Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HS HÀNH CHÍNH 105-HVTP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.04 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn

: Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ việc Hành chính

Hồ sơ số : LS. HC – 105
Diễn lần :
Ngày diễn:

Họ và tên :
MSHV

:

Lớp

:

tại TP. Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm


PHẦN I: PHẦN CHUẨN BỊ Ở NHÀ
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC:
1. Tóm tắt tình tiết sự việc
Ơng Tào Văn Sung và bà Nguyễn Thị Mùi có 07 người con gồm:
1.


2.
3.
4.
5.
6.
7.

Tào Minh Hùng
Tào Thị Mão
Tào Thị Tỵ
Tào Thị Thơm
Tào Thị Nhịn
Tào Minh Nhường (mất 2014)
Tào Minh Dũng

Trước năm 1960, ông Tào Văn Sung và bà Nguyễn Thị Mùi sinh sống trên thửa đất
thổ cư cũ tại xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1959, ơng Tào Văn
Sung chết. Năm 1960, được sự vận động của chính quyền địa phương nên bà Nguyễn Thị
Mùi cùng các con chuyển vào sinh sống trên thửa đất tại Thôn Thành Phú, xã Hoằng Lý,
huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Năm 1994, bà Nguyễn Thị Mùi chết không để lại di chúc. Các con của bà Mùi thống
nhất không chia thừa kế và để ông Tào Minh Hùng (con trai trưởng) sinh sống trên thửa
đất bố mẹ để lại và phụ trách việc thờ cúng, trông coi.
Năm 2007, UBND xã Hoằng lý, Thanh Hóa cấp GCNQSDĐ thửa đất trên cho ơng
Tào Minh Hùng và vợ là Hồng Thị Sen.
Năm 2015, ơng Hùng chia mảnh đất trên và xây nhà cho 02 con gái.
Lúc này, Bà Mão cùng các chị em mới biết ông Hùng được cấp GCN đối với thửa
đất do bố mẹ để lại nên ngày 16/06/2015, bà Mão cùng các chị em có đơn đề nghị đến
UBND xã Hoằng Lý yêu cầu giải quyết. Tuy nhiên, việc hịa giải khơng thành.
Bà Mão cùng các chị em trong gia đình tiếp tục làm đơn khiếu nại đến UBND các

cấp.
Ngày 14/10/2015 Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa có Quyết định giải quyết
khiếu nại số 9050/QĐ – UBND với nội dung “Giữ nguyên GCNQSDĐ do UBND huyện
Hoằng Hóa đã cấp cho ơng Hùng và bà Sen”
Ngày 22/02/2016 Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa có Quyết định giải quyết khiếu
nại (lần hai) số 619/QĐ – UBND với nội dung giữ nguyên Quyết định giải quyết khiếu nại
số 9050/QĐ – UBND ngày 14/10/2015.
Không đồng ý với các quyết định giải quyết khiếu nại trên nên ngày 10/05/2016 bà
Mão cùng các chị em làm đơn khởi kiện đến Tịa án nhân tỉnh Thanh Hóa u cầu giải
quyết. Vụ án đã được Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thụ lý sơ thẩm số 06/2016/TLST –
HC ngày 23/05/2016.
2. Những nội dung cơ bản liên quan đến vụ án
a) Các đương sự trong vụ án
 Người khởi kiện:
a. Tào Thị Mão

Sinh năm: 1939
1


Địa chỉ: Thành Khang 2, Phường Tào Xuyên, TP. Thanh Hóa
b. Tào Thị Mỵ

Sinh năm: 1941

Địa chỉ: Xóm 4, xã Hoằng Hóa, TP. Thanh Hóa
c. Tào Thị Thơm

Sinh năm: 1949


Địa chỉ: Tổ 16A, Khu 2A, Nơng Trang, Việt Trì, Phú Thọ
d. Tào Thị Nhịn

Sinh năm: 1954

Địa chỉ: Xóm 4, xã Hoằng Lý, TP. Thanh Hóa
e. Tào Minh Dũng

Sinh năm: 1957

Địa chỉ: Xóm 6, xã Hoằng Lý, TP. Thanh Hóa
Người đại diện theo ủy quyền cho người khởi kiện: Bà Nguyễn Ngọc Uyên
Địa chỉ: Tổ 16A, Khu 2A, Nông Trang, Việt Trì, Phú Thọ
Cơ sở pháp lý: Khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015
 Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa
Người đại diện theo ủy quyền: Ơng Nguyễn Đức Quyền – Phó chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thanh Hóa
Người đại diện theo ủy quyền: Ơng Lê Văn Tú – Phó chủ tịch UBND thành phố
Thanh Hóa
3. Ủy ban nhân dân huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Người đại diện theo ủy quyền: Ơng Nguyễn Đình Tuy – Phó chủ tịch UBND huyện
Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Cơ sở pháp lý: Khoản 9 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015
 Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân xã Hoằng Lý
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch UBND xã Hoằng

2. Ơng Tào Minh Hùng

3. Bà Hồng Thị Sen

Sinh năm 1937
Sinh năm: 1950

Cùng ngụ tại địa chỉ: Xóm 4, xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Cơ sở pháp lý: Khoản 10 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015
b) Đối tượng khởi kiện
- Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ – UBND ngày 22/02/2016 của Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hóa;

2


-

Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ – UBND ngày 14/10/2015 của Chủ
tịch UBND thành phố Thanh Hóa;
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện Hoằng hóa cấp cho ơng Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015

c) Yêu cầu khởi kiện
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ – UBND ngày 22/02/2016 của Chủ
tịch UBND tỉnh Thanh Hóa;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ – UBND ngày 14/10/2015 của
Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện Hoằng hóa cấp cho ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen.
d) Thời hiệu khởi kiện

- Ngày 22/02/2016 Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa ban hành Quyết định giải quyết
khiếu nại (lần hai) số 619/QĐ – UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Tào Thị
Mão và 4 công dân.
- Ngày 10/05/2016 Bà Mão cùng các đồng khởi kiện nộp đơn khởi kiện đến Tịa án
nhân dân tỉnh Thanh Hóa u cầu giải quyết vụ việc.
Căn cứ Điểm a Khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 thì “thời hiệu
khởi kiện là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;”
Do đó, tính đến ngày 10/05/2016 Bà Mão cùng các đồng khởi kiện nộp đơn khởi
kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thì thời hiệu khởi kiện vẫn cịn.
e) Thẩm quyền giải quyết
Căn cứ Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015 thì “Tịa án nhân cấp tỉnh
có thẩm quyền giải quyết đối với Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban
nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới với
Tòa án”.
Bà Mão và các đồng khởi kiện khởi kiện đối với các Quyết định giải quyết khiếu
nại mà Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành
và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Hoằng Hóa cấp cho ơng Tào
Minh Hùng và bà Hồng Thị Sen. Do đó, căn cứ theo quy định tại Khoản 4 Điều 32 Luật
tố tụng hành chính 2015 thì Tịa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa có thẩm quyền giải quyết.
3. Các văn bản pháp luật áp dụng
-

Luật Tớ tụng hành chính năm số 93/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quố c hội
(Luật Tố tụng hành chính 2015);
Luật Đất đai sớ 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quố c hội (Luật Đất đai 2003);
Luật khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011 của Quốc hội (Luật
khiếu nại 2011);
Pháp lệnh về thừa kế số 44-LCT/HĐNN8 đã được Hội đồng Nhà nước nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 8 năm 1990;

3


-

Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều của Luật khiếu nại.

II. KẾ HOẠCH HỎI
a. Hỏi đại diện theo ủy quyền của người bị kiện
 Hỏi Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa
- Ông cho biết, UBND huyện Hoằng Hóa cấp Giấy chứng nhận đối với bất động sản
đang tranh chấp cho ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen dựa trên căn cứ nào?
- Ơng cho biết, UBND huyện Hoằng Hóa xem xét đơn đề nghị xin cấp giấy chứng
nhận đối với bất động sản nêu, cụ thể đơn đề nghị đó được làm vào ngày nào?
- Tại sao trong đơn xin cấp giấy chứng nhận của ông Hùng vào ngày 30/10/2007 (BL
33), khơng có chữ kí và đóng dấu xác nhận của Trưởng Phịng Tài ngun và Mơi
trường?
- Ơng có suy nghĩ như thế nào về bản kết luận giám định chữ viết của ông Tào Minh
Hùng tại kết luận giám định ngày 28/05/20017 của Phịng Kỹ thuật Hình sự - Cơng
an tỉnh Thanh Hóa?
 Hỏi Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa
- Ơng cho biết, xã Hoằng Lý thuộc quản lí của thành phố Thanh Hóa từ khi nào?
- Ông cho biết, việc UBND thành phố Thanh Hóa thụ lý đơn khiếu nại của bà Mão
dựa theo căn cứ nào?
- Mặc dù tại thời điểm bà Mão có đơn khiếu nại thì xã Hoằng Lý thuộc quản lý của
thành phố Thanh Hóa, nhưng thực tế UBND huyện Hoằng Hóa là đơn vị cấp Giấy
chứng nhận cho ông Hùng và bà Sen, như vậy theo ông việc giải quyết khiếu nại
của bà Mão có khách quan hay khơng khi UBND thành phố Thanh Hóa khơng phải
là cơ quan trực tiếp cấp GCNQSD đất cho ông Hùng và bà Sen?

 Hỏi Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa?
- Theo nội dung Quyết định giải quyết khiếu nại số 619 (BL 18) thì việc lập hồ sơ đề
nghị cấp Giấy CNQSD đất của UBND xã Hoằng Lý là căn cứ theo quy định tại
Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003 có đúng hay khơng?
- Ơng cho biết, trong q trình thụ lý, xem xét giải quyết đơn khiếu nại của bà Mão,
Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa có tổ chức đối thoại lần hai hay khơng?
b. Hỏi những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Hỏi ơng Tào Minh Hùng:
-

-

Ơng cho biết, thời điểm kiểm kê đất năm 1996, có những ai sinh sống trên mảnh đất
này?
Theo biên bản tự khai của ông tại BL 72, ông có khai rằng ông làm đơn xin cấp
GCNQSDĐ đối với thửa đất số 843, tờ bản đồ số 5 vào ngày 28/12/2006 đúng hay
khơng?
Ơng cho biết, ơng có làm đơn xin cấp Giấy CNQSD đất nào khác nữa hay khơng?
Ơng có biết gì về việc UBND xã Hoằng Lý tổ chức lấy ý kiến của khu dân cư hay
khơng? Ơng có tham dự hay khơng?
Ơng cho biết buổi họp lấy kiến có nội dung gì? Ơng có kí tên vào biên bản lấy ý
kiến đó hay không?

4


-

Ơng có biết gì về việc UBND xã Hoằng Lý có kiểm tra hiện trạng đất vào năm 2007
hay khơng? Thời điểm đó, ơng có tham dự hay khơng?

Ơng có kí tên vào biên bản kiểm tra hiện trạng đất hay khơng?
Ơng suy nghĩ như thế nào về kết luận giám định ngày 28/05/20017 của Phịng Kỹ
thuật Hình sự - Cơng an tỉnh Thanh Hóa về việc giám định chữ ký của ông?

c. Hỏi người khởi kiện – bà Tào Thị Mão
- Bà có biết gì về việc UBND xã Hoằng Lý lập hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ cho
ông Hùng và bà Sen hay không?
- Khi ông Hùng làm đơn đề nghị được cấp GCNQSDĐ, ơng Hùng có bàn bạc hay nói
chuyện với các chị em trong gia đình về vấn đề này hay không?
III. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI
KHỞI KIỆN
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa vị Đại diện Việt kiểm sát!
Thưa các Luật sư đồng nghiệp!
Tôi tên là Trần Văn A, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Tơi
tham gia phiên tịa hơm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người khởi kiện - các ông bà Tào Thị Mão, Tào Thị Tỵ, Tào Thị Thơm, Tào Thị Nhịn, Tào
Minh Dũng trong vụ án Hành chính thụ lý số 06/TLST – HC ngày 23/05/2016, yêu cầu:
-

Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ – UBND ngày 22/02/2016 của Chủ
tịch UBND tỉnh Thanh Hóa;
Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ – UBND ngày 14/10/2015 của
Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa;
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện Hoằng hóa cấp cho ơng Tào Minh Hùng và bà Hồng Thị Sen;

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên tịa ngày
hơm nay, tơi xin trình bày luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi
kiện như sau:

Thứ nhất: Việc Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành Quyết định
số 9050/QĐ – UBND ngày 14/10/2015 về việc giải quyết khiếu nại của bà Tào Thị Mão,
Tào Thị Tỵ, Tào Thị Thơm, Tào Thị Nhịn và Tào Minh Dũng là khơng đúng thẩm
quyền.
Bà Mão có đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa về việc UBND
huyện Hoằng Hóa cấp GCNQSDĐ thửa đất số 843, tờ bản đồ số 5, địa chỉ tại Xóm 4, xã
Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa cho ơng Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là Quyết định hành chính.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại 2011 thì “Khi có căn cứ
cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp
đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã
ra quyết định hành chính”.

5


Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Luật khiếu nại thì “Chủ tịch
UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành
chính”.
Mặc dù năm 2012 xã Hoằng Lý được chuyển về thành phố Thanh Hóa, nhưng vào
năm 2007 thì xã Hoằng Lý vẫn thuộc quyền quản lý của UBND huyện Hoằng Hóa nên
việc cấp GCNQSDĐ cho ơng Tào Minh Hùng do Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa cấp.
Do đó, trong trường hợp bà Mão khơng đồng ý với việc cấp giấy của UBND huyện
Hoằng Hóa thì việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) do UBND huyện Hoằng Hóa có thẩm
quyền xem xét giải quyết.
Tuy nhiên, bà Mão khơng am hiểu pháp luật nên đã làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch
UBND thành phố Thanh Hóa nên trong trường hợp này, cán bộ tiếp công dân khi nhận đơn
khiếu nại của bà Mão phải hướng dẫn bà Mão làm đơn khiếu nại tới UBND huyện Hoằng
Hóa.

Căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 27 Nghị định 75/2012/NĐ-CP
ngày 03/10/2012 thì việc Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ban hành Quyết định số
9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 về giải quyết khiếu nại của bà Mão là không đúng thẩm
quyền.
Thứ hai: Ủy ban nhân dân xã Hoằng hóa xác định chưa đúng về nguồn gốc sử
dụng dụng đất và không phù hợp với thực tế.
Căn cứ vào hồ sơ vụ án thì các bên đều thừa nhận: bà Mùi cùng các con sinh sống
ổn định, liên tục trên mảnh đất trên từ năm 1962 cho đến khi bà Mùi chết là năm 1994. Và
khi bà Mùi chết, thì khơng chỉ có vợ chồng ơng Hùng sinh sống trên mảnh đất này mà cịn
có vợ chồng ơng Dũng, việc này đã được thể hiện rõ tại BL 11.
Chính ơng Hùng cũng đã thừa nhận trước năm 1980 ông Hùng không sinh sống ở
mảnh đất trên, cụ thể tại đơn được ông Hùng làm ngày 28/09/2015 (BL 82 – 83) thì năm
1970 ông Hùng phạm tội và bị phạt cải tạo, đến năm 1980 mới được thả tự do. Thực tế,
ông Hùng đã thoát ly từ năm 1953 cho đến năm 1982 ông Hùng lấy vợ lần 2 là bà Sen thì
ông Hùng và bà Sen chuyển về ở trên khu đất trên cùng với bà Mùi và ở cho tới nay (BL
14).
Tuy nhiên, căn cứ nội dung buổi đối thoại ngày 25/09/2015 tại BL 37 thì đại diện
UBND xã Hoằng Lý giải trình rằng: UBND xã Hoằng Lý xác định nguồn gốc đất của ông
Hùng từ 18/12/1980 đến trước 15/10/1993 trong khi thực tế ông Hùng chuyển về ở trên
khu đất trên vào năm 1982. Đồng thời UBND xã Hoằng Lý chỉ dựa vào sổ mục kê chỉ ghi
tên ông Hùng, khơng có tên bà Mùi và xác định nguồn gốc đất như vậy là chưa đầy đủ,
khách quan và không đúng với thực tế.
Do đó, khi bà Mùi chết khơng để lại di chúc thì thửa đất nêu trên là di sản thừa kế
do bà Mùi để lại và sẽ được phân chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất căn
cứ theo Điểm a Khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh về thừa kế số 44-LCT/HĐNN8 đã được Hội
đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 8 năm
1990. Tuy nhiên khi bà Mão chết, ông Hùng, bà Mão và các đồng thừa kế đã có thỏa thuận
với nhau khơng chia thừa kế nên thửa đất trên thuộc tài sản chung. Do đó tơi hồn tồn
khơng đồng ý với cách xác định nguồn gốc đất của UBND xã Hoằng Lý như trên.
Thứ ba: Căn cứ phần kết luận của Quyết định số 9050/QĐ – UBND của Chủ tịch

UBND thành phố Thanh Hóa ngày 14/10/2015 (BL 12) trả lời rằng: “Trong thời gian
6


lập hồ sơ cấp Giấy CNQSD đất và sau khi cấp Giấy CNQSD đất cho ông Hùng và bà Sen
(từ tháng 4/2007 đến tháng 6/2015) UBND xã Hoằng Lý không nhận bất kỳ đơn thư khiếu
nại nào liên quan đến việc lập và cấp Giấy cho ơng gia đình ơng Hùng”. Việc trả lời của
UBND huyện Hoằng Lý là không đúng và không phù hợp với thực tế, bởi lẽ:
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Luật khiếu nại 2011 thì “thời hiệu khiếu nại là 90
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành
chính”.
Mặc dù thời điểm cấp Giấy CNQSD đất cho ông Hùng và bà Sen là vào năm 2007
nhưng thời điểm đó khơng có niêm yết hay thơng báo nên bà Mão và các đồng khởi kiện
khác không biết về việc cấp giấy chứng nhận này. Đồng thời, thời điểm đó bà Mão đang
sống tại Phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa, bà Thơm thì đang sinh sống cùng
chồng tại Phú Thọ nên không biết về việc cấp giấy là điều dễ hiểu.
Nhưng sau nhiều lần bàn bạc và nói chuyện với ơng Hùng thì bà Mão và các chị em
mới biết ơng Hùng được UBND huyện Hoằng Hóa cấp GCNQSDĐ đối với bất động sản
đang tranh chấp. Vì vậy sau đó bà Mão và các đồng khởi kiện có làm đơn khiếu nại đến
UBND xã Hoằng Lý, UBND thành phố Thanh Hóa, UBND tỉnh Thanh Hóa. Do đó, căn
cứ theo Điều 9 Luật khiếu nại 2011, trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày biết về quyết định
hành chính thì bà Mão và các đồng khởi kiện làm đơn khiếu nại là đúng với quy định của
pháp luật.
Việc trả lời khiếu nại của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa là khơng thỏa đáng
và khơng khách quan, khơng đảm bảo được quyền và lợi ích của người dân.
Thứ tư: Căn cứ hồ sơ và các tài liệu trong vụ án thì trong quá trình thụ lý, xác
minh nội dung đơn khiếu nại của bà Mão, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa khơng tổ
chức đối thoại lần hai.
Căn cứ theo quy định tại Điều 39 Luật Khiếu nại 2011 thì “Trong quá trình giải
quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại tiến hành đối thoại với người khiếu nại,

người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại, hướng giải quyết
khiếu nại. Việc tổ chức đối thoại lần hai thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật này”.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 40 Luật khiếu nại 2011
thì Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai phải thể hiện nội dung về kết quả đối thoại.
Việc tổ chức đối thoại là để làm rõ nội dung và yêu cầu của người khiếu nại nên có
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xác minh, giải quyết khiếu nại. Việc UBND tỉnh
Thanh Hóa khơng tổ chức đối thoại đã gây ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của bà Mão
và các đồng khởi kiện khác khi họ khơng có cơ hội trình bày quan điểm và những vướng
mắc của mình trong vụ việc. Do đó, Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 619/QĐ –
UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa ban hành vào ngày 22/02/2016 đã vi phạm
nghiêm trọng về trình tự giải quyết khiếu nại, cụ thể vi phạm Điều 39 và Điểm e Khoản 2
Điều 40 Luật khiếu nại 2011.
Thứ năm: Có sự giả mạo hồ sơ cấp GCNQSDĐ thửa đất số 843, tờ bản đồ số
5, địa chỉ tại Xóm 4, xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa cho ơng Tào Minh
Hùng và bà Hồng Thị Sen.
Đầu tiên, căn cứ bản tự khai (BL 72) ông Tào Minh Hùng có khai làm đơn xin cấp
GCNQSDĐ đối với thửa đất số 843, tờ bản đồ số 5 vào ngày 28/12/2006.
7


Căn cứ theo tồn bộ hồ sơ tơi đã sao chụp tại Tịa án thì hiện chỉ có đơn xin cấp
GCNQSDĐ vào ngày 25/04/2007 (BL 24 – 25) và đơn xin cấp GCNQSDĐ vào ngày
30/10/2007 (BL 32 – 33).
Vậy thực tế ơng Hùng đã có đơn xin cấp GCNQSDĐ từ khi nào? Vì hiện tại lời khai
của ơng Hùng và thực tế hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ là hoàn toàn không đồng nhất.
Tiếp theo, căn cứ Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND ngày
14/10/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa (BL 11) và Biên bản đối thoại (BL
38) thì UBND xã Hoằng Lý căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 50 Luật đất
đai 2003 để lập hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ trình cho UBND huyện Hoằng Hóa.

Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ –
UBND ngày 22/02/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa (BL 18) trả lời rằng: việc
UBND xã Hoằng Lý lập hồ sơ trình UBND huyện Hoằng Hóa về việc cấp GCNQSDĐ là
căn cứ theo Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003.
Tôi xin khẳng định căn cứ cấp GCNQSDĐ theo Điểm b Khoản 1 Điều 50 và căn
cứ cấp GCNQSDĐ theo Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003 là hai căn cứ hoàn toàn khác
nhau.
Như vậy, nội dung của hai Quyết định giải quyết khiếu nại có sự mâu thuẫn về việc
áp dụng căn cứ pháp luật để lập hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ.
Thứ sáu: Căn cứ theo đơn xin cấp GCNQSDĐ của ông Tào Minh Hùng vào ngày
25/04/2007 (BL 25) thì phần xác nhận kết quả thẩm tra của Phịng Tài ngun và Mơi
trường khơng ghi ngày, tháng, năm; phần kí tên đóng dấu của cán bộ kiểm tra và thủ trưởng
phịng Tài ngun và Mơi trường khơng đóng dấu và kí tên.
Căn cứ đơn xin cấp GCNQSDĐ của ông Tào Minh Hùng vào ngày 30/10/2007 (BL
32 – 33) thì phần xác nhận kết quả thẩm tra của Phịng Tài ngun và Mơi trường chỉ có
phần cán bộ kiểm tra kí tên, khơng có phần kí tên đóng dấu của trưởng phịng Tài ngun
và Mơi trường. Đồng thời, việc xác nhận kết quả thẩm tra đơn của Phòng Tài nguyên và
Môi trường vào ngày 31/12/2007, trùng với ngày cấp GCNQSDĐ số AL 214324 cho ông
Tào Minh Hùng. Như vậy có thể nhận thấy quy trình cấp GCNQSDĐ có sự bất hợp lí.
Hơn nữa, căn cứ mục 4 Quyết định số 619/QĐ – UBND ngày 22/02/2016 (BL 17)
nêu rằng: hồ sơ cấp GCNQSDĐ bao gồm Đơn xin cấp GCNQSDĐ của ông Tào Minh
Hùng ngày 30/10/2007 (BL 32 – 33); Biên bản kiểm trang hiện trạng ngày 11/10/2007
(BL); Phiếu lấy ý kiến ngày 05/10/2007 (BL 26 – 27) thì UBND tỉnh Thanh Hóa cho rằng
khơng có sự làm giả mạo giấy tờ này vì xã Hoằng Lý được chuyển về Thành Phố Thanh
Hóa từ năm 2012, nếu lập hồ sơ 2015 thì dấu phải là UBND xã Hoằng Lý, thành phố Thanh
Hóa, trong khi các giấy tờ trên có dấu đỏ ghi “UBND xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa”.
Việc trả lời khiếu nại của UBND thành phố Thanh Hóa như vậy là chưa thỏa đáng.
UBND thành phố Thanh Hóa khơng tiến hành xác minh, thẩm tra mà chỉ dựa vào mộc đỏ
có ghi “UBND xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa” rồi kết luận khơng có sự giả mạo trong
hồ sơ là không minh bạc và không khách quan.

Bằng chứng cho thấy, tại kết luận giám định ngày 28/05/20017 của Phòng Kỹ thuật
Hình sự - Cơng an tỉnh Thanh Hóa (BL 54 – 55) xác nhận rằng chữ kí những giấy tờ trên
khơng phải do ơng Hùng kí. Điều đó cho thấy những giấy tờ trên là giả mạo để hợp thức
hóa hồ sơ xin cấp GCN cho đúng trình tự, thủ tục.

8


Bằng các lẽ trên, kính mong Tịa án xét xử căn cứ theo Điểm b Khoản 2 Điều 193
Luật Tố tụng hành chính 2015 chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện của bà Tào Thị Mão
và các đồng khởi kiện về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324
ngày 31/12/2007 do UBND huyện Hoằng hóa cấp cho ơng Tào Minh Hùng và bà Hồng
Thị Sen, hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050 của UBND thành phố Thanh Hóa và
Quyết định giải quyết khiếu nại số 619 của UBND tỉnh Thanh Hóa.
Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người khởi kiện. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét và đưa ra bản án chính xác, khách
quan, thấu tình đạt lý.
Tơi xin chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử và mo ̣i người đã chú ý lắng nghe.
Trân tro ̣ng./.

9



×