Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.77 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất
đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi
khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được
coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp
ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và
quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo
đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá
trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì
vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển
con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là đưa con
người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới
đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta cũng
như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới. Em xin chọn đề tài: Mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Trang 1
NỘI DUNG
Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con
người là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt
tới sự hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết quả, rốt cuộc
là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về đời sống xã
hội.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được xem xét một cách nhất
quán, đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.
I. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN


1. Bản chất con người
Bất cứ một học thuyết nào về con người đều không thể lẩn tránh một vấn đề
đã được đặt ra trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất của con người là gì? Quan
điểm duy tâm quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, hoặc xem bản chất con người là cái gì đó được quy định sẵn từ những
lực lượng siêu tự nhiên.
Một số trào lưu triết học khác lại giải thích bản chất con người từ góc độ
những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự nhiên, là
những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển giống nòi; hoặc
tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa là con người
bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính chất siêu hình của các quan
điểm này về bản chất của con người biểu hiện ở chỗ, con bản chất là cái vốn có trừu
tượng và quy nó về bản tính tự nhiên, tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các
ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới
và thông qua hoạt động vật chất con người. Đó là một động vật có tính xã hội với tất
cả những nội dung văn hoá - lịch sử của nó. Như vậy, các ông không xem xét bản
chất con người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự
nhiên, xã hội và con người. Con người sống dựa vào tự nhiên như hết thẩy mọi sinh
vật khác. Nhưng con người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khonog chỉ
Trang 2
sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển
biến từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên
cũng là quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói "lao động sáng tạo
ra con người là theo ý nghĩa ấy".
Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước con người mà đã ra đời cùng
với con người, xã hội cũng con người, xã hội cũng không phải là cái gì trừu tượng,
bất biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi phương thức sản
xuất nhất định.Nhân tố quyết định phương thức sản xuất phát triển lại là lực lượng

sản xuất, bao gồm con người và công cụ lao động. Như thế, không phải cái gì khác
mà chính là con người, cùng với những công cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự
thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con người với tính cách là con
người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những cá
thể cô lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: "Bản chất
con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận điểm
trên thể hiện những điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người,
nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều
trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã
hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính kiểu quan
hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn
lịch sử đó.
Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc
thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người). Do đó, khi
bàn đến bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các
tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng lớp khác
nhau không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó quy bản chất
con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của con người đều
được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan điểm macxít về bản
Trang 3
chất con người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất
trong con người.
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội
riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ,
thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại) vừa
theo chiêù dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả

quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của mình
con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người
vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con người đang
sống". Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại và quá
khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh
thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác
biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì của con
người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người cụ thể là tổng hoà các
quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi
phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra
bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của
con người không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp,
quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận
thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt
động có ý thức giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy
mâu thaũan đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới
thấy sự chi phối của xu hướng đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản thân
mình. Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình thông
qua hoạt động thực tiễn.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng
Trang 4
lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của
Mác về bản chất con người.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản
chất con người, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên,

phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì theo C. Mác
"giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại
trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh
thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là
giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của
giới tự nhiên".
Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uóng, tính dục…, nhưng
C. Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con người hoạt
động theo bản năng, con người hành dộng theo ý thức. Và chính mặt xã hội của con
người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những
động vật khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền
sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá,
của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài chương trình di truyền,
còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đường giáo dục, chương trình
này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho các thế hệ sau. Những đặc
điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình,
vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội.
Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự phát
triển của con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học gay gắt.
Nhiều nhà khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi mặt xã hội.
Chẳng hạn, phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong sự phát triển của
con người. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu trường phái này là:
Ph.Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ…
Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của con
người theo quan điểm di truyền học…
Trang 5
Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người chỉ là
mặt khác nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm sinh.
Ngược lại quan điểm xã hội học tầm thường về con người thường quy kết

bản chất con người là một sản phẩm văn hoá của xã hội, của kinh tế và tước bỏ tính
hữu cơ, tính tự nhiên của con người.
Trường phái "Triết học nhân bản hiện đại" quan niệm về bản chất của con
người phải được xuất phát từ nguyên tắc tinh thần.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với tư
cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt
khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với tự
nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con người tạo
thành bản chất người.
2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một chỉnh
thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với
những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và
hoạt động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện
lịch sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã
hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài "người". Không có con người
nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là
một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã
hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi
thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính định hướng về thế giới
quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể
đó.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống
loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân
Trang 6

×