Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tài liệu Tiểu luận triết học "Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.83 KB, 20 trang )

Tiểu luận triết học
"Mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội"

1
MỤC LỤC
Ti u lu n tri t h cể ậ ế ọ ..............................................................................................1
"M i quan h gi a cá nhân v xã h i"ố ệ ữ à ộ ..............................................................1
..............................................................................................................................1
M C L CỤ Ụ .............................................................................................................2
L I M U Ờ ỞĐẦ ......................................................................................................3
N I DUNGỘ ...........................................................................................................5
I. CON NG I TRONG TRI T H C MÁC - LÊNINƯỜ Ế Ọ .........................................5
1. B n ch t con ng iả ấ ườ .........................................................................................5
2. M i quan h gi a cá nhân v xã h i.ố ệ ữ à ộ ............................................................9
3. Cá nhân v qu n chúng nhân dân trong l ch sà ầ ị ử...........................................11
II. V N CON NG I TRONG S NGHI P I M I VI T NAMẤ ĐỀ ƯỜ Ự Ệ ĐỔ Ớ Ở Ệ .....15
1. Khái ni m nhân t con ng i, chi n l c con ng iệ ố ườ ế ượ ườ ................................15
2. Chi n l c con ng i trong s nghi p i m i Vi t Nam.ế ượ ườ ự ệ đổ ớ ở ệ ...................16
K T LU NẾ Ậ .....................................................................................................19
Em xin chân th nh c m n!à ả ơ ..........................................................................19
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả ................................................................................20
2
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải
được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý
thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học
công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được
coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền


vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp
ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và
quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo
đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá
3
trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì
vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển
con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là đưa con
người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt
ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta cũng như
xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới. Em xin chọn đề tài: Mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội
4
NỘI DUNG
Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con người là
gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt tới sự
hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết quả, rốt cuộc là chủ
nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về đời sống xã hội.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được xem xét một cách nhất quán, đầy
đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.
I. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Bản chất con người
Bất cứ một học thuyết nào về con người đều không thể lẩn tránh một vấn đề đã được
đặt ra trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất của con người là gì? Quan điểm duy
tâm quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, hoặc xem bản chất con người là cái gì đó được quy định sẵn từ những lực lượng
siêu tự nhiên.
Một số trào lưu triết học khác lại giải thích bản chất con người từ góc độ những điểm

chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự nhiên, là những nhu
cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển giống nòi; hoặc tìm kiếm
bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa là con người bị tách khỏi
mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính chất siêu hình của các quan điểm này về
bản chất của con người biểu hiện ở chỗ, con bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy
nó về bản tính tự nhiên, tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông xuất phát
từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới và thông qua
hoạt động vật chất con người. Đó là một động vật có tính xã hội với tất cả những nội
dung văn hoá - lịch sử của nó. Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người
một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và
con người. Con người sống dựa vào tự nhiên như hết thẩy mọi sinh vật khác. Nhưng
con người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khonog chỉ sống dựa vào tự
nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành
5
người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con
người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói "lao động sáng tạo ra con người là theo ý
nghĩa ấy".
Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước con người mà đã ra đời cùng với con
người, xã hội cũng con người, xã hội cũng không phải là cái gì trừu tượng, bất biến
mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi phương thức sản xuất nhất
định.Nhân tố quyết định phương thức sản xuất phát triển lại là lực lượng sản xuất,
bao gồm con người và công cụ lao động. Như thế, không phải cái gì khác mà chính là
con người, cùng với những công cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự thay đổi bộ
mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế
nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những cá thể cô lập
C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: "Bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của

nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận điểm trên thể hiện
những điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất
cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng có ý nghĩa
quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián
tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu
quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là
cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc thù (hình
thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người). Do đó, khi bàn đến
bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các tầng lớp
khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng lớp khác nhau không
được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó quy bản chất con người chỉ
còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của con người đều được giải thích
trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan điểm macxít về bản chất con người.
Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất trong con người.
6
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội riêng biệt
mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại
riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại) vừa theo chiêù
dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã
hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của mình con người bắt
buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người vươn
lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con người đang sống".
Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh thể cụ
thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác biệt.
Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì của con người để
chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người cụ thể là tổng hoà các quan hệ

xã hội "vốn có" của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi
hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là
những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người
không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua
hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa
học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức
giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thaũan đó, bản
chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu
hướng đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình.
Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình thông qua
hoạt động thực tiễn.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là
tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng
hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất
con người.
7
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con
người, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận
cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì theo C. Mác "giới tự
nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá
trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của
con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự
nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự
nhiên".
Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uóng, tính dục…, nhưng C. Mác
đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con người hoạt động theo
bản năng, con người hành dộng theo ý thức. Và chính mặt xã hội của con người đã
làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật

khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền sẵn có như
các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá, của tiến bộ
lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài chương trình di truyền, còn có
chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đường giáo dục, chương trình này
truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho các thế hệ sau. Những đặc điểm di
truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình, vừa bảo
đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội.
Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự phát triển của
con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học gay gắt. Nhiều nhà
khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi mặt xã hội. Chẳng hạn,
phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong sự phát triển của con người. Họ
tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu trường phái này là: Ph.Nítsơ,
Trenherơlen, Klovenơ…
Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của con người
theo quan điểm di truyền học…
Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người chỉ là mặt khác
nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm sinh.
8

×