Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bản chất là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay.Chế độ tư hữu là gì? Chế độ tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.49 KB, 18 trang )

z



NỘI DUNG TRIẾT HỌC
(CĨ VÍ DỤ)
1. Bản chất là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất
và hiện tượng?
2. Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất ở Việt Nam hiện nay
3. Chế đợ tư hữu là gì? Chế đợ tư hữu tư liệu sản xuất của tư
bản chủ nghĩa?

1. Bản chất là gì? Mối quan hệ biện
chứng giữa bản chất và hiện tượng?


Khái niệm bản chất là gì? Khái niệm hiện tượng là gì? Mối quan hệ
biện chứng giữa bản chất và hiện tượng? Ý nghĩa phương pháp luận?
Bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn?
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Theo chủ nghĩa
Marc – Lenin thì quan điểm duy tâm khơng thừa nhận hoặc không hiểu
đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng, bản
chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người
bịa đặt ra, còn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những
cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại
thực sự của bản chất nhưng đó khơng phải là của bản thân sự vật mà theo
họ đó chỉ là những thực thể tinh thần. Vậy, bản chất là gì? Ý nghĩa phương
pháp luận, mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng? Điều
này, được làm rõ trong bài viết dưới đây, mời Qúy bạn đọc cùng tham


khảo.

1. Bản chất là gì?
Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật đó. Ví dụ, trong xã hội có giai cấp bản chất của nhà
nước là cơng cụ chun chính của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội.
bản chất này được thể hiện ra dưới nhiều hình thức cụ thể khác nhau phụ
thuộc vào tương quan giai cấp trong xã hội. Bản chất gắn bó với cái chung
nhưng khơng phải cái chung nào cũng là bản chất. chỉ những cái chung
nào quy định sự vận động phát triển của sự vật mới là cái chung bản chất.
ví dụ, người Việt Nam (nhìn chung) có cái chung là màu tóc đen và da
vàng. Nhưng cái chung tóc đen và da vàng khơng phải là cái chung bản
chất của người Việt Nam. Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng
bậc, tuy nhiên bản chất rộng hơn, phong phú hơn quy luật.
Tóm lại, bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển
của sự vật đó.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong
cuộc sống. Nếu ai đó khơng có bất cứ mối quan hệ xã hội nào, dù nhỏ
nhất, thì người đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa.

2. Hiện tượng là gì?
– Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản
chất của sự vật, hiện tượng ra bên ngoài.


Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ
là hiện tượng, là vẻ bề ngồi.
Qua đó, bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện

thực khách quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngồi của hiện tượng và
biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy.
Ngược lại, hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của
hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện
tượng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện
tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
3.1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con
người có nhận thức được hay khơng.
Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu
tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau,
trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên
hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn
định lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách
quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngồi để chúng ta
nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
3.2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng cịn có mối liên
hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
3.3. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:


+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào

cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện
tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Khơng có bản
chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại,
cũng khơng có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản
chất nhất định.
3.4. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi
theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy
định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình,
vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt,
tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.

4. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì khơng dừng lại ở hiện tượng
bên ngồi mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác
nhau mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng
của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”.
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là
phải vạch ra được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ khơng phải dựa
vào hiện tượng.
– Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ không phải ở bên
ngồi nó. Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định
chủ quan, tùy tiện.
– Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra

bên ngồi thơng qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể
tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.


– Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều
hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã
cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta khơng
bao giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự
vật. Do vậy, ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình
trong hồn cảnh điển hình.
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy
đủ bản chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của
nó. Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn
trong bản chất của sự vật là một q trình hết sức khó khăn, lâu dài, cơng
phu, khơng có điểm dừng.
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết
sức thận trọng.

5. Bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện
chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản
là phù hợp với nhau, nhưng chúng khơng bao giờ phù hợp với nhau hồn
tồn.
Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra
thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các
sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện

tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện
y ngun bản chất.
– Sự khơng hồn tồn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở
chỗ:


+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và
phát triển của sự vật. Cịn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngồi bằng vô số hiện
tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất,
mà cịn vào hồn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính vì
thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn
hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan.
Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y ngun
như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên
tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào
chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn
thẳng.
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Cịn hiện tượng khơng
ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ
bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngồi của
nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
Các điều kiện tồn tại bên ngồi đó và sự tác động qua lại của sự vật này

với sự vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên
biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa ngun.
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ
lúc ra đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi
rất chậm so với hiện tượng.

2. Chế độ tư hữu là gì? Chế độ tư
hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ
nghĩa?
Khái niệm chế độ tư hữu là gì? Chế độ tư hữu tiếng Anh là gì? Chế độ
tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa? Vai trò của quyền tư
hữu đối với sự phát triển kinh tế và chính trị?


Để đạt được những thành tựu to lớn như ngày hơm nay, thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tất cả
đều vì mục đích phục vụ cho lợi ích của con người. Tuy nhiên, không phải
chế độ nào cũng vì mục đích chung của con người mà cịn là sự lợi dụng,
tư sản và phân chia xã hội thành nhiều giai cấp, từ đó gây ra nhiều tiêu cực
trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Vậy, chế độ tư hữu là gì? Chế độ tư hữu
tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa? Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp
bạn đọc hiểu hơn về vấn đề nêu trên.

1. Chế độ tư hữu là gì?
Sự hợp tác lao động, sự cơng bằng và bình đẳng về hưởng thụ trong xã
hội nguyên thủy, một phần là do tình trạng đời sống còn quá thấp kém tạo
nên. Nhưng từ khi có sản phẩm thừa thì tình hình lại diễn ra khác hẳn. Sự
phát triển của nền sản xuất cá thể theo từng gia đình phụ hệ, do khả năng
lao động của các gia đình khác nhau làm cho của cải tích lũy ngày càng
nhiều trong tay một số cá nhân hay gia đình, thường là các gia đình tộc

trưởng, tù trưởng hay các bô lão, thủ lĩnh quân sự.
Mặt khác, những người này lợi dụng chức phận để chiếm một phần sản
phẩm xã hội chi cho các công việc chung. Đồng thời, họ cũng tự cho phép
mình được “lĩnh” một khẩu phần nhiều hơn những người khác. Chẳng bao
lâu họ trở nên giàu hơn mọi người. Dần dần, xã hội thị tộc đã bị phân hóa
thành kẻ giàu người nghèo. Những người giàu có thì hợp thành tầng lớp
q lộc chiếm hữu nhiều ruộng đất, của cải…, còn những kẻ nghèo khó
gồm đơng đảo các thành viên của thị tộc, bộ lạc thì bị mất dần của cải và tư
liệu sản xuất, cuối cùng họ rơi vào tình trạng bị lệ thuộc tầng lớp trên và bị
tầng lớp này áp bức bóc lột khơng khác gì nơ lệ. Do có lương thực và thực
phẩm dư thừa, người ta khơng giết tù binh bắt được trong các cuộc xung
đội mà giữ lại nuôi để làm lao động cho thị tộc. Lúc đầu, họ phải làm những
công việc chung cho cả thị tộc, dần dần một số người đã lợi dụng chức
phận và uy tín cá nhân, bắt những người tù binh phục vụ cho riêng mình.
Họ đã bị biến thành nơ lệ trong các gia đình q tộc, quan lại.
Như vậy, chế độ tư hữu được hiểu là việc chiếm hữu riêng của một số bộ
phận giai cấp vì mục đích cá nhân. Trong nền kinh tế, tài sản thường đượ
coi là quyền sở hữu (quyền đối với số tiền thu được từ tài sản) và kiểm
soát tài nguyên hoặc hàng hóa. Nhiều nhà kinh ế cho rằng quyền quyền tài
sản cần phải được cố định và cần phải diễn đạt mối quan hệ giữa các bên
khác để có hiệu quả hơn.

2. Chế độ tư hữu tiếng Anh là gì?
Chế độ tư hữu tiếng Anh là Private ownership


Những thuật ngữ pháp lý liên quan dịch sang tiếng Anh:
Chế độ tư hữu

Private ownership


Tư liệu

Data

Chủ nghĩa

Tenet

3. Chế độ tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ
nghĩa
Trong kinh tế học và xã hội học, tư liệu sản xuất là các đầu vào như nguyên
liệu, lực lượng lao động, công cụ lao động, vốn nhà nước, tài nguyên thiên
nhiên dùng để sản xuất ra các sản phẩm có giá trị kinh tế.
Trong một xã hội nông nghiệp tư liệu sản xuất là đất đai và cuốc xẻng.
Trong một xã hội công nghiệp, tư liệu sản xuất là hầm mỏ và nhà máy.
Trong một xã hội tri thức, tư liệu sản xuất là máy tính và văn phịng. Theo
một nghĩa rộng, tư liệu sản xuất bao gồm cả tư liệu phân phối như internet,
đường ray xe lửa, và các kho chứa hàng.
Quyền sở hữu của tư liệu sản xuất trong xã hội là một yếu tố quan trọng
trong việc phân loại các hệ thống kinh tế khác nhau. Trong thuật ngữ kinh
tế học cổ điển, tư liệu sản xuất là những “yếu tố sản xuất”, bỏ qua vốn đầu
tư và yếu tố con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, “xóa bỏ chế độ tư hữu” là một vấn đề
lớn. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung vào hai vấn đề: một là, chế độ tư hữu
đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cân phải bị xóa bỏ và hai là, nếu “xóa bỏ
chế độ tư hữu” là cần thiết, là tất yếu thì thời điểm lịch sử của sự kiện đó là
khi nào?
Như vậy, chế độ tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa sẽ được hiểu theo
một số vấn đề sau đây:

Về vấn đề chế độ tư hữu đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cần phải bị xóa
bỏ, câu trả lời có rất rõ trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 của
C.Mác: chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa. Cũng như nói thêm
rằng, sự phát triển của kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc
như Adam, Xmit,…cùng sự phát triển mạnh mẽ và điển hình của chủ nghĩa
tư bản thời kỳ đó là hai điều kiện chín muồi cho những kết luận về chế độ
tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác.


Trong Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844, C.Mác đã chỉ ra và phân tích rất
rõ chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa như thế nào trên hai
phương diện: một là, sự tha hóa của con người công nhân trong sản phẩm
lao động của anh ta; và hai là, sự tha hóa của người cơng nhân “trong bản
thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất”.
Ở phương diện thứ nhất, biểu hiện của sự tha hóa là, sản phẩm do lao
động của người công nhân làm ra không nhưng không thuộc về anh ta, mà
cịn “đối lập người sản xuất”. Người cơng nhân sản xuất càng nhiều của
cải, sức mạnh và công nhân càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở
thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị
thì thế giới con người càng mất giá trị. Nói chung, anh ra làm ra càng nhiều
vật phẩm anh ta có thể chiếm hữu được càng ít và anh ta bị chính sản
phẩm do mình làm ra-tư bản-thống trị càng mạnh.
Ở phương diện thứ hai, “sự tha hóa của cơng nhân trong sản phẩm của
anh ta khơng chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ra trở thành một vật phẩm,
có được sự tồn tại bên ngồi, mà cịn có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn
tại.
Như vậy, chế độ tư hữu tư liệu sản xuất đã khiến con người trong tư bản
chủ nghĩa trở nên xa lạ với chính mình. Ở giai đoạn tư bản chủ nghĩa đã
khiến cho giá trị con người bị hạ thấp xuống chỉ bằng máy móc, khiến cho
người cơng nhân “cảm thấy mình chỉ cịn là con vật” trong những chức

năng con người của anh ta, khiến cho “cái vốn có của súc vật trở thành
chức phận của con người, cịn cái có tính người thì biến thành cái vốn có
của súc vật. Cuối cùng, theo một số ý kiến thì chủ nghĩa tư bản khơng xóa
bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà cụ thể là xóa bỏ “chế độ sở hữu tư
sản”-“biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và
chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những
người này bóc lột những người kia.

4. Vai trò của quyền tư hữu đối với sự phát triển
kinh tế và chính trị
Các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith và Karl Marx thường nhận ra
tầm quan trọng của quyền tư hữu trong quá trình phát triển kinh tế và các
nhà kinh tế chính thống hiện đại đồng ý với sự công nhận này. Một lời giải
thích được chấp nhận rộng rãi là các quyền tư hữu nếu được thực thi tốt sẽ
tạo động lực cho các cá nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế, như đầu
tư, đổi mới và trao đổi, dẫn đến một thị trường hiệu quả hơn. Sự phát triển
của quyền tư hữu ở châu Âu trong thời trung cổ là một ví dụ.
Trong thời đại này, tồn bộ quyền lực chính trị rơi vào tay các chế độ quân
chủ cha truyền con nối, những kẻ này lạm dụng quyền lực của họ để bóc


lột các nhà sản xuất, đánh thuế tùy tiện hoặc từ chối trả các món nợ. Việc
thiếu bảo vệ quyền sở hữu đã tạo ra rất ít động lực cho chủ đất và thương
nhân đầu tư vào đất đai, vốn vật chất hoặc nhân lực hoặc công nghệ. Sau
Nội chiến Anh 1642-1646 và Cách mạng Vinh quang năm 1688, sự thay đổi
quyền lực chính trị khỏi vua Stuart đã dẫn đến việc tăng cường quyền sở
hữu của cả chủ sở hữu đất đai và tư bản. Do đó, sự phát triển kinh tế
nhanh chóng đã diễn ra, tạo tiền đề cho Cách mạng Công nghiệp.
Quyền tài sản cũng được cho là giảm chi phí giao dịch bằng cách cung cấp
một giải pháp hiệu quả cho các xung đột về nguồn lực khan hiếm. Thực

tiễn, sử dụng dữ liệu lịch sử của các thuộc địa cũ của châu Âu, Acemoglu,
Johnson và Robinson tìm ra bằng chứng thuyết phục rằng các thể chế kinh
tế tốt – những tổ chức cung cấp quyền tư hữu an tồn và bình đẳng về cơ
hội – mang đến sự thịnh vượng kinh tế.
Quyền tài sản có thể liên quan chặt chẽ đến sự hình thành trật tự chính trị,
do nó bảo vệ quyền lợi kinh tế của một cá nhân. North, Wallis và Weingast
cho rằng quyền tư hữu bắt nguồn để tạo điều tạo tiền đề cho các hoạt động
trục lợi của giới thượng lưu. Đặc biệt, các hệ thống pháp lý và chính trị bảo
vệ các quyền của giới thượng lưu đối với các khoản thu tiền thuê nhà tạo
nên cơ sở của cái gọi là “trật tự truy cập hạn chế”, trong đó những người
không thuộc giới tinh hoa bị từ chối tiếp cận quyền lực chính trị và các đặc
quyền kinh tế.
Ví dụ, trong một nghiên cứu lịch sử về nước Anh thời trung cổ, North và
Thomas phát hiện ra rằng sự phát triển mạnh mẽ của luật đất đai của Anh
trong thế kỷ 13 xuất phát từ lợi ích của giới thượng lưu trong việc khai thác
doanh thu tiền thuê đất từ quyền sở hữu đất đai sau khi giá đất tăng đột
ngột vào thế kỷ thứ 12. Ngược lại, “trật tự truy cập mở” ngày nay, bao gồm
một hệ thống chính trị dân chủ và nền kinh tế thị trường tự do, thường bao
hàm các quyền tư hữu rộng rãi, an tồn và cá nhân hóa. Quyền tài sản phổ
qt, cùng với cạnh tranh kinh tế và chính trị khơng chính đáng, coi nhẹ vai
trò của việc trục lợi và thay vào đó ủng hộ những đổi mới và hoạt động sản
xuất trong nền kinh tế hiện đại.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về chế độ tư hữu là gì và
chế độ tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa. Trường hợp có thắc
mắc xin vui lòng liên hệ để được xử lý cụ thể.


3. Lực lượng sản xuất là gì? Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở
Việt Nam hiện nay

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Thực
trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt Nam trước
và sau đổi mới.
Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ
quốc gia nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng
của con người mà nó cịn tham gia vào q trình phát triển kinh tế của
nhiều quốc gia trên Thế giới, trong đó có Việt Nam. Triết học là nền tảng,
cơ sở của mọi đường lối quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nước, ngay cả trong thời đại hội nhập ngày nay.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo Triết học Mác – Lênin

Một trong những vấn đề lớn của Triết học Mác – Lênin là quan hệ sản
xuất, lực lượng sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua
lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hiểu được mối quan hệ
biện chứng này sẽ giúp cho quá trình phát triển của xã hội trở nên dễ dàng
hơn.
Ở nước ta, trước thời kỳ Đổi mới, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã không được nhận thức một cách đầy
đủ, cơ chế quan liêu, bao cấp kéo dài khiến nền kinh tế trở nên trì trệ. Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đưa nước ta chính thức bước vào thời kỳ
Đổi mới. Từ đây, Đảng đã không ngừng nâng cao về nhận thức và lý luận,
áp dụng linh hoạt vào việc Đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, khoa
học kỹ thuật phát triển, được ứng dụng rộng rãi trong xã hội, năng suất lao
động không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện.
NỘI DUNG

I. Những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về

quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất là gì?


– Lực lượng sản xuất:là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con
người.
Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người
lao động.
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm cơng cụ lao
động ( máy móc,…) và đối tượng lao động khác ( phương tiện vận chuyển
và bảo quản sản phẩm……). Đối tượng lao động là những yếu tố nguyên
nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá,…) hoặc nhân tạo (pôlime,
….).
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, là người tạo ra
và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri
thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
– Quan hệ sản xuất: là mỗi quan hệ giũa người với người trong quá trình
sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội).
2. Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất( quan hệ sở hữu) :nói lên ai là chủ
sở hữu đối với nhà máy, xí nghiệp ,các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu
trong quá trình sản xuất .
Quan hệ trong tổ chức – quản lý q trình sản xuất: nói lên ai là người tổ
chức, quản lý và điều hành quá trình sản xuất.
Quan hệ trong phân phối kết quả của q trình sản xuất đó : nói lên ai là

người có quyền phân phối, chia thành quả sản xuất, cho những ai và như
thế nào?
Trong ba mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai
trị quan trọng nhất, quyết định hai mối quan hệ kia, đồng thời tác động trở
lại bằng cách thúc đẩy hay kìm hãm.
2. Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất có vai trị quyết định đối với sự hình thành và phát triển
của quan hệ sản xuất
Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất địi hỏi phải
có một qun hệ sản xuất phù hợp. Do lực lượng sản xuất không ngừng phát
triển ở một trình độ cao hơn nên quan hệ sản xuất cũng phải phát triển để
tạo động lực cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất luôn
phát triển nhanh hơn quan hệ sản xuất nên đến một
lúc nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, đòi hỏi phải xuất hiện quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có vai trị tác động trở lại đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối.
Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất,
chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao
động.Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó
phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó khơng phù hợp.
Như vậy, ực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về
mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó địi hỏi phá bỏ quan hệ sản
xuất lỗi thời và thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Q trình
đó lặp đi lặp lại tác động cho xã hội loài người trải qua những phương thức

sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế – xã hội.

II. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất của Việt nam trước và sau Đổi mới (1986)
1. Thời kỳ trước đổi mới
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc
hậu nay lại càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta
còn thấp kém và chưa có điều kiện phát triển.
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay nghề,
phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha
ông để lại. Trường dạy nghề rất hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài
Gịn,….Tại những đơ thị lớn, trình độ của người lao động cao hơn các vùng
khác trong cả nước.


Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này cịn thơ
sơ, lạc hậu. Là một nước nông nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu
là cày, cuốc, theo hình thức “ con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử dụng
sức người là chủ yếu, trong cơng nghiệp máy móc thiết bị cịn ít và rất lạc
hậu. Phát triển cơng cụ lao động giữa các vùng, miền cũng có sự khác
nhau.
Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt nam thấp kém,
lạc hậu và phát triển không đồng đều.
Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ
sản xuất xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở
hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của
nhân dân lao động.

Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần
kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân
định tách bạch thuần khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa vau trị của chế độ cơng hữu, dẫn
đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa.
Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ sản
xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo
động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nông dân bị
bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở rộng nơng trường qc doanh mà khơng
tính đến lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu. Người lao động khơng
được chú trọng về cả trình độ và thái độn lao động, đáng ra là chủ thể của
sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp. Nước
ta quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó
là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt
lập với đối tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với lực
lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sơng nhân dân đi
xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985( 12/1985, giá bán lẻ hàng hóa
tăng 845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế lâm vào khủng hoảng
trầm trọng.
2. Thời kỳ sau đổi mới (1986)
Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986 đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương
thức quản lý kinh tế và cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Người lao động nước ta đến năm 2005 là 44,3 triệu người, trong đó lao


động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống trường dạy nghề các cấp được
mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh chóng, năm 2007-2008, cả

nước có 1 603 484 nghìn sinh viên.
Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và 275
trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo
lao động cho đất nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân mảng,
tồn tại tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ”.
Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực có tay nghề, chất lượng nhân lực
của Việt Nam cịn thấp so với các nước lân cận.
Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi
trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các
giống cây trồng mới cũng được tìm ra và phổ biến. Trong cơng nghiệp, kỹ
thuật hạt nhân bắt đầu phát triển, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung
so với nhiều quốc gia trên Thế giới thì tư liệu sản xuất nước ta cịn nghèo
nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa thật sự cao và còn phân hóa giữa các
vùng trong cả nước.
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức
kinh doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của
các thành phần kinh tế, các quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ
sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ sản xuất phong kiến được công
nhận.
Như vậy, trong hồn cảnh lực lượng sản xuất khơng ngừng phát triển,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã
bước đầu vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất và được đạt nhiều thành tựu đáng kể. Năm
2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao nhất khu vực
Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì vốn đầu
tư nước ngồi vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 20052010, GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.

III. Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất ở nước ta
Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo
đặc biệt là đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo
nghề, nhằm đẩy mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất
lượng.


Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn
thiện quan hệ sản xuất.
Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất cho khoa học – công
nghệ, tập trung xây dựng một số phịng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như cơng nghệ thơng
tin, cơng nghệ sinh học, hóa dầu….
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời
sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực
KẾT LUẬN

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử nhân
loại. Sau chặng đường hai mươi bảy năm thực hiện Đổi mới vừa qua,
Đảng ta đã không ngừng tìm tịi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố
cấu thành nên quan hệ sản xuất.
Thực tiễn cho thấy con đường chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều
thành tựu quan trọng, vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử nhạy cảm. Về con
đường và cách thức đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều vấn đề

được làm sáng tỏ nhưng cũng có nhiều vấn đề cần phải phát triển thêm.
Có thể nói việc xây dựng và hồn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một vấn đề như
thế. Mặt khác cần đi đôi với việc phát triển cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước và đi tắt đón đầu, chú trọng các ngành nhiều thế mạnh trở thành
ngành côn nghiệp mũi nhọn, phù hợp với sự phát triển nền khoa học công
nghệ nước nhà.
Việc phát triển cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển nền
kinh tế thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng
phát triển. Bởi lẽ nếu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng
sản xuất cần thiết cho sự phát triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước và theo định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp.
Nước ta cần xác lập và hoàn thiện một quan hệ sản xuất tiến bộ và phù
hợp với lực lượng sản xuất hiện nay để đất nước phát triển hơn nữa, mà
trước hết là phát triển kinh tế một cách bền vững.





×