Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở thành phố vinh, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.5 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________________________________________________________________________________

NGUYỄN THỊ KIM CHI

GIÁO DỤC Ý THỨC
CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN Ở THÀNH PHỐ VINH,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2016


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________________________________________________________________________________

NGUYỄN THỊ KIM CHI

GIÁO DỤC Ý THỨC
CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN Ở THÀNH PHỐ VINH,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

NGHỆ AN - 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành đề tài này, ngồi sự nỗ lực của
bản thân, tơi còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ gia đình, các cơ quan, đơn vị và
cá nhân.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cơ giáo Khoa Giáo
dục Chính trị và Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Vinh và các thầy, cô giáo
đã tham gia giảng dạy tơi trong tồn bộ khóa học. Cảm ơn sự quan tâm và giành
nhiều tâm huyết truyền đạt những tri thức q báu, giúp tơi hồn thành khóa học
và luận văn.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Lương
Bằng - Người thầy đã ln tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến
q báu để tơi hồn thành luận văn này.
Xin cảm ơn các cơ quan, đoàn thể đã tạo điều kiện giúp đỡ để tơi có được
những thông tin, số liệu xác đáng. Xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã
ln động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành chương
trình học tập của mình.
Nghệ An, tháng 8 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Kim Chi



3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA ................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 2
MỤC LỤC ............................................................................................................. 3
BẢNG KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................... 4
DANH MỤC CÁC BẢNG.................................................................................... 5
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6
B. NỘI DUNG..................................................................................................... 12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY........... 12
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .................................................... 12
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên
trong bối cảnh hiện nay ................................................................................. 22
1.3. Nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật cho thanh niên .. 26
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP
HÀNH PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH
NGHỆ AN ........................................................................................................... 32
2.1. Khái quát đặc điểm điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính trị - xã
hội, an ninh - quốc phịng của thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An ..................... 32
2.2. Thực trạng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở thành
phố Vinh ........................................................................................................ 39
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY ..... 60
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho thanh niên ở
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong bối cảnh hiện nay ............................... 60

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho thanh niên ở
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay .............................. 66
C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 89


4
BẢNG KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

GDYTCHPL

:

Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật

ĐVTN

:

Đoàn viên thanh niên

YTPL

:


Ý thức pháp luật

THPT

:

Trung học phổ thơng

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

PB,GDPL

:

Phổ biến, giáo dục pháp luật

GD - ĐT

:

Giáo dục - đào tạo

UBND

:


Ủy ban nhân dân

ATGT

:

An tồn giao thơng


5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Quy định độ tuổi thanh niên ở một số nước trên thế giới ................... 21
Bảng 2.1. Số lượng, cơ cấu thanh niên thành phố Vinh, năm 2016 ................... 40
Bảng 2.2. Số lượng tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố
Vinh trong 5 năm (2011 - 2016) ........................................................ 49
Bảng 2.3. Số lượng các đợt tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho ĐVTN trên địa
bàn thành phố Vinh trong 4 năm (2013-2016) .................................. 50
Bảng 2.4. Số lượng các cuộc thi tìm hiểu pháp luật cho thanh niên thành phố
Vinh trong 3 năm (2014 - 2016) ........................................................ 52


6
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề về thanh niên
đã được tất cả các quốc gia, các thời đại coi là một vấn đề có tầm quan trọng đặc
biệt. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn,
là nguồn lực mãnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, là lực lượng xung kích
trong sự nghiệp cơng nghiệp, hiện đại hoá đất nước; tin tưởng sâu sắc vào lực

lượng thanh niên, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên
rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết”.
Nhân loại đang dần bước qua những năm đầu của thế kỉ XXI, thế kỉ của
những thành tựu khoa học - kĩ thuật, của thế hệ trẻ năng động và đầy tiềm năng.
Xuất phát điểm, đất nước ta là một đất nước trải qua nhiều cuộc đấu tranh xâm
lược; từ một đất nước nghèo lạc hậu vực dậy sau những tổn thương, mất mát. Và
giờ đây, khi đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập
kinh tế quốc tế. Ngoài sự cố gắng của Đảng và nhà nước, đưa ra những đường
lối chính sách quan trọng, phù hợp với thời đại, vận dụng kịp thời trong bối cảnh
của đất nước. Cịn có sự cố gắng của tồn thể dân tộc, đồng bào Việt Nam. Đó là
sự đồn kết, chung tay góp sức để biến những điều khó khăn trở thành hiện thực.
Cũng chính là sự hi sinh của thế hệ cha anh đi trước luôn đáng tự hào.
Ngày nay, tình hình trong nước với bối cảnh quốc tế biến động và phức
tạp, trước những thách thức to lớn của xu thế tồn cầu hóa về kinh tế, sự phát
triển của kinh tế tri thức có tác động mạnh mẽ đến thanh niên. Thế hệ thanh niên


7
đang có những thay đổi về cơ cấu xã hội, địa vị kinh tế, tư tưởng chính trị, tâm
lý, lối sống,… Những thay đổi này diễn ra mạnh mẽ, bên cạnh những yếu tố tích
cực là những mặt tiêu cực.
Xu thế tồn cầu hóa đã tạo nên một khơng gian dễ dàng cho việc giao lưu
giữa các thế hệ trẻ với nhau trên thế giới. Qua đó, tầng lớp thanh niên đã và đang
học hỏi được những phong tục tập quán, những kinh nghiệm sống quý báu cũng
như hoàn thiện con người của các dân tộc khác nhau.

Trong thực tế cuộc sống cho thấy, các vụ vi phạm pháp luật nói chung,
tội phạm nói riêng đều có nhiều nguyên nhân gây ra, song ở đó ln ẩn chứa
một ngun nhân sâu xa là ý thức pháp luật và thi hành pháp luật. Từ đó, tơi
nhận thấy việc giáo dục ý thức pháp luật cho tồn dân nói chung và thế hệ
thanh niên nói riêng có tính cấp thiết đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế từ trung ương đến cơ sở nhằm làm cho mọi
người, mọi thành viên trong xã hội nhận thức và hành động theo đúng pháp
luật, hạn chế tối đa các vụ việc vi phạm pháp luật là do không hiểu biết về
pháp luật. Đây được coi như là nhiệm vụ sống còn, là sự nghiệp cách mạng của
đất nước. Nhằm giúp thế hệ trẻ hôm nay có bản lĩnh chính trị vững vàng trước
mọi thử thách trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước, góp phần thực
hiện thành cơng mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh” theo định hướng XHCN.
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là
rất quan trọng và cấp thiết, đặc biệt là ở lứa tuổi thanh niên. Để có một đất nước
giàu mạnh, theo kịp được xu thế toàn cầu của xã hội, Đảng và nhà nước ln
đẩy mạnh những nguồn lực và tiềm năng vốn có của mình. Qua đó, việc cần có
những lí luận chỉ đường đưa lối là nhiệm vụ tất yếu. Điều này địi hỏi cần có một
nghiên cứu sâu sắc khoa học, đưa ra những các giải pháp hiệu quả nhằm nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên, đồng thời góp phần vào việc xây


8
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả pháp chế XHCN và
quản lý xã hội của đất nước.
Trước những u cầu đó, đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề
này, bao gồm các nhóm cơng trình như:
- Nhóm sách, tài liệu tham khảo:
Sống và làm theo pháp luật - Một số vấn đề giáo dục pháp luật cho thanh
niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, năm 1997; Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên,

Nxb Thanh niên, Hà Nội, xuất bản năm 1980; Hoàng Thanh Giang (2001), Xây
dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề giáo dục pháp luật cho thanh niên, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2001; Đặng Cảnh Khanh (2007), Giáo dục pháp
luật cho thanh niên - vấn đề quan trọng của sự ổn định xã hội, Nxb Thanh niên;
Phan Thông (2007), Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật và các giải pháp
của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên; Đào Ngọc Tuấn
(2007), Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc giáo dục ý thức pháp
luật cho thanh niên, sinh viên, Nxb Thanh niên; Trung ương Đồn TNCS Hồ
Chí Minh (2010), Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên - thực trạng và
giải pháp, Nxb Thanh niên
- Nhóm luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ:
+ Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, trường Đại học Vinh của tác giả
Ngô Thị Thanh Nga, Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện
nay (2003).
+ Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, trường Đại học Vinh của tác giả
Nguyễn Đình Nam (2012), Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
+ Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, trường Đại học Vinh của tác giả
Bùi Văn Hưng (2010), Nâng cao chất lượng tuyên tryuền, giáo dục ý thức pháp


9
luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
+ Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, trường Đại học Vinh của tác giả
Nguyễn Thị Thu Ba (2012), Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cho công nhân tại các doanh nghiệp ở tỉnh Đồng Nai giai đoạn hiện nay
+ Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, trường Đại học Vinh của tác giả

Vương Trần Lê (2013), Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật cho học sinh các trường THPT trên địa bàn huyện Đô Lương - tỉnh
Nghệ An.
+ Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, trường Đại học Vinh của tác giả Lê
Thị Thu Hạnh (2011), Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh thông qua dạy
học phần "Công dân với pháp luật" chương trình GDCD lớp 12 ở các trường
THPT dân lập trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
- Nhóm các bài viết trên báo và tạp chí có liên quan đến vấn đề này
+ Tác giả Nguyên Nhung (2010) có bài “Nâng cao ý thức pháp luật cho
thanh, thiếu niên” đăng trên Tạp chí Người đại biểu nhân dân, số ra tháng
6/2010.
+ Tác giả Lê Thị Thúy Mong với bài viết “Nhà trường và công tác pháp
luật “ đăng trên báo Tin tức, số ra ngày 15/11/2013.
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên của các tác
giả đã nêu trên đóng góp một phần lớn về cả phần lý luận và thực tiễn. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hiện nay, ở thành phố Vinh chưa có một nghiên cứu cụ
thể, cũng như cơng trình luận án, luận văn về giáo dục ý thức pháp luật cho
thanh niên. Do đó, để đóng góp một cơng trình nghiên cứu nhằm tìm ra những
giải pháp thiết thực nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên tỉnh
Nghệ An nói chung và thành phố Vinh nói riêng trong bối cảnh hiện nay.
Với những ý nghĩa nêu trên, cùng với sự tìm hiểu của bản thân, cho thấy
trên đại bàn Thành phố Vinh, Nghệ An hiện nay xảy ra nhiều vấn đề trong việc


10
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cũng như tình trạng vi phạm pháp luật vẫn
đang phổ biến. Xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan cho thấy, chưa
có một tài liệu nào nghiên cứu về vấn đề này một cách cụ thể và rõ ràng. Do đó,
với mong muốn góp một phần sức lực của mình vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục ý thức pháp luật cho thế hệ trẻ quê nhà, tôi xin chọn vấn đề: “Giáo dục

ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận
và phương pháp dạy học bộ mơn Giáo dục chính trị.
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng vấn đề, mục đích
của đề tài nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật và giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho thanh niên thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khảo sát, đánh giá đúng thực trạng của ý thức chấp hành pháp
luật của thanh niên ở thành phố Vinh, bước đầu đề xuất một số phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thành phố Vinh là địa bàn rộng do vậy tôi xin được khảo sát ở một số
phường, xã điển hình như phường Hưng Bình, phường Trung Đô, phường Hà
Huy Tập, phường Hưng Phúc và phường Quang Trung. Và từ các số liệu điều
tra khảo sát mang tính điển hình để khái qt về ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên thành phố Vinh nói chung.


11
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát công tác giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho thanh niên ở thành phố Vinh giai đoạn 2010 - 2015 và đề
xuất giải pháp cho giai đoạn 2015 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn quán triệt nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, trong q trình thực hiện tác
giả cịn kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
- Phương pháp logic, lịch sử
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp khảo sát, điều tra, phỏng vấn
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ hơn vai trị và những nét đặc thù giáo dục ý
thức pháp luật cho thanh niên thành phố Vinh. Nhằm đề xuất một số giải pháp
từng bước giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên thành phố Vinh trong giai
đoạn hiện nay.
- Đánh giá có căn cứ khoa học thực trạng, kết quả nghiên cứu của đề tài
có thể vận dụng giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên các địa phương khác
cũng như làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên và học viên cao học chuyên
ngành lý luận và phương pháp dạy học giáo dục chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương, 7 tiết.


12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm giáo dục, khái niệm pháp luật
- Khái niệm giáo dục:

Giáo dục thông thường được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là q trình tồn vẹn hình thành nhân cách,
được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và
quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể,
là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét
tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh
vực đạo đức, lao động, tư tưởng chính trị, thẩm mỹ, vệ sinh… Chức năng trội
của giáo dục là hình thành phẩm chất đạo đức của con người. Đặc biệt, quá trình
này hình thành chủ yếu do công tác giáo dục của nhà giáo dục tác động.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, từ khi xã hội lồi người xuất hiện, các
thế hệ ln gắn bó với nhau trong nhiều lĩnh vực hoạt động: lao động, giao lưu,
chính trị, văn hóa, khoa học, kĩ thuật… Trong đó, giáo dục là hiện tượng nảy
sinh, tồn tại và phát triển mãi với xã hội loài người. Hiện tượng này biểu hiện ở
chỗ, thế hệ trước truyền lại những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển mọi mặt của đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử,
thế hệ sau lĩnh hội có chọn lọc những kinh nghiệm xã hội đó để tham gia vào


13
mọi hoạt động xã hội, qua đó nhân cách được hình thành và phát triển. Kinh
nghiệm xã hội bao gồm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, niềm tin, thái độ…của con
người trong hoạt động.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có tổ chức, có ý thức và phát triển cao
chỉ riêng biệt có trong xã hội lồi người, nhờ đó giúp cho con người, nhờ đó
giúp cho con người trở thành chủ thể nhận thức, cải tạo, sáng tạo cả thế giới,
đồng thời nhận thức, cải tạo và sáng tạo chính bản thân mình.
Ngồi ra, giáo dục là một hiện tượng vĩnh hằng, giáo dục chỉ biến mất khi

con người khơng cịn. Tính lịch sử giáo dục chịu sự quy định của lịch sử - xã
hội, mỗi một giai đoạn lịch sử có nền giáo dục riêng, mỗi một xã hội có nền giáo
dục riêng.
Bên cạnh đó, giáo dục là một thiết chế xã hội, nó chịu sự điều phối của
nhà nước, điều phối của giai cấp thống trị. Mỗi một giai đoạn lịch sử, giáo dục
đều nhằm phục vụ cho giai cấp thống trị. Do đó giáo dục mang tính giai cấp.
Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải thể hiện được bản chất của chế độ
xã hội chủ nghĩa, đó là tính cơng bằng xã hội, dân chủ, tiến bộ và khoa học trong
giáo dục và đồng thời hội nhập nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày “Giáo
dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người”.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm giáo dục là hoạt động nhằm tác
động một cách phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy lâu dài có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra [45, tr.492]
- Khái niệm pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ
xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được
thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp luật tương ứng.


14
Từ xa xưa, lịch sử xã hội loài người đã có các kiểu pháp luật chủ nơ, pháp
luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật hồn
tồn khơng phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai
cấp của con người như học thuyết pháp luật tự nhiên quan niệm.
Pháp luật, như Mác - Ăngghen phân tích, chỉ phát sinh, tồn tại và phát
triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của pháp luật thể hiện ở
tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính xã hội, bởi vì ở

mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu cầu chung của xã hội
về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống…
Về mặt này, pháp luật xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai
cấp và tính xã hội. Pháp luật cịn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc
thượng tầng xã hội. Nó do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại
đối với cơ sở hạ tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động
và phát triển của xã hội, nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác
động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm
hãm sự phát triển đó. Theo Lênin, “một đạo luật là một biện pháp chính trị”.
Trong lịch sử, bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để thể
hiện và thực hiện chính trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể
hiện tập trung, trực tiếp chính trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc
bén thể hiện quyền lực của Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội
dung chính trị của nó. Do đó, nhà nước nào, pháp luật ấy. Những thuộc tính cơ
bản của pháp luật là tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính khách quan, tính Nhà
nước, tính hệ thống và tương đối ổn định.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Pháp luật là những quy phạm hành vi do Nhà
nước ban hành, buộc mọi công dân phải tuân theo, nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội” [45, tr.1029]. Theo Giáo trình lý luận
Nhà nước và pháp luật: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [16, tr.66].


15
Ở Việt Nam, pháp luật XHCN là hệ thống các quy phạm do Nhà Nước
Việt Nam ban hành, đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thể
hiện ý chí và nguyện vọng của tồn dân tộc, có tính chất bắt buộc chung
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Do đó, pháp luật của Nhà nước ta về bản chất là pháp luật xã hội chủ

nghĩa, nó thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân, đồng thời phản ánh, thể hiện
ý chí, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc. Có
sự thống nhất đó là do trong xã hội ta hiện nay có sự thống nhất về cơ bản,
lâu dài giữa lợi ích của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, tầng lớp trí
thức với lợi ích của cả dân tộc.
1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật, khái niệm ý thức pháp luật
- Khái niệm giáo dục pháp luật:
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã
khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên
đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xun nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi
hỏi của pháp luật hiện hành.
Giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng. Đưa những tư tưởng đúng đắn vào tiềm thức của mỗi con người trong xã
hội. Giáo dục pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện
pháp luật. Giáo dục pháp luật nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật giúp
đối tượng được tác động có những hiểu biết nhất định về pháp luật góp phần
nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng.
- Khái niệm ý thức pháp luật:
Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật
xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, phản ánh trực tiếp các
quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội. Ý thức pháp luật là một trong những hình thái


16
của ý thức xã hội, là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa xã hội dưới
dạng chung nhất. Nó là sản phẩm của q trình phát triển xã hội, chịu sự ảnh
hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan điểm và quan niệm trong xã hội. Nếu
một xã hội mà người dân được giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết,

nhận thức về pháp luật thì xã hội đó sẽ hạn chế được vi phạm pháp luật, tội
phạm. Bằng cách đó mà góp phần tích cực vào việc hình thành, xây dựng văn
hóa pháp lý cho cá nhân và toàn xã hội.
Ý thức pháp luật được cấu thành từ hai bộ phận: Tư tưởng pháp luật và
tâm lý pháp luật. Tư tưởng pháp luật là tổng thể những tư tưởng, quan điểm,
phạm trù, khái niệm, học thuyết về pháp luật. Tâm lý pháp luật được thể hiện
qua thái độ, tình cảm, tâm trạng, xúc cảm đối với pháp luật và các hiện tượng
pháp lý khác được hình thành một cách tự phát thơng qua giao tiếp với các văn
bản pháp luật, hiện tượng pháp luật. Có thể hiểu ý thức pháp luật là tổng thể
những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã hội, thể
hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành. Ý thức pháp luật
của mỗi người có vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật.
Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng khác nhau nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Những nguyên lý và cơ sơ để xây
dựng và thực hiện pháp luật đồng thời cũng là những cơ sở và nguyên lý để hình
thành và phát triển ý thức pháp luật.
Tóm lại, ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan
điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên các phương
diện, tiêu chí cơ bản như: Về sự cần thiết hay không cần thiết, về vai trị, về
chức năng của pháp luật, về tính cơng bằng hay không công bằng, đúng đắn hay
không đúng đắn của các quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong
q khứ, pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong
hành vi của các cá nhân, tổ chức nhà nước và xã hội.


17
1.1.3. Khái niệm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
Giáo dục được hiểu một cách chung nhất đó là hoạt động có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục,

nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Giáo dục pháp luật có mục đích riêng
của nó. Đó là việc nhằm trang bị kiến thức, tri thức về pháp luật cho cơng dân
thơng qua các phương pháp, hình thức khác nhau tác động lên đối tượng một
cách có hệ thống nhằm hình thành tri thức pháp luật, ý thức, tình cảm và niềm
tin pháp luật, từ đó tạo ra hành vi pháp luật đúng đắn, phù hợp với quy định của
pháp luật. So với các dạng giáo dục khác thì giáo dục pháp luật là quá trình tác
động thường xuyên, liên tục, lâu dài đến đối tượng chứ không phải một, hai lần.
Phương pháp giáo dục pháp luật thường gắn liền với thực tiễn như tuyên truyền,
phổ biến, nêu gương…chứ không đơn thuần chỉ là lý thuyết. Xét về vai trị và vị
trí của giáo dục pháp luật thì giáo dục pháp luật có vai trị chi phối rất lớn đế các
dạng giáo dục chính trị xã hội khác, thậm chí trong nhiều trường hợp sẽ là yếu tố
hỗ trợ mạnh mẽ cho các dạng giáo dục khác như giáo dục chính trị, tư tưởng,
giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức, tâm lý… Như vậy, “Giáo dục pháp luật là
sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức
của con người nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình
độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn
trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật” [16, tr.431]. Pháp luật cũng
như đạo đức, tư tưởng, chính trị, khoa học, nghệ thuật… Mặc dù, có chịu ảnh
hưởng của nhiều lĩnh vực nhưng bản thân pháp luật cũng có đời sống riêng, hình
thức, phương thức vận hành và vai trị nhất định trong xã hội. Vì vậy, công tác
giáo dục pháp luật không thể xem nhẹ hơn so với việc giáo dục các loại hình
thức ý thức xã hội khác.
Là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý và điều chỉnh các quan hệ
xã hội nhằm ổn định mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị. Để pháp luật phát huy
được vai trò và hiệu lực của nó, Nhà nước sẽ phải đưa ra một hệ thống các bộ


18
luật và luật phản ánh đầy đủ mọi lĩnh vực của cuộc sống, bảo vệ quyền lợi, sự
công bằng cho mọi người, đồng thời bắt buộc mọi công dân phải tuân theo. Ý

thức chấp hành pháp luật là cơ sở, tiền đề trực tiếp cho việc thực hiện pháp luật.
Ý thức chấp hành pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng, thái độ
tự giác tuân theo yêu cầu của pháp luật càng được đảm bảo. Ý thức chấp hành
pháp luật của con người được hình thành bởi sự thống nhất giữa điều kiện chủ
quan và khách quan. Nó vừa là sản phẩm của điều kiện khách quan lẫn sự tác
động định hướng của nhân tố chủ quan.
Như vậy, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo
dục nhằm mục đích hình thành ở họ sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp
luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong xã hội, về hành vi hợp pháp
hay không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức trong xã
hội. Qua đó, hình thành ở đối tượng giáo dục thói quen xử sự đúng với những
quy định của pháp luật.
1.1.4. Khái niệm thanh niên
Thực tế thanh niên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau, tùy theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá
mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên. Theo Từ điển Tiếng
Việt: Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành. Khái niệm này
bao gồm 2 ý: Thanh niên là người có độ tuổi cịn trẻ và đang trưởng thành. Theo
tác giả Vũ Trọng Kim: “Thanh niên là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù,
bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định, có quan hệ gắn bó mật thiết
với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có
vai trị to lớn trong hiện tại và giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương lai
của xã hội” [19, tr.18].
Thanh niên được nhìn nhận dưới góc độ triết học về con người. Theo
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, con người là một thực thể xã hội, mang bản chất xã hội,


19
đồng thời là một thực tể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Do đó, để đưa con

người từng bước vươn tới sự hoàn thiện, cần đồng thời khám phá sự tác động
của các quy luật xã hội và các quy luật tự nhiên trong nó. Khi đề cập đến mặt tự
nhiên và mặt xã hội của con người. C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, mặt tự
nhiên và mặt xã hội trong con người không tách rời, đối lập nhau, ngược lại hai
mặt đó thống nhất biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau. Từ phân tích về con
người, trong đó có con người thanh niên có thể khẳng định: Thanh niên là một
phạm trù triết học, dùng để chỉ những người ở độ tuổi nhất định; là một thực thể
tự nhiên và một tồn tại xã hội, là một giai đoạn phát triển nhất định của cuộc đời
con người với những đặc trưng riêng về các đặc điểm tâm lý, sinh lý và sự phát
triển nhận thức ở trình độ nhất định. Điều đó có nghĩa là trong con người thanh
niên có con người tự nhiên và con người xã hội. Nhìn nhận về con người tự
nhiên của thanh niên chủ yếu qua phân tích độ tuổi, đặc điểm sinh lý, tâm lý.
Con người xã hội của thanh niên nhìn nhận qua sự chín muồi và trưởng thành về
nhận thức xã hội cũng như ý thức trách nhiệm công dân đối với xã hội. Con
người thanh niên là một giai đoạn phát triển của con người trong cả đời người;
là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang giai đoạn trưởng thành, từ cuộc sống phụ
thuộc sang cuộc sống dần tự lập và tự lập, từ tư duy bắt chước là chính sang tư
duy độc lập, sáng tạo. Con người thanh niên ví như trung bình cộng của con
người trẻ em và con người đã trưởng thành, trong đó giai đoạn đầu của thanh
niên là giai đoạn khám phá tự nhiên, xã hội, giai đoạn "dần tự lập", giai đoạn
sau của thanh niên là giai đoạn "tự lập và sáng tạo", người thanh niên làm chủ
bản thân minh, từ kinh tế đến hành vi xã hội.
Từ góc độ xã hội học, thanh niên lại được nhìn nhận là một giai đoạn xã
hội hóa cá nhân, giai đoạn tiếp thu các giá trị xã hội để hình thành nhân cách; là
thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ bị phụ thuộc sang giai đoạn hình thành và từng
bước xác lập vai trị cá nhân thơng qua các hoạt động độc lập với tư cách là công
dân, là một trong những chủ thể của xã hội; ý thức công dân, ý thức trách nhiệm


20

với gia đình, cộng đồng và rộng hơn là với xã hội, ý thức tự chịu trách nhiệm
với các hành vi của bản thân có bước phát triển rõ rệt. Thanh niên cũng dần
nhận rõ hơn vai trò của bản thân mình và rộng hơn là thế hệ của mình đối với sự
phát triển chung của xã hội.
Dưới góc độ sinh học, thanh niên được hiểu là một giai đoạn phát triển
trong cuộc đời con người; là giai đoạn đánh dấu sự chuyển tiếp từ trẻ em để trở
thành người lớn, người trưởng thành, nói cách khác, đó là giai đoạn tiếp nối
tuổi thiếu niên, đạt tới đỉnh cao của tuổi trưởng thành. Đặc điểm nổi rõ của giai
đoạn này là sự phát triển nhanh của cơ thể, các chức năng của cơ thể dần được
hình thành và phát triển đầy đủ, trong đó thấy rõ sự tráng cường về thể lực, sự
phát triển về trí tuệ, trưởng thành về sinh dục. Sự phát triển của con người sang
giai đoạn thanh niên thường được thể hiện thông qua việc xác định tuổi của
thanh niên.
Dưới góc độ văn hóa, thanh niên được hiểu là lớp người kết nối và kế
thừa có chọn lọc những truyền thống văn hóa của thế hệ trước, đồng thời tiếp
thu có chọn lọc văn hóa nhân loại và sáng tạo các giá trị văn hóa mới phù hợp.
Trong con người thanh niên, vừa chứa đựng những giá trị văn hóa của thế hệ cha
anh họ, vừa mang những giá trị văn hóa của thế hệ họ (hiện tại) và hàm chứa các
nhân tố hình thành các giá trị văn hóa của tương lai.
Dưới góc độ kinh tế - chính trị, thanh niên được hiểu là lực lượng hậu bị
của các lực lượng chính trị. Thanh niên là một lực lượng lao động xã hội hùng
hậu, là nguồn lực thường xuyên bổ sung cho đội ngũ lao động trên mọi lĩnh vực,
là bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất, năng động, nhạy cảm, gắn
bó với tiến trình phát triển xã hội, đi đầu trong cuộc đấu tranh sáng tạo, tham gia
xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng các lực lượng vũ trang. Tương lai chính
trị của mỗi quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào việc giai cấp hay lực lượng chính trị
nào nắm được thanh niên. Cũng chính vì vai trị chính trị quan trọng của mình,
thanh niên ln ln là đối tượng của sự lôi kéo, tranh giành, tác động, tập hợp



21
của các đảng chính trị. Tại Việt Nam, Đảng ta ln coi cơng tác đồn kết, tập
hợp, giáo dục thanh niên đi theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là cơng tác có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, đồng thời, xác định việc xây dựng Đồn TNCS Hồ Chí
Minh, tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên là đội dự bị
tin cậy của Đảng, là một trong các nhân tố đảm bảo sự phát triển của Đảng và
cách mạng Việt Nam.
Dưới góc độ độ tuổi: Thực tế, sự phát triển của con người là một quá trình
liên tục, diễn ra trong suốt cả cuộc đời. Trong mỗi giai đoạn phát triển, cơ thể
con người là một chỉnh thể hài hòa với những đặc điểm vốn có đối với giai đoạn
tuổi đó, chứa đựng cả những vết tích của giai đoạn trước và những mầm mống
của giai đoạn sau. Các mức độ phát triển của con người có thể phân loại theo
nhiều cung tuổi khác nhau trong đó cách phân loại phổ biến nhất là phân loại
theo tuổi thời gian, theo tháng và năm hoặc năm. Theo cách này, tuổi được căn
cứ theo ngày, tháng, năm sinh và tuổi ngày ngày càng tăng trong suốt cuộc đời.
Đối với các nước khác nhau, độ tuổi thanh niên cũng được quy định khác
nhau (xem bảng).
Bảng 1.1. Quy định độ tuổi thanh niên ở một số nước trên thế giới
Tên nước

Độ tuổi

Tên nước

Độ tuổi

Australia

15- 25


Papua New Guinea

12- 35

Banglađét

15- 30

Philipines

15- 30

Brunây

15- 25

Hàn Quốc

9- 24

Trung Quốc

14- 28

Samoa

15- 35

Ấn Độ


13- 35

Singapore

15- 29

Malayxia

15- 40

Srilanca

15- 24

Manđivơ

16- 35

Thái Lan

15- 24

Niudilân

15- 24

Tôngga

12- 25


Pakixtan

15- 29

Liên hiệp quốc

15- 24

Nguồn: Luật Thanh niên một số nước (tài liệu tham khảo xây dựng Luật
Thanh niên Việt Nam), Hà Nội, T4, 2005.


22
Liên Hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi,
chủ yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hồn cảnh xã
hội so với các nhóm lứa tuổi khác.
Ở Việt Nam có một thời gian khá dài tuổi thanh niên được hiểu gần như
đồng nhất với tuổi đoàn viên (15 đến 30 tuổi). Ngày nay do điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi trẻ dài
thêm, cùng với nhiều đặc điểm khác mà chúng ta cho thanh niên là những
người trong độ tuổi từ 16 đến 30. Tuy nhiên, cần phải phân biệt rõ tuổi đoàn
viên và tuổi thanh niên. Theo điều lệ Đồn TNCS Hồ Chí Minh, thì Đồn là
một tổ chức chính trị xã hội của thanh niên, bao gồm những thanh niên ưu tú
trong độ tuổi 16 đến 30. Hết tuổi đoàn viên theo quy định, người đồn viên đó
vẫn có thể tự nguyện tiếp tục sinh hoạt trong tổ chức Đoàn hoặc tham gia vào
Hội Liên hiệp Thanh niên và các hoạt động khác của Đoàn và phong trào thanh
niên đến 35 tuổi.
Như vậy có thể hiểu thanh niên là một nhóm người trong xã hội - nhân
khẩu đặc thù, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 16 đến 30 tuổi, được gắn với
mọi giai cấp, dân tộc, mọi tầng lớp xã hội và tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã

hội và đặc điểm của từng quốc gia, từng dân tộc. Đây là lứa tuổi phát triển mạnh
mẽ về thể chất, tinh thần, trí tuệ và phẩm chất, nhân cách của một cơng dân,
hình thành thế giới quan và lý tưởng đạo đức cuộc sống.
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên trong bối cảnh hiện nay
1.2.1. Xuất phát từ tâm lý lứa tuổi và vị trí, vai trị của lực lượng thanh
niên trong quản lý đời sống xã hội
- Vị trí và vai trị của thanh niên:
Thanh niên là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù, bao gồm những
người trong một độ tuổi nhất định, có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp,
tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, có vai trò to lớn
trong hiện tại và giữ vai trò quyết định sự phát triển trong tương lai của xã hội.


23
Thanh niên được hiểu là lực lượng hậu bị của các lực lượng chính trị.
Thanh niên là một lực lượng lao động xã hội hùng hậu, là nguồn lực thường
xuyên bổ sung cho đội ngũ lao động trên mọi lĩnh vực, là bộ phận quan trọng
cấu thành lực lượng sản xuất, năng động, nhạy cảm, gắn bó với tiến trình phát
triển xã hội, đi đầu trong cuộc đấu tranh sáng tạo, tham gia xây dựng giai cấp
công nhân, xây dựng các lực lượng vũ trang. Tương lai chính trị của mỗi quốc
gia, dân tộc tùy thuộc vào việc giai cấp hay lực lượng chính trị nào nắm được
thanh niên. Cũng chính vì vai trị chính trị quan trọng của mình, thanh niên luôn
luôn là đối tượng của sự lôi kéo, tranh giành, tác động, tập hợp của các đảng
chính trị.
Kế thừa những di sản tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh
đã phát triển sáng tạo các luận điểm mácxít về vai trị thanh niên, phong trào
thanh niên và xây dựng đoàn thanh niên cộng sản ở Việt Nam. Gắn thanh niên
với vận mệnh dân tộc, Hồ Chí Minh trong nhiều bài nói và viết của mình đã
nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà… Nước nhà thịnh

hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên” [27, tr.29]. Trên cơ sở
nhìn nhận vai trò quyết định của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng và
tương lai của dân tộc, đất nước, Người đã dành sự quan tâm đặc biệt đến công
tác thanh niên. Chính Người đã sáng lập, rèn luyện Đồn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh. Nội dung bao quát của cơng tác thanh niên của chủ tịch Hồ Chí
Minh là hình thành lớp người kế thừa xây dựng CNXH vừa hồng vừa “chuyên”.
Hồng theo tư tưởng của Người là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng. Đó là điều chủ chốt. Cịn "chun" là trình độ chính trị, văn hóa,
khoa học, qn sự. Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc, vào tháng 1
năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một
đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [27, tr.167].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, ngày 14/01/1993 về công tác
thanh niên trong thời kỳ đổi mới khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành cơng


24
hay khơng, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa
hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn
luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là
một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [1].
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 Ban Chấp hành Trung ương
khoá X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” tiếp tục khẳng định: “Thanh niên là rường cột
của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên
vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền
của đất nước, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của

Đảng, vai trị quan trọng của Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình,
nhà trường và xã hội” [3].
Như vậy, vị trí và vai trị của thanh niên đối với Đảng và nhà nước là hết
sức quan trọng. Thanh niên chính là động lực để thúc đẩy và phát triển đất nước
một cách vẹn toàn.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho thanh niên. Những yếu tố này cũng ảnh hưởng có
nhiều mặt tích cực cũng như hạn chế. Tuy nhiên, Đảng và nhà nước cần chọn
lọc ra những tác động mang chiều hướng tích cực để phát huy được lợi thế của
lực lượng thanh niên.
Yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội, về môi trường sống, nơi làm việc
cũng như ảnh hưởng từ truyền thống gia đình là những yếu tố tác động mạnh mẽ


×