Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn Thạc sĩ Giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.36 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÙNG SƠN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HÙNG SƠN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế
Mã ngành: 838.0107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG THỊ THƠM

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN HÙNG SƠN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THỪA
KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ............................................................ 7
1.1. Khái niệm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất....................................................... 7
1.2. Một số nội dung giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất . 18
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI
TÒA ÁN ......................................................................................................... 35
2.1. Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án cấp
sơ thẩm .................................................................................................... 35
2.2.Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án cấp
phúc thẩm ................................................................................................ 41
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC
TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............. 51

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm ....................................................... 51
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi
việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại tòa án nhân
dân quận Bắc Từ Liêm ............................................................................ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Tổng số vụ án Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ
năm 2015 đến năm 2019 ....................................................................... 55
Bảng 3.2: Số vụ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
quận Bắc Từ Liêm giải quyết từ 2015 đến 2019 .................................. 56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn
lực và là thành phần quan trọng của mơi trường sống có ý nghĩa kinh tế chính
trị, xã hội liên quan đến mọi người, mọi cơ quan, tổ chức, được nhà nước hết
sức quan tâm. Hiến pháp và Luật đất đai qua các thời kỳ đều khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân với rất nhiều quyền năng của người sử dụng đất.
Chính vì ý nghĩa quan trọng của đất đai, và các quyền của người sử dụng đất
pháp luật cho phép nên trong đời sống xã hội đã phát sinh nhiều loại tranh
chấp đất đai, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Thừa kế quyền sử
dụng đất là một quyền cơ bản của người sử dụng đất và quyền thừa kế là
quyền của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Đây là quyền thể hiện
rất rõ tính chất tự do ý chí, tự do định đoạt của chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật dân sự về tài sản nói chung, quan hệ thừa kế nói riêng. Đặc biệt

trong trường hợp di sản là quyền sử dụng đất thì vấn đề thừa kế quyền sử
dụng đất còn phải tuân thủ theo các chính sách đất đai của Nhà nước. Trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các tranh chấp về thừa kế quyền sử
dụng đất diễn ra ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, kéo dài chính vì thế
thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề thời sự liên quan đến từng cá nhân,
từng gia đình bởi quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trị lớn, các vấn đề
thừa kế chủ yếu là liên quan đến đất giữa những người có quan hệ gần gũi với
nhau. Vì vậy, nếu giải quyết không dứt điểm, không phù hợp sẽ gây mất đồn
kết trong gia đình, anh em từ đó ảnh hưởng tới trật tự xã hội. Việc giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tịa án góp phần giải quyết chấm
dứt mâu thuẫn giữa các đồng thừa kế. Chính vì thế việc nghiên cứu các quy
định pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại
Tịa án nhằm tiếp tục hồn thiện thêm chế định pháp luật về thừa kếQSDĐ
cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một

1


yêu cầu khách quan. Cụ thể là, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng hội
nhập quốc tế, vấn đề tranh chấp thừa kế QSDĐ cần được nghiên cứu để mở
rộng hơn nữa quyền tự định đoạt của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
(QHPL) thừa kế quyền sử dụng đất. Các quy phạm pháp luật về thừa kế
QSDĐ, giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ cần được xây dựng dựa trên cơ
sở bảo đảm mối quan hệ hài hồ lợi ích của các chủ thể tham gia QHPL thừa
kế quyền sử dụng đất và lợi ích của tồn xã hội, tôn trọng sự tự do định đoạt
của các chủ thể trong QHPL thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp thừa kế QSDĐ
góp phần đem lại một trật tự xã hội ổn định, đồng thời xây dựng một cơ chế
pháp lý đồng bộ đảm bảo thực thi một cách hữu hiệu các quy định thừa kế
QSDĐ. Chính vì các lý do trên học viên chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp

về thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội” để thực hiện luận văn thạc sỹ nhằm
mục đích nghiên cứu những quy định pháp luật về tố tụng dân sự để giải
quyết vụ án tranh chấp thừa kế QSDĐ. Ngoài ra, nghiên cứu đề tài cũng nhằm
làm rõ thực trạng giải quyết và những vướng mắc trong quá trình giải quyết
tranh chấp thừa kế QSDĐ để rút ra bài học, đồng thời kiến nghị cơ quan lập
pháp có căn cứ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự
phù hợp với thực tiễn đời sống.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tại Việt Nam đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu về giải quyết
tranh chấp thừa kế QSDĐ dưới mức độ cử nhân luật, thạc sỹ luật học, tiến sỹ
luật học, giáo trình giảng dạy mơn pháp luật có liên quan và một số bài đăng
trên các tạp chí chuyên ngành. Ngồi ra, nghiên cứu tranh chấp thừa kế
QSDĐ nói chung có nhiều khóa luận cử nhân, luận văn cao học, luận án tiến
sĩ đã đề cập đến, nhưng nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ

2


trong phạm vi của một tỉnh thì chưa được quan tâm chú ý. Một số cơng trình
nghiên cứu và giáo trình giảng dạy liên quan đề cập đến tiêu biểu như:
Cuốn sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm
1945 đến nay” của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
năm 2004.
Cuốn “Luật thừa kế Việt Nam”, do TS. Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản
Hà Nội, năm 2008.
Cuốn sách “Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng”,
TS. Phạm Văn Tuyết, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007.
Đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa
kế trong Bộ luật Dân sự”, Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Tuấn,

Trường Đại học Luật Hà Nội,năm 2007.
Cuốn “Giáo trình luật tố tụng dân sự”, Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản
Công An nhân dân, Hà Nội năm 2007.
Cuốn “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự”, Trường đào tạo
các chức danh tư pháp, Nhà xuất bản Công An nhân dân, Hà Nội, năm 2004.
Tác phẩm “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế”, Dương
Bạch Long và Nguyễn Xuân Anh,Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
năm 2005.
LS.TS. Phan Thị Hương Thủy: 99 tình huống và tư vấn pháp luật về
thừa kế nhà và quyền sử dụng đất, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2005.
ThS. Nguyễn Hữu Ước: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao từ năm 2000 - 2007, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2008.
Bên cạnh đó cịn một số tập hệ thống hóa văn bản pháp luật về dân sự, hơn
nhân và gia đình nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng của Tịa án
nhân dân (TAND) tối cao; các tập cơng bố phán quyết của Tịa án về xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án dân sự của TAND tối cao (trong đó có
các vụ án về tranh chấp thừa kế QSDĐ);

3


Sổ tay thẩm phán của TAND tối cao năm 2009.
Ngoài những cơng trình nghiên cứu trên, cịn một số luận văn cao học
nghiên cứu về thừa kế QSDĐ như các luận văn cao học luật của Lê Khắc
Hạnh về thừa kế quyền sử dụng nhà ở và đất ở tại thành phố Hải Phòng, của
Phạm Thị Thúy Liễu về thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về
thừa kế QSDĐ trên địa bàn tỉnh Hà Nam,... Đó là những đề tài nghiên cứu về
QSDĐ ở các góc độ cụ thể theo di chúc, theo pháp luật hay về thừa kế một
loại đất trong một thành phố, một tỉnh.
Tuy nhiên, với những đề tài và các bài viết trên tác giả nghiên cứu tập

chung những vấn đề cơ bản nhất về thừa kế và về việc tố tụng. Vì vậy nên
chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất qua
thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà
Nội” là một đề tài khơng bị trùng lặp có tính lý luận và tính thực tiễn phù hợp
với tính chất công việc của học viên đang công tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá quy định pháp
luật trong việc giải quyết những tranh chấp về thừa kế QSDĐ thuộc thẩm
quyền của Tịa án, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa
kế QSDĐ và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp QSDĐ có hiệu
quả hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục đích nêu trên, nhiệm vụ chính của đề tài
này là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thừa kế QSDĐ, cơ chế giải quyết
tranh chấp đất đai bằng Tòa án các quan hệ tranh chấp đất đai;
- Nghiên cứu vai trò giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ của toà án
cấp sơ thẩm, cụ thể là ở TAND quận Bắc Từ Liêm. Từ đó tổng kết kinh

4


nghiệm thực tiễn toà án áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế đất
đai;
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp thừa kế QSDĐ bằng Toà án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận trong giải quyết

tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục xét xử sơ thẩm cụ thể ở
TAND quận Bắc Từ Liêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn thuộc chuyên ngành luật, nhưng có liên quan đến việc áp
dụng pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật nội dung trong việc giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất theo thủ tục xét xử sơ thẩm tại TAND.
Việc khảo sát và nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xét
xử các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại TAND ở quận Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
Nghiên cứu thực tiễn xét xử ở TAND quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội từ
năm 2015 đến nay (2019).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học biện chứng duy vật và biện
chứng lịch sử Mác- Lênin.
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật đất đai, về vấn đề cải cách tổ
chức và hoạt động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện
nay nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu trong cải cách tư pháp.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích; phương pháp so
sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, thu
thập dữ liệu để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển lý
luận phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải quyết
tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại TAND.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ
cho công tác nghiên cứu giảng dạy nói chung và đào tạo chức danh tư pháp
nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ năng
trong việc nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt đối với Thẩm phán dân sự, giải quyết vụ
án tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất và các vụ án liên quan đến tranh
chấp quyền sử dụng đất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng
đất và giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và những kiến nghị.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và giải
quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

1.1.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, để duy trì chúng ta phải sáng
tạo, lao động, sản xuất và phối hợp với nhau để tạo ra của cải vật chất để ni
sống chính bản thân và xã hội, đó có thể là những tài sản vật chất hoặc phi vật
chất mà họ tạo ra cho xã hội. Đó chính là cơng sức và sức lao động của họ, họ
có tồn quyền sử dụng và định đoạt đối với giá trị của cải vật chất đó, đó
chính là tài sản mà cá nhân họ tạo ra. Trong trường hợp họ không sử dụng
hoặc muốn chuyển giao cho người khác thì có tồn bộ quyền chuyển lại và
bên nhận chính là bên thừa hưởng quyền thừa kế, tức là kế tiếp họ để quản lý,
sử dụng và sở hữu giá trị tài sản đó. Trường hợp tài sản đó khơng sử dụng hết,
người sở hữu chết, mất đi thì tài sản đó có thể chuyển lại cho người cịn sống
thụ hưởng, chính vì vậy mà các giá trị và quan hệ về thừa kế sẽ xuất hiện và
phát sinh, nên cần phải tuân thủ theo các quy định của thừa kế.
Thừa kế chính là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ rất
lâu, trong các xã hội trước đây cũng đã có, kể cả khi chưa có nhà nước và
pháp luật thì thừa kế vẫn tồn tại một cách khách quan. Đó chính là việc một
người này chuyển giao tài sản thừa kế cho một người khác, một các nhân hay
tổ chức khác. Như vậy, thừa kế theo cách hiểu trên nghĩa là việc dịch chuyển
tài sản của người đã chết hoặc từ chối sở hữu tài sản để giao cho người sống
hoặc người khác sở hữu, bao hàm cả quản lý và sử dụng tài sản đó. Sự dịch
chuyển này có thể là từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ tổ chức này sang tổ chức khác.

7


Trong lịch sử hình thành nhà nước, do lực lượng sản xuất phát triển,
của cải dư thừa, dẫn đến các quan hệ sản xuất cũng thay đổi, một bộ phận
đứng ra chiếm dụng và hình thành nên sự phân cấp ra các giai tầng trong xã
hội, khi các giai cấp phát triển, mẫu thuẫn về lợi ích đẩy lên cao, dẫn tới xung

đột dẫn tới sự ra đời của nhà nước. Như vậy, nhà nước ra đời là sản phẩm tất
yếu của quá trình phát triển của xã hội. Khi có nhà nước thì pháp luật là yếu
tố khơng thể thiếu và nó ra đời cùng với nhà nước để bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị cũng như duy trì một trật tự xã hội nhất định đảm bảo cho
tất cả các thành viên của xã hội thực hiện theo. Khi xã hội phát triển đến một
mức độ nhất định thì pháp luật chính là cơng cụ và phương tiện để nhà nước
quản lý toàn bộ các mặt đời sống của xã hội, khi đo các quan hệ trong đời
sống đều được điều chỉnh bởi quan hệ pháp luật và được bảo đảm bằng pháp
luật, cùng với nó thì các quan hệ về thừa kế cũng ra đời. Như vậy, có thể thấy
rằng quyền sở hữu về tài sản, về tư liệu sản xuất của người dân đã có từ lâu
đời nó phù hợp với chuẩn mực và nhu cầu của xã hội. Do đó, quyền sở hữu là
quyền thiêng liêng, bởi giá trị mà họ phải bỏ sức lao động, mồ hơi, cơng sức
của thì họ được sở hữu là chính đáng. Khi họ khơng sử dụng hoặc họ chết đi
thì giá trị tài sản đó họ có thể chuyển cho người khác, và khi đó nhà nước sẽ
bảo đảm cho các hoạt động này được diễn ra một cách cơng bằng và khách
quan nhất khi đó quan hệ thừa kế chính thức ra đời. Có thể thấy rằng quyền sở
hữu chính là điều kiện, tiền để phát sinh ra quyền thừa kế và ngược lại, quyền
thứa kế chính là kết quả của sở hữu mà ra.
Nhà nước có vai trị đứng ra bảo vệ quyền sở hữu, bảo về quyền thừa
kế vì như vậy chính là bảo vệ cơ sở phát sinh, phát triển và tồn tại của xã hội,
duy trì trật tự xã hội ổn định. Chính vì vậy mà quyền thừa kế và quyền sở hữu
có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cả hai quyền đều là những phạm
trù pháp lý, song song tồn tại trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định, có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Từ chỗ pháp luật
quy định cho cơng dân có quyền sở hữu tài sản và cũng dựa vào đó pháp luật

8


quy định cho họ các quyền năng trong quan hệ thừa kế. Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một chế độ xã hội dựa trên nền tảng cơng hữu hóa
tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, rừng núi, sông, suối,…Nhà nước đại diện
cho nhân dân, của dân và vì dân. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng các
quyền và lợi ích hợp pháp mà nhà nước cho phép chuyển dịch. Ở đây đối
tượng của thừa kế là những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, sinh hoạt như:
hệ thống nhà xưởng, công ty, cổ phần và các máy móc, tài sản về quyền sử
dụng đất, các giá trị gắn liền với đất, nông nghiệp, tiền, vàng, bạc,… Cơng
dân có quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
người khác, Nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và quyền nhận
thừa kế của công dân. Nhà nước khuyến khích cơng dân tích cực lao độngsản
xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm giàu cho cá nhân, gia đình, và
đất nước.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, đứng trên góc độ pháp lý có thể
hiểu rằng thừa kế chính là một trong những quyền cơ bản của công dân,
quyền này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Cụ thể
các bản Hiến pháp của nhà nước Việt Nam đều đã thừa nhận và ghi rõ, khoản
1 và 2, Điều 32 Hiến pháp 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,
phần vồn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Như vậy, pháp luật
bảo vệ quyền thừa kế của con người xuất phát tư quan điểm coi gia đình là tế
bào của xã hội và sự ổn định của từng thành viên trong gia đình.
Căn cứ vào Hiến pháp, quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ, cụ thể là
Luật Đất đai 2013 và Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Tố tụng dân sự 2015và một
số văn bản khác cũng đã quy địnhvềvấn đề này. Tại Điều 609 Bộ Luật Dân sự
2015 có quy định về quyền thừa kế như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của cá nhân mình; để lại tài sản của mình cho người
thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

9



Người thừa kế khơng là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.
Theo cách tiếp cận như trên thì thừa kế chính là một QHPL, theo đó có
nhiều dạng thừa kế khác nhau như thừa kế tài sản, thừa kế cổ phần, thừa kế
quyền sử dụng đất,… khi đề cập tới thừa kế quyền sử dụng đất chúng ta cũng
cần nắm rõ thế nào là quyền sử dụng đất và thừa kế quyền sử dụng đất như
thế nào?
Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về quyền sử dụng đất,
trên góc độ pháp lý, có ý kiến cho rằng: Quyền sử dụng đất là một QHPL về
đất đai, khi xét tới QHPL về đất đai chúng ta cần chú ý tới các khía cạnh như
sau:
Thứ nhất, về chủ thể sở hữu với người sử dụng đất, đây chính là mối
quan hệ giữa nhà nước với cơng dân thông qua các quyền sử dụng, chiếm hữu
và định đoạt quyền sử dụng đất. Quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai
là tuyệt đối cịn của cơng dân đối với quyền sử dụng đất chỉ là tương đối và
thuộc dạng phái sinh, phụ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai của chủ
thể.
Thứ hai, là quan hệ giữa người sử dụng đất với các cơ quan quản lý nhà
nước (QLNN) liên quan đến việc cấp QSDĐ và giải quyết mối quan hệ giữa
những người sử dụng đất với nhau. Trong QHPL này các bên tham gia vừa là
chủ thể vừa là đối tượng trong những giao dịch, những quan hệ cụ thể trong
quá trình sử dụng đất và các vấn đề liên quan.
Như vậy, qua các hiểu này thì QSDĐ ở đây chính là quyền sở hữu về
đất đai của nhà nước với quyền sử dụng và khai thác các giá trị liên quan đến
đất được cấp phép và sử dụng trong các giao dịch về đất đai như sử dụng, cho
thuê và cấp phép, xác định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đồng thời còn
cấp phép, trao quyền sử dụng đất cho các cá nhân, tổ chức và hộ gia đình sử
dụng thơng qua các hình thức cho thuê đất, cấp giấy phép quyền sử dụng đất
lâu dài, hạn có mức 50 năm,…. Chính vì vậy mà các vấn đề liên quan được

đảm bảo thực hiện thông qua các QHPL liên quan.

10


Hai là, quyền sử đất chính là một chế định của luật đất đai. Tức là nó
bao gồm hệ thống các quy định, quy phạm pháp luật về đất đai do nhà nước,
cơ quản quản lý có thẩm quyền ban hành nhằm thực hiện việc lý, sử dụng đất
đai sao cho hợp lý, đáp ứng yêu cầu của QLNN, phù hợp với hệ thống luật
pháp chung của nhà nước và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan. Có thể là
các văn bản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, các thủ tục
pháp lý, trình tự hành chính,… để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền
sử dụng đất. Mặt khác lại có quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất chính là
một quyền riêng của chủ sử hữu cũng như của người sử dụng đất, hiểu theo
nghĩa này tức là đây chính là các quyền, các cách thực hiện đối với mảnh đất
mà nhà nước trao cho chủ sử hữu sử dụng.
Ba là, hiểu quyền sử dụng đất chính là một tài sản đặc biệt trong cuộc
sống hiện nay. Như chúng ta đã biết thì quyền sử dụng đất vừa là đối tượng
của QHPL dân sự, đồng thời cũng là đối tượng của QHPL đất đai. Hiện nay,
pháp luật cũng đã quy định rất rõ ràng về loại tài sản này, đó thực sự là tài sản
đặc biệt, đất đai là của nhà nước, của sở hữu toàn dân, tuy nhiên quyền sử
dụng đất lại đựa giao cho người dân sử dụng và quản lý và tuân thủ theo
những yêu cầu của pháp luật về quản lý đất đai, cấp phát quyền sử dụng đất,
pháp luật của nhà nước cũng quy định quyền sử dụng đất là một tài sản trong
các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, thế chấp, nhượng quyền,… chính
vì lẽ đó mà vấn đề quản lý quyền sử dụng đất luôn là vấn đề được quan tâm
chú trọng để đảm bảo ổn định và phát triển.
Như vậy, có thể nhận định rằng quyền sử dụng đất chính là nhân tố vơ
cùng quan trọng trong các QHPL nói chung và pháp luật về đất đai, dân sự
nói riêng. Nó gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân, là yếu tố có mối

quan hệ mật thiết với sử hữu tồn dân, bởi quyền sử dụng đất chính là một
phương thức cơ bản để nhà nước quản lý có hiệu quả về đất đai, khai thác tối
đa các thế mạnh để hướng tới sử dụng ổn định kinh tế, xã hội, mang lại kết
quả tốt nhất.

11


1.1.2. Khái niệm tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Đây là một khái niệm liên quan tới đất đai, mà cụ thể chính là quyền sử
dụng đất của người dân trong quan hệ thừa kế, khi có nảy sinh vấn đề tranh
chấp về thừa kế quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 612
Bộ luật dân sự 2015 về “di sản” thừa kế, các chuyên gia về luật cho rằng di
sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác. Như vậy có nghĩa là, về nguyên tắc
mọi tài sản hợp pháp của người chết đều có thể trở thành di sản thừa kế, trong
đó có một loại tài sản khá đặc biệt là quyền sử dụng đất.
Trước đây, trong Bộ luật Dân sự 2005, tại Điều 733 nhà làm luật có
định nghĩa: “Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của
người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp
luật về đất đai”. Tại Điều 734 của Bộ luật này, các nhà làm luật tiếp tục ghi
nhận: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ
tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
Tại Điều 657 Bộ luật dân sự 2015, nhà làm luật quy định rằng:“1.
Người phân chia di sản” có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ
định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc
đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản

cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận”.Nếu việc
phân chia thừa kế khơng thỏa mãn được lợi ích chính đáng của những người
thừa kế, giữa họ sẽ phát sinh các mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí dẫn đến xung
đột về việc chia thừa kế quyền sử dụng đất và khi đó, tranh chấp về việc chia
thừa kế quyền sử dụng đất sẽ phát sinh, dẫn đến việc phải giải quyết tranh
chấp.

12


Như vậy, thừa kế QSDĐchính là một khái niệm gắn liền với QSDĐ của
người nắm quyền. QSDĐ chính là một loại tài sản đặc biệt trong xã hội và đã
được pháp luật thừa nhận. Khi một người nắm giữ QSDĐ thì quyền đó chính
là tài sản của họ, khi họ chết đi thì tài sản đó sẽ được chuyển dịch lại cho
người khác theo pháp luật hoặc là theo di chúc, thì khi đó QSDĐ chính là di
sản thừa kế mà người chết để lại cho người thụ hưởng, sau khi đã thực hiện
các nghĩa vụ pháp luật, khi đó di sản này sẽ phát sinh QHPL về thừa kế
QSDĐ.
Dó đó có thể hiểu:Thừa kế quyền sử dụng đất là người có quyền để lại
quyền sử dụng đất trên cơ sở lập di chúc hoặc trên cơ sở quy định của pháp
luật nhưng phải tuân theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản pháp
luật khác có liên quan.
Thừa kế QSDĐ được xem như là một chế định mới trong hệ thống
pháp luật (HTPL) của Việt Nam, nó cũng phù hợp với các yêu cầu của hệ
thống, đồng thời đây cũng là nét đặc thù trong trong HTPL Việt Nam so với
HTPL của các quốc gia khác trên thế giới, bởi lẽ chỉ có ở Việt Nam mới có
khái niệm thừa kế QSDĐ. Trong vấn đề về thừa kế thì các tranh chấp ln
ln diễn ra với rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, điều đó cũng đã được quy
định trong Luật Đất đai 2013 cũng như trong Bộ Luật Dân sự 2015 ở Việt
Nam.

Tranh chấp QSDĐ là bộ phận của tranh chấp đất đai, theo quy định tại
khoản 24 Điều 3“giải thích từ ngữ”, Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất
giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Có thể thấy rằng trong khái
niệm này đã bao hàm cả tranh chấp về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền
với đất, tranh chấp cả về địa giới hành chính. Như vậy, đất đang có tranh chấp
là được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với cá nhân
khác, với nhà nước hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó với
nhau đang có tranh chấp về sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất, về ranh

13


giới, về mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong q
trình sử dụng đất. Có thể thấy khi đề cập đến đất có tranh chấp thì chưa thể
xác định được giữa các bên ai là người sử dụng hợp pháp.
Tranh chấp về đất đai là tất cả những gì liên quan đến đất đai, tức là
bao gồm cả những tranh chấp đất đai khác là một bộ phận của tranh chấp về
đất đai, những bộ phận còn lại gồm tranh chấp các hợp đồng giao dịch liên
quan tới đất đại, thừa kế di sản là QSDĐ, chia tài sản chung là QSDĐ,….
Việc phân biệt như vậy là để đảm bảo rằng các bên liên quan thực sự trong
vấn đề nếu có xảy ra tranh chấp và trong việc xác minh bản chất của các loại
tranh chấp. Trên thực tế, nhiều khi Tòa án vẫn yêu cầu các bên phải hòa giải
tại UBND cấp xã, phường, thị trấn trước thì mới đủ điều kiện để khởi kiện khi
tranh chấp đó khơng cần phải hịa giải gây phiền hà, mất thời gian cho các
bên. Do vậy, chỉ những tranh chấp liên quan đến việc ai là người có quyền sử
dụng đất thì mới bắt buộc phải tiến hành hòa giải, còn các tranh chấp khác về
thừa kế, tranh chấp các giao dịch liên quan đến QSDĐ thì không bắt buộc.
Với tư cách là một loại tài sản đặc biệt, QSDĐ có bản chất là quyền tài
sản theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là

quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.Do là quyền tài
sản nên QSDĐ là một loại tài sản vơ hình, khơng thể nắm giữ, chiếm hữu theo
cách thông thường giống như tài sản là vật, tiền hay giấy tờ có giá. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất chính là
tổ chức, cá nhân đang có QSDĐ hợp pháp được Nhà nước công nhận bằng
Giấy chứng nhận QSDĐ.
Như vậy, tranh chấp về QSDĐ là những tranh chấp giữa các bên với
nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó.
Trong quan hệ này thì đối tượng của tranh chấp đất đai không phải là quyền
sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có
quyền sở hữu đối với đất, vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 53

14


Hiếp pháp năm 2013 và Điều 4 Luật Đất đai năm 2013: “đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.
Qua việc phân tích khái niệm tranh chấp QSDĐ như trên, chúng ta có
thể thấy rằng tranh chấp thừa kế QSDĐ hiện nay rất đa dạng và phức tạp, có
thể là tranh chấp QSDĐ trong đó buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản do người chết để lại; cũng có thể là tranh chấp thừa kế QSDĐ trong đó
yêu cầu chia di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật hiện hành; cũng
có thể là xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác,… Hiện nay, trong trong HTPL Việt Nam chưa có định nghĩa
chính thức nào về khái niệm chia thừa kế QSDĐ,chính vì vậy dẫn đến nhiều
tranh chấp trong vấn đề giành QSDĐ hiện nay. Bộ luật Dân sự 2015 trong
phần về thanh tốn và phân chia di sản thì có thể hiểu rằng thừa kế chính là
việc phân chia di sản của người đã chết theo di chúc của người đó hoặc theo

quy định của pháp luật. Trong Bộ luật Dân sự 2015 có ghi nhận tại Điều 656
về việc họp mặt những người thừa kế: “1. Sau khi có thơng báo về việc mở
thừa kế hoặc di chúc được cơng bố, những người thừa kế có thể họp mặt để
thỏa thuận những việc sau đây:
a,Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền,
nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong
di chúc;
b,Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn
bản”.
Như vậy, có thể quan niệm rằng trong thủ tục về chia thừa kế, các bên
có liên quan (bao gồm những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật)
có thể thỏa thuận xác định người phân chia di sản là ai và cách thức phân chia
di sản như thế nào trong văn bản thỏa thuận giữa họ với nhau về việc chia
thừa kế tài sản nói chung và chia thừa kế QSDĐ nói riêng.

15


Trên cơ sở đó, khi các bên trong quan hệ thừa kế QSDĐ không đạt
được những yêu cầu cũng như những lợi ích thì có thể sẽ dẫn đến xung đột về
vấn đề phân chia, sử dụng và quản lý QSDĐ, trong trường hợp này sẽ cần
phải nhờ đến sự hịa giải của chính quyền cơ sở, nếu hịa giải khơng thành có
thể dẫn đến đưa ra Tịa án để giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ theo đúng
quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của
người thừa kế và với các bên.
Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính (TTHC) hiện nay
được tiến hành theo quy định của pháp luật, khi người dân, cơ quan, tổ chức
có phát sinh mâu thuẫn, xảy ra tranh chấp khơng hịa giải được thì gửi đơn
khiếu nại tới chính quyền địa phương, tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có

đất tranh chấp, có xảy ra tranh chấp QSDĐ. UBND xã (phường/thị trấn) có
trách nhiệm phối hợp với Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức
thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất
đai. Thời hạn hòa giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày UBND cấp xã nhận
được đơn. Sau khi hòa giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương
sự khơng nhất trí thì sẽ được giải quyết như sau:
Tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng cư dân với nhau thẩm
quyền giải quyết lần đầu sẽ là chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu một bên hoặc
các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu
nại đến chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết; quyết định của chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng, đối
với những trường hợp tranh chấp mà khơng có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Cịn những trường hợp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
khi khơng đồng ý với quyết định của cấp hành chính giải quyết thì khởi kiện
ra Tịa án cùng cấp giải quyết.
Như vậy, giải quyết khiếu nại theo TTHC thì các cơ quan quản lý hành
chính tại địa phương sẽ thụ lý và giải quyết theo phân cấp hành chính rõ ràng,
theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cấp. Theo đó thì khiếu

16


nại ban đầu sẽ đưa nên chính quyền cơ sở, đó là UBND xã (phường/thị trấn),
khi khơng thỏa đáng có thể gửi khiếu nại lên cấp trên trực tiếp đó chính là
UBND huyện, quận, nếu vẫn khơng đồng ý với quyết định của cấp quận,
huyện thì có thể chuyển khiếu nại lên cấp trên đó là tới UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương để giải quyết. Đồng thời, các bên đương sự có thể lựa
chọn hình thức khởi kiện vụ án dân sự, gửi đơn và hồ sơ tới Tịa án để giải
quyết.
Tóm lại, trên cơ sở khái niệm về thừa kế QSDĐ cũng như các vấn đề

liên quan đến tranh chấp thừa kế QSDĐ như trên, có thể hiểu: Tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất chính là các tranh chấp liên quan đến việc phân
chia, sử dụng và quản lý tài sản hợp pháp của người đã chết để lại cho người
cịn sống, hay cịn gọi đó là di sản mà ở đây chính là quyền sử dụng đất, một
loại tài sản đặc biệt khi xảy ra tranh chấp giữa các bên liên quan trong vấn
đề về quan điểm, lợi ích khi khơng có sự thống nhất, dẫn đến mâu thuẫn và
xung đột cần phải được giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định của pháp
luật.
1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại
Tòa án
Trong các quan hệ dân sự, khi các mâu thuẫn không được giải quyết
thỏa đáng bằng biện pháp hòa giải rất dễ đẫn đến những xung đột, thậm chí là
đấu tranh, tranh giành quyết liệt. Các mâu thuẫn chủ yếu xoay quanh vấn đề
về quyền và lợi ích của mỗi bên, vì vậy khi đó sẽ nảy sinh tranh chấp. Các
tranh chấp không giải quyết được các bên sẽ đưa nhau ra chính quyền, nhờ
chính quyền can thiệp và phân giải. Ở cấp chính quyền cơ sở thường sẽ tổ
chức hịa giải, thơng qua thỏa thuận và thương lượng đơi bên, có sự định
hướng và trợ giúp của cán bộ cấp cơ sở. Kết quả của hòa giải sẽ là điều kiện
dẫn tới các quan hệ pháp luật tiếp theo. Nếu như hịa giải thành cơng, các bên
thỏa mãn các yêu cầu và ra về, còn nếu khơng thành cơng, cấp cơ sở khơng
thể hịa giải được, các bên sẽ khởi kiện ra Tịa án.Khi đó sẽ điều chỉnh và thực

17


hiện theo các quy định của Luật Tố tụng dân sự hiện hành, hiện nay được điều
chỉnh và thực hiện theo Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tranh chấp chính là những bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong
q trình thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó có thể là những tranh chấp nảy
sinh trong quá trình phân chia lợi ích, phối hợp sản xuất kinh doanh, hay

trong các vấn đề của cuộc sống. Còn thừa kế theo cách hiểu như trên là quyền
chính đáng của người đã mất để lại cho người còn sống, việc thừa kế quyền
sử dụng đất đó chính là tài sản đặc biệt và rất dễ xảy ra tranh chấp. Do đó việc
giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là việc thường xuyên diễn ra
trong các tranh chấp hiện nay tại Tịa án.
Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
tại Tòa án là việc bên nguyên đơn nộp hồ sơ khởi kiện tại Tịa án có thẩm
quyền để u cầu giải quyết theo pháp luật. Tòa án nơi nhận đơn khởi kiện sẽ
kiểm tra các thông tin về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của tòa án, các tài liệu có trong hồ sơ khởi kiện có đáp ứng được yêu
cầu theo quy định hay không để thụ lý hoặc từ chối thụ lý hồ sơ khởi kiện vụ
tranh chấp. Sau khi thụ lý hồ sơ vụ tranh chấp để giải quyết nếu đúng thẩm
quyền luật định, tòa án sẽ tiến hành các thủ tục tố tụng theo trình tự do Luật
tố tụng dân sự quy định.
1.2. Một số nội dung giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
1.2.1. Các quan hệ tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Đề cập tới các quan hệ trong tranh chấp thừa kế QSDĐ các quan hệ
giữa chủ thể của di sản thừa kế và đối tượng của thừa kế QSDĐ và mối quan
hệ giữa các bên trong vấn đề tranh chấp, phân chia tài sản (QSDĐ), trong đó
có vai trị của chính quyền cơ sở, TAND cấp quận, huyện trong việc phân xử,
hòa giải trong tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Hiện nay, pháp luật thừa
kế có hai dạng, một là theo di chúc và hai là theo pháp luật, các quan hệ này
đều được điều chỉnh bởi pháp luật và hiện nay được quy định trong Luật Đất
đai 2013 và Luật Dân sự năm 2015.

18


Trong quan hệ về thừa kế theo di chúc Luật Dân sự năm 2015 quy định
cụ thể và chi tiết về vấn này. Tại Điều 624 ghi nhận: “Di chúc là sự thể hiện ý

chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Thơng qua quan hệ này có thể dễ dàng nhận thấy có ít nhất 2 bên, đó là giữa
người lập di chúc và đối tượng thừa hưởng, tức là giữa người để lại di chúc và
người thừa hưởng theo di chúc. Điều 625 quy định: Người thành niên có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình.Pháp luật đã chỉ rõ chủ thể của di chúc là những ai, độ tuổi đủ
hiểu biết và năng lực hành vi dân sự, biết định đoạt tài sản của mình. Đồng
thời, tại khoản 2, Điều 625 tại Bộ luật này cũng quy định: Người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ, hoặc
người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Có thể thấy các nhà làm luật của
Việt Nam đã tính toán rất chi tiết, cụ thể và đầy đủ đối với tất cả các đối
tượng là công dân Việt Nam, khi có đủ các điều kiện về nhận thức, những
chưa đủ tuổi thành niên vẫn được lập và để lại di chúc theo ý muốn. Một điểm
quan trọng trong việc lập di chúc đó chính là hình thức của di chúc như thế
nào, trong luật cũng chỉ rõ, di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không
thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Tuy nhiên, các
tranh chấp liên quan đến di chúc hết sức phức tạp, đặc biệt là di chúc liên
quan đến vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất đó là tính hợp pháp của di chúc.
Tại Điều 630, Bộ luật dân sự 2015 quy định:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc.

19



3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng
thực.
4. Di chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại,
cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được cơng
chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc
điểm chỉ của người làm chứng.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, đólà căn cứ pháp lý rất rõ ràng,
các bên liên quan tranh chấp theo quy định và thực hiện, tuy nhiên có thể do
hiểu biết pháp luật của họ còn hạn chế hoặc do sự tham lam, muốn chiếm đoạt
tài sản của người đã mất để lại, nên có sự gian dối, tranh giành trong một số
trường hợp người chết khơng có di chúc hoặc có di chúc thì lại khơng có được
di chúc bằng văn bản, mà chỉ có di chúc bằng miệng, vấn đề xác minh và đối
chiếu gặp khơng ít những khó khăn. Theo quy định trong Bộ luật Dân sự năm
2015, Bộ Luật Đất đai năm 2013 thì cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt
cho người thừa kế được hưởng quyền sử dụng đất ở của mình sau khi chết.
Khi để lại di sản là quyền sử dụng đất, người lập di chúc phải thỏa mãn các
điều kiện về chủ thể lập di chúc, quyền tự do định đoạt ý chí, nội dung của di
chúc khơng trái pháp luật, trái đạo đức xã hội và hình thức của di chúc phải
tuân theo những qui định của pháp luật, nhất là những điều luật của luật dân
sự trích dẫn nêu trên. Một điểm mới trong Bộ Luật đất đai 2013 là chú trọng
tới khâu hòa giải trong tranh chấp đất đai, Tại Điều 202 quy định: “1. Nhà
nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết
tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở.


20


×