thẩm mĩ của nó (R.Jakobson) nên các từ ngữ khi đi vào thơ
và kết hợp với nhau thì tính võ đốn của ngơn ngữ bị phá vỡ, khơng cịn nét
nghĩa nguyên trạng nữa. Một thực tại mới đã được hiện ra. Về điều này, chính
R.Jakobson cũng đã xác nhận: “Trong ngơn ngữ thi ca, kí hiệu tự bản thân nó
đã hồn tất một giá trị độc lập” /Dẫn theo [69]/. Cũng vậy, khi J.P.Sartre
khẳng định nhà thơ khước từ sử dụng ngơn ngữ là ý muốn nói tuyệt đối khơng
coi ngơn ngữ như một kí hiệu, một cơng cụ giao tiếp đơn thuần. Nhà thơ ít
quan tâm đến phần biểu thị tự vị của chữ mà chủ yếu quan tâm đến phần hình
dung, đến diện mạo, âm hưởng, độ vang vọng, sự gợi cảm quá khứ và tương
lai của chữ trong quan hệ hữu cơ với câu thơ, với bài thơ.
Không phải là thơ không cần ý tưởng. Nhưng cái ý tưởng hay cảm xúc

cũng như sự quan sát khách quan của nhà thơ phải trở thành máu huyết của
mình. Nhà thơ phải sống với nó mỗi ngày, rồi nó tự bật ra, thơ tự nhiên bật ra
thơi. Muốn thế, nhà thơ phải sống với chữ nghĩa, phải ăn nằm với chữ
(Dương Tường) để rồi chữ bầu nên nhà thơ. Theo Hồng Cầm: “Thơ tơi
khơng có thơng điệp. Khơng hề có có ý định diễn đạt một ý tưởng ra thành
thơ (….). Các chữ bao giờ cũng bật ra từ tâm linh, có khi đi trước nghĩa của
chúng (….). Nhưng nếu coi thông điệp là những ý nghĩa của bài thơ, người
đọc nhận ra mỗi người một cách khác nhau, thì tất nhiên, bài thơ nào cũng có
thơng điệp cả” [7, tr.48]. Khi các chữ của nhà thơ được viết ra từ những rung
động của tâm hồn, từ nhịp đập của trái tim thì cũng làm cho trái tim người đọc
rung động theo. Như vậy, thơ không phải là có sẵn ý nghĩa (đã nghĩa, theo


18
cách nói của Dương Tường), thơ trước hết là sự rung động. Nó cịn đi trước cả
ngơn ngữ biểu đạt rồi trở thành một với nó. Nhà thơ Đỗ Quyên cho rằng: Rất
nhiều câu thơ hay là “hay” nhờ vào cái tình của người đọc với tác giả, với tồn
bài thơ mà câu thơ từ đó được sinh thành. Nói khác đi, nếu coi mỗi bài thơ là một
từ vựng (vocabulaire) tức là cái biểu đạt để định danh cái được biểu đạt thì tính
cách võ đốn của mỗi từ vựng - thơ đó là tuỳ thuộc vào tiếng lịng của nhà thơ.
Như vậy, ngữ nghĩa trong thơ phong phú hơn nhiều so với ngữ nghĩa trong văn
xi và có sự khác biệt với ngữ nghĩa trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Ngữ
nghĩa và ngữ âm là hai mặt cơ bản cấu thành tác phẩm thi ca. Dù âm thanh và ý
nghĩa trong thơ được nghiên cứu một cách cơ lập thì hai bình diện này bao giờ
cũng được bao hàm một cách tất yếu. Bởi vì, theo R. Jakobson: “Sự tương đồng
giữa các âm thanh được chiếu lên chuỗi tiết tấu như là ngun lí cấu thành nó thế
nào cũng bao hàm tính tương đồng ngữ nghĩa” [40].
c. Bình diện ngữ pháp
Trong ngơn ngữ thơ, nếu như bình diện ngữ âm tương liên với bình
diện ngữ nghĩa thì bình diện ngữ âm cũng có quan hệ với ngữ pháp. Sự lặp lại

một hình thức ngữ pháp (figure grammaticale) cùng với sự lặp lại một hình
thức ngữ âm (figure phonique) là nguyên tắc cấu tạo của một tác phẩm thơ.
Đơi khi, những tương phản trên bình diện tổ chức ngữ pháp đã tạo áp lực đối
với việc phân chia bài thơ thành những khổ thơ hoặc những phần của khổ thơ
như câu thơ (dòng thơ).
về cơ bản, ngữ pháp của thơ có cơ sở từ ngữ pháp điển phạm của văn
xuôi nhưng được biến đổi linh hoạt. Ngữ pháp thơ là ngữ pháp tiếng lòng và
kiểu ngữ pháp này cùng với văn hoá của nhà thơ làm nên giọng điệu hay
phong cách riêng. Mỗi nhà thơ đích thực có một ngữ pháp thơ của riêng mình.
Về phương diện ngữ pháp, câu thơ, dịng thơ khơng hồn tồn trùng
nhau. Có những câu thơ bao gồm nhiều dòng thơ, ngược lại, cũng có những


19
dịng thơ chứa nhiều câu thơ. Nhà thơ có thể sử dụng nhiều kiểu câu bất
thường về cú pháp như đảo ngữ, tách câu, câu vắt dịng, câu trùng điệp,…mà
khơng làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận văn bản. Trái lại, chính những
bất thường về cú pháp lại tạo nên những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn từ
thi ca. Các kiểu câu bất thường về cú pháp khi được sử dụng sẽ chuyển tải
những trạng thái tinh tế, bí ẩn trong thế giới nội tâm con người, giúp nhà thơ
diễn đạt được những thành phần ngữ nghĩa đa dạng trong sự hữu hạn về số
lượng câu chữ.
Tóm lại, qua ba bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp, ta thấy ngôn
ngữ thơ là thứ ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù. Qua ba bình diện này, chính các
nhà thơ đã đem lại cho dân tộc mình một ngơn ngữ thơ sinh động và mới mẻ.
Nói như Hêghen thì “Nhà thơ là người đầu tiên đã làm cho dân tộc mình mở
miệng và thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng và ngôn ngữ” /Dẫn theo [57].
1.1.2. Thơ Việt Nam đương đại
1.1.2.1. Khái quát về thơ Việt Nam đương đại
Kể từ cuộc tiếp xúc với văn học phương Tây từ cuối thế kỉ XIX, diện

mạo nền văn học nước nhà bước đầu có sự thay đổi. Thời kì thơ mới (1932 1945) đã hòa vào dòng thơ thế giới, qua nhịp cầu thơ ca Pháp. Những gương
mặt tiêu biểu Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Chế Lan Viên,…
đã làm nên “một thời đại trong thi ca” (chữ dùng của Hoài Thanh). Nhưng đặt
vào hoàn cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ, văn học nghệ thuật cũng phải dồn
hết tâm lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; thơ ca Việt Nam
một thời kì khởi sắc lại phải gồng mình để gánh trách nhiệm nặng nề nhưng
không kém vinh quang: cổ vũ phong trào đấu tranh của dân tộc.
Cho đến năm 1975, khi đất nước hồn tồn thống nhất, đặc biệt từ cơng
cuộc đổi mới 1986, văn học Việt Nam mới trở lại quỹ đạo chung cùng văn học
thế giới. Thơ Việt Nam, một mặt, do thúc bách của xã hội, một mặt, do yêu cầu


×