Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

NỘI DUNG TRIẾT TỔNG HỢP, đầy đủ nội dung (có ví dụ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.6 KB, 48 trang )

NỘI DUNG TRIẾT TỔNG HỢP
I. Chế độ tư hữu là gì? Chế đợ tư hữu
tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa?
II. Sự khác nhau giữa ba hình thức
của chủ nghĩa duy vật.
III. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
IV. Quy luật chuyển hóa lượng –
chất.
V. Lực lượng sản xuất là gì? Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở
Việt Nam hiện nay
VI. Bản chất là gì? Mối quan hệ biện
chứng giữa bản chất và hiện tượng?


I. Chế đợ tư hữu là gì? Chế đợ tư
hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ
nghĩa?
Khái niệm chế đợ tư hữu là gì? Chế đợ tư hữu tiếng Anh là gì? Chế đợ
tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa? Vai trò của quyền tư
hữu đối với sự phát triển kinh tế và chính trị?
Để đạt được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay, thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tất cả
đều vì mục đích phục vụ cho lợi ích của con người. Tuy nhiên, khơng phải
chế độ nào cũng vì mục đích chung của con người mà cịn là sự lợi dụng,
tư sản và phân chia xã hội thành nhiều giai cấp, từ đó gây ra nhiều tiêu cực
trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Vậy, chế độ tư hữu là gì? Chế độ tư hữu
tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa? Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp
bạn đọc hiểu hơn về vấn đề nêu trên.


1. Chế đợ tư hữu là gì?
Sự hợp tác lao động, sự cơng bằng và bình đẳng về hưởng thụ trong xã
hội nguyên thủy, một phần là do tình trạng đời sống còn quá thấp kém tạo
nên. Nhưng từ khi có sản phẩm thừa thì tình hình lại diễn ra khác hẳn. Sự
phát triển của nền sản xuất cá thể theo từng gia đình phụ hệ, do khả năng
lao động của các gia đình khác nhau làm cho của cải tích lũy ngày càng
nhiều trong tay một số cá nhân hay gia đình, thường là các gia đình tộc
trưởng, tù trưởng hay các bô lão, thủ lĩnh quân sự.
Mặt khác, những người này lợi dụng chức phận để chiếm một phần sản
phẩm xã hội chi cho các công việc chung. Đồng thời, họ cũng tự cho phép
mình được “lĩnh” một khẩu phần nhiều hơn những người khác. Chẳng bao


lâu họ trở nên giàu hơn mọi người. Dần dần, xã hội thị tộc đã bị phân hóa
thành kẻ giàu người nghèo. Những người giàu có thì hợp thành tầng lớp
quý lộc chiếm hữu nhiều ruộng đất, của cải…, còn những kẻ nghèo khó
gồm đơng đảo các thành viên của thị tộc, bộ lạc thì bị mất dần của cải và tư
liệu sản xuất, cuối cùng họ rơi vào tình trạng bị lệ thuộc tầng lớp trên và bị
tầng lớp này áp bức bóc lột khơng khác gì nơ lệ. Do có lương thực và thực
phẩm dư thừa, người ta không giết tù binh bắt được trong các cuộc xung
đội mà giữ lại nuôi để làm lao động cho thị tộc. Lúc đầu, họ phải làm những
công việc chung cho cả thị tộc, dần dần một số người đã lợi dụng chức
phận và uy tín cá nhân, bắt những người tù binh phục vụ cho riêng mình.
Họ đã bị biến thành nơ lệ trong các gia đình q tộc, quan lại.
Như vậy, chế độ tư hữu được hiểu là việc chiếm hữu riêng của một số bộ
phận giai cấp vì mục đích cá nhân. Trong nền kinh tế, tài sản thường đượ
coi là quyền sở hữu (quyền đối với số tiền thu được từ tài sản) và kiểm
soát tài nguyên hoặc hàng hóa. Nhiều nhà kinh ế cho rằng quyền quyền tài
sản cần phải được cố định và cần phải diễn đạt mối quan hệ giữa các bên
khác để có hiệu quả hơn.


2. Chế độ tư hữu tiếng Anh là gì?
Chế đợ tư hữu tiếng Anh là Private ownership
Những thuật ngữ pháp lý liên quan dịch sang tiếng Anh:
Chế độ tư hữu

Private ownership

Tư liệu

Data

Chủ nghĩa

Tenet


3. Chế độ tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ
nghĩa
Trong kinh tế học và xã hội học, tư liệu sản xuất là các đầu vào như nguyên
liệu, lực lượng lao động, công cụ lao động, vốn nhà nước, tài nguyên thiên
nhiên dùng để sản xuất ra các sản phẩm có giá trị kinh tế.
Trong một xã hội nông nghiệp tư liệu sản xuất là đất đai và cuốc xẻng.
Trong một xã hội công nghiệp, tư liệu sản xuất là hầm mỏ và nhà máy.
Trong một xã hội tri thức, tư liệu sản xuất là máy tính và văn phòng. Theo
một nghĩa rộng, tư liệu sản xuất bao gồm cả tư liệu phân phối như internet,
đường ray xe lửa, và các kho chứa hàng.
Quyền sở hữu của tư liệu sản xuất trong xã hội là một yếu tố quan trọng
trong việc phân loại các hệ thống kinh tế khác nhau. Trong thuật ngữ kinh
tế học cổ điển, tư liệu sản xuất là những “yếu tố sản xuất”, bỏ qua vốn đầu

tư và yếu tố con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, “xóa bỏ chế độ tư hữu” là một vấn đề
lớn. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung vào hai vấn đề: một là, chế độ tư hữu
đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cân phải bị xóa bỏ và hai là, nếu “xóa bỏ
chế độ tư hữu” là cần thiết, là tất yếu thì thời điểm lịch sử của sự kiện đó là
khi nào?
Như vậy, chế độ tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa sẽ được hiểu theo
một số vấn đề sau đây:
Về vấn đề chế độ tư hữu đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cần phải bị xóa
bỏ, câu trả lời có rất rõ trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 của
C.Mác: chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa. Cũng như nói thêm
rằng, sự phát triển của kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc
như Adam, Xmit,…cùng sự phát triển mạnh mẽ và điển hình của chủ nghĩa


tư bản thời kỳ đó là hai điều kiện chín muồi cho những kết luận về chế độ
tư hữu và “xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác.
Trong Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844, C.Mác đã chỉ ra và phân tích rất
rõ chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa như thế nào trên hai
phương diện: một là, sự tha hóa của con người cơng nhân trong sản phẩm
lao động của anh ta; và hai là, sự tha hóa của người cơng nhân “trong bản
thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất”.
Ở phương diện thứ nhất, biểu hiện của sự tha hóa là, sản phẩm do lao
động của người công nhân làm ra khơng nhưng khơng thuộc về anh ta, mà
cịn “đối lập người sản xuất”. Người công nhân sản xuất càng nhiều của
cải, sức mạnh và công nhân càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở
thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị
thì thế giới con người càng mất giá trị. Nói chung, anh ra làm ra càng nhiều
vật phẩm anh ta có thể chiếm hữu được càng ít và anh ta bị chính sản
phẩm do mình làm ra-tư bản-thống trị càng mạnh.

Ở phương diện thứ hai, “sự tha hóa của cơng nhân trong sản phẩm của
anh ta khơng chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ra trở thành một vật phẩm,
có được sự tồn tại bên ngồi, mà cịn có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn
tại.
Như vậy, chế độ tư hữu tư liệu sản xuất đã khiến con người trong tư bản
chủ nghĩa trở nên xa lạ với chính mình. Ở giai đoạn tư bản chủ nghĩa đã
khiến cho giá trị con người bị hạ thấp xuống chỉ bằng máy móc, khiến cho
người cơng nhân “cảm thấy mình chỉ cịn là con vật” trong những chức
năng con người của anh ta, khiến cho “cái vốn có của súc vật trở thành
chức phận của con người, cịn cái có tính người thì biến thành cái vốn có
của súc vật. Cuối cùng, theo một số ý kiến thì chủ nghĩa tư bản khơng xóa
bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà cụ thể là xóa bỏ “chế độ sở hữu tư
sản”-“biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và


chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những
người này bóc lột những người kia.

4. Vai trò của quyền tư hữu đối với sự phát triển
kinh tế và chính trị
Các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith và Karl Marx thường nhận ra
tầm quan trọng của quyền tư hữu trong quá trình phát triển kinh tế và các
nhà kinh tế chính thống hiện đại đồng ý với sự công nhận này. Một lời giải
thích được chấp nhận rộng rãi là các quyền tư hữu nếu được thực thi tốt sẽ
tạo động lực cho các cá nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế, như đầu
tư, đổi mới và trao đổi, dẫn đến một thị trường hiệu quả hơn. Sự phát triển
của quyền tư hữu ở châu Âu trong thời trung cổ là một ví dụ.
Trong thời đại này, tồn bộ quyền lực chính trị rơi vào tay các chế độ quân
chủ cha truyền con nối, những kẻ này lạm dụng quyền lực của họ để bóc
lột các nhà sản xuất, đánh thuế tùy tiện hoặc từ chối trả các món nợ. Việc

thiếu bảo vệ quyền sở hữu đã tạo ra rất ít động lực cho chủ đất và thương
nhân đầu tư vào đất đai, vốn vật chất hoặc nhân lực hoặc công nghệ. Sau
Nội chiến Anh 1642-1646 và Cách mạng Vinh quang năm 1688, sự thay đổi
quyền lực chính trị khỏi vua Stuart đã dẫn đến việc tăng cường quyền sở
hữu của cả chủ sở hữu đất đai và tư bản. Do đó, sự phát triển kinh tế
nhanh chóng đã diễn ra, tạo tiền đề cho Cách mạng Công nghiệp.
Quyền tài sản cũng được cho là giảm chi phí giao dịch bằng cách cung cấp
một giải pháp hiệu quả cho các xung đột về nguồn lực khan hiếm. Thực
tiễn, sử dụng dữ liệu lịch sử của các thuộc địa cũ của châu Âu, Acemoglu,
Johnson và Robinson tìm ra bằng chứng thuyết phục rằng các thể chế kinh
tế tốt – những tổ chức cung cấp quyền tư hữu an tồn và bình đẳng về cơ
hội – mang đến sự thịnh vượng kinh tế.


Quyền tài sản có thể liên quan chặt chẽ đến sự hình thành trật tự chính trị,
do nó bảo vệ quyền lợi kinh tế của một cá nhân. North, Wallis và Weingast
cho rằng quyền tư hữu bắt nguồn để tạo điều tạo tiền đề cho các hoạt động
trục lợi của giới thượng lưu. Đặc biệt, các hệ thống pháp lý và chính trị bảo
vệ các quyền của giới thượng lưu đối với các khoản thu tiền thuê nhà tạo
nên cơ sở của cái gọi là “trật tự truy cập hạn chế”, trong đó những người
khơng thuộc giới tinh hoa bị từ chối tiếp cận quyền lực chính trị và các đặc
quyền kinh tế.
Ví dụ, trong một nghiên cứu lịch sử về nước Anh thời trung cổ, North và
Thomas phát hiện ra rằng sự phát triển mạnh mẽ của luật đất đai của Anh
trong thế kỷ 13 xuất phát từ lợi ích của giới thượng lưu trong việc khai thác
doanh thu tiền thuê đất từ quyền sở hữu đất đai sau khi giá đất tăng đột
ngột vào thế kỷ thứ 12. Ngược lại, “trật tự truy cập mở” ngày nay, bao gồm
một hệ thống chính trị dân chủ và nền kinh tế thị trường tự do, thường bao
hàm các quyền tư hữu rộng rãi, an tồn và cá nhân hóa. Quyền tài sản phổ
quát, cùng với cạnh tranh kinh tế và chính trị khơng chính đáng, coi nhẹ vai

trị của việc trục lợi và thay vào đó ủng hộ những đổi mới và hoạt động sản
xuất trong nền kinh tế hiện đại.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về chế độ tư hữu là gì và
chế độ tư hữu tư liệu sản xuất của tư bản chủ nghĩa. Trường hợp có thắc
mắc xin vui lịng liên hệ để được xử lý cụ thể.

Bản chất là gì? Mối quan hệ biện
chứng giữa bản chất và hiện tượng?
Khái niệm bản chất là gì? Khái niệm hiện tượng là gì? Mối quan hệ
biện chứng giữa bản chất và hiện tượng? Ý nghĩa phương pháp luận?
Bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn?


Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Theo chủ nghĩa
Marc – Lenin thì quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc không hiểu
đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, họ cho rằng, bản
chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người
bịa đặt ra, cịn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những
cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại
thực sự của bản chất nhưng đó khơng phải là của bản thân sự vật mà theo
họ đó chỉ là những thực thể tinh thần. Vậy, bản chất là gì? Ý nghĩa phương
pháp luận, mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng? Điều
này, được làm rõ trong bài viết dưới đây, mời Qúy bạn đọc cùng tham
khảo.

1. Bản chất là gì?
Bản chất là phạm trù triết học chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật đó. Ví dụ, trong xã hội có giai cấp bản chất của nhà

nước là cơng cụ chun chính của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội.
bản chất này được thể hiện ra dưới nhiều hình thức cụ thể khác nhau phụ
thuộc vào tương quan giai cấp trong xã hội. Bản chất gắn bó với cái chung
nhưng không phải cái chung nào cũng là bản chất. chỉ những cái chung
nào quy định sự vận động phát triển của sự vật mới là cái chung bản chất.
ví dụ, người Việt Nam (nhìn chung) có cái chung là màu tóc đen và da
vàng. Nhưng cái chung tóc đen và da vàng không phải là cái chung bản
chất của người Việt Nam. Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng
bậc, tuy nhiên bản chất rộng hơn, phong phú hơn quy luật.
Tóm lại, bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển
của sự vật đó.


Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hịa các mối quan hệ xã hội trong
cuộc sống. Nếu ai đó khơng có bất cứ mối quan hệ xã hội nào, dù nhỏ
nhất, thì người đó chưa phải là con người theo đúng nghĩa.

2. Hiện tượng là gì?
– Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản
chất của sự vật, hiện tượng ra bên ngồi.
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ
là hiện tượng, là vẻ bề ngồi.
Qua đó, bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện
thực khách quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngồi của hiện tượng và
biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy.
Ngược lại, hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của
hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện

tượng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện
tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
3.1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con
người có nhận thức được hay khơng.
Lý do là vì:


+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu
tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau,
trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên
hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn
định lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách
quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngồi để chúng ta
nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
3.2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng cịn có mối liên
hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
3.3. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào
cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện
tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Khơng có bản
chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại,
cũng khơng có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản

chất nhất định.
3.4. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau


Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi
theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy
định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình,
vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt,
tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.

4. Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức đúng sự thật, hiện tượng thì khơng dừng lại ở hiện tượng
bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác
nhau mới nhận thức đúng và đầy đủ bản chất. Theo V.I.Lênin: “Tư tưởng
của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất cấp một… đến bản chất cấp hai…”.
Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là
phải vạch ra được bản chất của sự vật.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa
vào hiện tượng.
– Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có
thể tìm ra bản chất sự vật ở bên trong sự vật ấy chứ khơng phải ở bên
ngồi nó. Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định
chủ quan, tùy tiện.
– Vì bản chất khơng tồn tại dưới dạng thuần túy mà bao giờ cũng bộc lộ ra
bên ngồi thơng qua các hiện tượng tương ứng của mình nên chỉ có thể
tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng.
– Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều
hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.



Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã
cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta khơng
bao giờ có thể xem xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự
vật. Do vậy, ta phải ưu tiên xem xét trước hết các hiện tượng điển hình
trong hồn cảnh điển hình.
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy
đủ bản chất của sự vật. Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của
nó. Q trình đi vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn
trong bản chất của sự vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài, cơng
phu, khơng có điểm dừng.
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết
sức thận trọng.

5. Bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện
chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản
là phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hồn
tồn.
Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra
thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các
sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện
tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.


Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện

y nguyên bản chất.
– Sự khơng hồn tồn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất
và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở
chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và
phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngồi bằng vơ số hiện
tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất,
mà cịn vào hồn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính vì
thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn
hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan.
Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên
như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên
tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào
chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn
thẳng.
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Cịn hiện tượng khơng ổn
định, nó ln ln trơi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ
bởi bản chất của sự vật, mà cịn bởi những điều kiện tồn tại bên ngồi của
nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.


Các điều kiện tồn tại bên ngồi đó và sự tác động qua lại của sự vật này
với sự vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên
biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.

Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là bản chất ln giữ nguyên như cũ từ
lúc ra đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi
rất chậm so với hiện tượng.

iiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii

II. Lý luận về địa tô của C.Mác? Khái niệm và
bản chất của địa tơ? Các hình thức địa tơ tư


bản? Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý
đất đai ở Việt Nam hiện nay?
Công tác quản lý sử dụng đất đai ngày càng được quan tâm chú trọng của
Đảng, nhà nước và các đối tượng sử dụng, đối tượng có nhu cầu sử
dụngđất đai. Việc quản lý và sử dụng đất đai đã có nhiều chuyển biến và
thay đổi theo hướng tích cực, từng bước phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế – xã hội thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Bên cạnh
đó chính sách quản lý và sử dụng đất vẫn còn một số tồn tại cần được giải
quyết. Mới chỉ nghe về đất thì ta tưởng chừng như đây là vấn đề của nơng
nghiệp nhưng thực tế hồn tồn khác đây là một trong những vấn đề quan
trọng trong dự án phát triển kinh tế sau này, thuê đất ở đâu để kinh doanh,
tiền thuê đất như thế nào, hay khi kinh doanh nơng nghiệp thì tiền th đất
là bao nhiêu, nghĩa vụ như thế nào? Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta phải
phân tích những lí luận về địa tơ của Mác, từ đó tìm hiểu xem nhà nước ta
đã vận dụng ra sao và đề ra những quy định, hạn mức gì? Chính vì vậy mà
em chọn đề tài: “Vận dụng lý luận địa tô của C.Mác trong việc quản lý đất
đai ở Việt Nam hiện nay”.

1. Lý luận về địa tô của C.Mác
1.1. Khái niệm và bản chất của địa tô

– Trong chủ nghĩa tư bản, người thực sự canh tác ruộng đất không phải là
chủ tư bản mà là những người lao động làm thuê. Nhà tư bản thuê đất của
địa chủ để kinh doanh, coi nông nghiệp là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh.
Số tiền mà nhà tư bản trả cho người sở hữu ruộng đất theo hợp đồng để
được sử dụng đất trong một thời gian nhất định là địa tô tư bản chủ nghĩa.
– Địa tô tư bản chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ giữa người công nhân làm
thuê, nhà tư bản chủ nghĩa và địa chủ. Khoản địa tô có được do nhà tư bản


bóc lột người cơng nhân làm th để th lợi nhuận bình quân. Do vậy
muốn kéo dài thời gian sử dụng đất để thu lợi nhuân nhiều hơn. Tuy nhiên
chủ đất ln tìm cách khống chế nhà tư bản bằng cách tăng khoản địa tô
hoặc rút ngắn thời gian sử dụng đất.
=> Tóm lại, địa tơ tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau
khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh
ruộng đất
1.2. Các hình thức địa tô tư bản
a. Địa tô chênh lệch
Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế
về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường,
gần đường hơn, hoặc ruộng đất để đầu tư để thâm canh)
Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung – Giá cả sản xuất cá biệt
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của nó
là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa
tô chênh lệch gắn với chế độ độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư
bản chủ nghĩa.
Địa tơ chênh lệch có hai loại địa tô:
+ Địa tô chênh lệch (I): là địa tơ chênh lệch thu được trên những ruộng đất
có độ màu mỡ tự nhiên thuộc loại trung bình và tốt, có vị trí gần thị trường
hoặc gần đường giao thông.

+ Địa tô chênh lệch (II): là địa tô chênh lệch thu được do thâm canh mà có.
Thâm canh là việc đầu tư them tư bản vào một đơn vị diện tích ruộng đất


để nâng cao chất lượng canh tác của đất, nhằm tăng độ màu mỡ trên thửa
ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.
b. Địa tơ tuyệt đối là
Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu. Đây là
loại địa tô thu trên mọi thứ đất. Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dơi
ra ngồi lợi nhuận bình qn, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư
bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
cơng nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nơng phẩm và giá cả sản xuất
chung
Ngồi những loại địa tơ trên thì cịn có các loại địa tơ khác như: địa tô về
cây đặc sản, địa tô về hầm mỏ, địa tô về các bãi cá, địa tô về đất rừng,
thiên nhiên,…

2. Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai
ở Việt Nam hiện nay
Ngày nay, khi đất nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những
lý luận địa tơ đó được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo
trong thực tiễn để xây dựng đất nước giàu mạnh trong thực tiễn để đất
nước trở nên giàu mạnh. Lý luận này đã trở thành cơ sở khoa học để xây
dựng các chính sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên
quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh
tế.
2.1. Vận dụng trong luật đất đai
Đất đai là một tài nguyên quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân

cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh – quốc phòng.


Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống
nhất quản lý. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế hay đơn vị
vũ trang để sử dụng. Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông qua ngân
sách thực hiện một số chính sách phát triển nơng nghiệp, những người
th đất phải đóng thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô tư bản
chủ nghĩa và địa tô phong kiến vì nó tập trung vào ngân sách đem lại lợi ích
cho tồn dân, nó khơng mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa
tô tư bản chủ nghĩa.
Ở mỗi chế độ, đất đai lại thuộc về thuộc về mỗi giai cấp khác nhau như: sở
hữu của thực dân Pháp, của địa chủ và quan lại quý tộc phong kiến,… Và
cuối cùng Mác cũng đã kết luận: “mỗi bước tiến của nông nghiệp tư bản
chủ nghĩa là một bước tiến khơng những trong nghệ thuật bóc lột người lao
động mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt quệ mà sự bóc lột
đó được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có địa tô.
Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và
nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản như: điều 1, điều 4, điều 5,
điều 12, điều 22, điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai
của nhà nước ta hiện nay cũng ban hành những quy định để người dân
phải trả tiền thuê đất (một hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách tự
nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào
mục đích của mình. Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản
tiền thuê đất rất nhỏ so với thu nhập của họ. Còn đối với đất để làm nơng
nghiệp thì người dân phải nộp thuế nhưng họ có thể tự do kinh doanh trên
đất của mình sao cho thu được lợi nhuận cao nhất. Chẳng hạn như có
vùng trồng lúa, có vùng lại trồng đay và có vùng lại trồng cà phê, điều,
bơng,….
2.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp



Thuế nông nghiệp ở đây không phải thể hiện sự bóc lột đối với nơng dân
mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi cơng.
Để khuyến khích sử dụng đất nơng nghiệp có hiệu quả;
thực hiện cơng bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất
nông nghiệp vào ngân sách Nhà nước; căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Luật này quy
định thuế sử dụng đất nông nghiệp, cụ thể ở các điều 1 đến điều 10, điều
19, điều 21, điều 22, điều 23,…
Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hồn cảnh đặc biệt là một
việc khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng
tạo của đảng ta trong việc vận dụng lý luận về địa tơ khi đề ra chính sách
thuế nơng nghiệp, động viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng
cục thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
số 137 TCT/ QD/ NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính sách xã hội
như: hộ gia đình có cơng với cách mạng, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh,
bệnh binh, hộ gia đình có nhiều khó khăn,…(báo pháp luật số 159 ra ngày
29/8/2001)
Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với
giai đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản
lý và điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế
nhưng tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác nhà nước còn
đưa ra một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất
nhiều mà chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông
nghiệp
+ Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ
đất nơng nghiệp sang phi nơng nghiệp thì thuế từ 20% – 40%, nếu đất
nơng nghiệp chuyển sang xây dựng các cơng trình cơng nghiệp từ 40%
sang 60%



+ Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục
đích nơng nghiệp thì khơng phải trả tiền sử dụng đất cho nơng nghiệp, nếu
sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang
hình thức th đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong nước.
2.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một cơng ty thì họ
phải thuê đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương
với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất
rõ việc thuê đất để kinh doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự
vận dụng lý luận địa tô của Mác trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc
nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của
người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng góp.
Trong việc thuê đất để kinh doanh thì người đã thuê đất của nhà nước sẽ
phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình làm ra để
trả cho nhà nước và số tiền đó sẽ vào ngân sách nhà nước. Hiện nay
khơng chỉ có việc th đất trong nơng nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà
nước cịn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước
ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.
=> Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng
như trong một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tơ
vẫn cịn tồn tại nhưng về bản chất thì hồn tồn khác so với địa tơ phong
kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô
của C.Mác trong việc quản lý đất đai vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chẳng
hạn như nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ sau đó quy hoạch
xây dựng nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến
nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thoả đáng cho dân. Nếu
như trong xã hội phong kiến và tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải
nộp tơ cho địa chủ thì ngày nay tơ hay cịn nói các khác là thuế đất, thuế



nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn ngân
sách đó lại được dung vào những công việc nhằm xây dựng đấy nước.
Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa
tô đã từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô
tư bản chất Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính
sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên quan đến đất đai
có hiệu quả hơn. Như vậy ta một lần nữa ta khẳng định rằng lý luận về địa
tô của C.Mác đã được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo
và hợp lý. Tuy nhiên trong q trình thực hiện vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế
và nhà nước đang dần cải thiện để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh

III, Quy luật chuyển hóa lượng – chất


Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại? Quy luật lượng chất trong quá
trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên?

Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ,
con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại
của sự vật hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách là
phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư
duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật, hiện tượng và tính chỉnh
thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều
mang tính khách quan. Con người khơng thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy

luật mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế.
Quy luật “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy
vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển. Việc nhận
thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các
sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này dễ dẫn đến
hiện tượng “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh”. “Tả khuynh” có thể hiểu là tư
tưởng chủ quan nóng vội, muốn sớm có sự thay đổi về lượng nhưng lại
khơng tính đến việc tích lũy về chất. “Hữu khuynh” là tư tưởng bảo thủ, trì
trệ, khơng dám thực hiện “bước nhảy” (sự thay đổi về chất) khi đã có sự
tích lũy đủ về lượng.
Với bài tiểu luận này, chúng tôi mong muốn tiếp cận và làm sáng tỏ phần
nào nội dung và ý nghĩa của quy luật quan trọng này và từ đó rút ra được
những bài học bổ ích trong học tập và cuộc sống.
Bằng việc tiếp cận vấn đề thông qua việc làm sáng tỏ ba ví dụ cụa thể
trong thực tế, chúng tơi mong muốn có thể cung cấp cho người đọc cách
nhìn nhận dễ dàng và chân thực nhất về quy luật này. Với kiến thức triết


học của bản thân còn rất hạn chế nên bài viết khơng thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được sự ghóp ý của thầy cơ và các bạn.

1. Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại.
1.1. Một số khái niệm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống
nhất hữu cơ những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái
khác. Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự

vật về mặt số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng và chất là hai mặt cơ bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản
thân sự vật thì hai mặt này ln tác động qua lại, ở nột mức độ nào đó, làm
cho sự vật phát triển. Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong
sự vật chưa đủ làm thay đổi căn bản chất của sự vật được gọi là độ. Chỉ
trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức đủ để dẫn tới sự
thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ và sự vật phát triển sang một giai đoạn
mới, khác hẳn về chất.
Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều vận động và phát triển khơng ngừng.
Việc tích lũy về lượng cũng chính là một trong những cách vận động của
sự vật. Vì thế, dù nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì việc tích lũy về
lượng của sự vật cũng sẽ đến một giới hạn mà ở đó làm cho chất của sự
vật thay đổi về căn bản. Thời điểm mà ở đó sự thay đổi về lượng đã đủ để
làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút. Chất của sự vật thay đổi do
lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.


1.2. Nội dung quy luật.
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội cũng như
sự phát triển nhận thức trong tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần
về lượng khi vượt qua giới hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi cơ
bản về chất, làm cho sự vật, hiện tượng phát triển cao hơn hoặc thay thế
bằng sự vật , hiện tượng khác. Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt
thống nhất hữu cơ nhưng cũng mang trong mình tính mâu thuẫn vốn có
trong sự vật. Lượng thì thường xun biến đổi cịn chất có xu thế ổn định.
Do đó, lượng phát triển tới một mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu
cầu tất yếu là phải thay đổi chất cũ, mở ra một độ mới cho sự phát triển
của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
sự thay đổi về chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư

duy.
Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về
lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi
về lượng trước đó gây nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi
của lượng mới. Ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô,
mức độ, nhịp điệu phát triển mới. Nội dung của quy luật được phát biểu
như sau: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi
dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chât của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở
lại sự thay đổi của lượng mới. Q trình tác động đó diễn ra liên tục làm
cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay
đổi về chât và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản chủa chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Nội dung của nó khơng chỉ giới hạn trong một hay một
số lĩnh vực cụ thể mà bao trùm lên mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội và tư duy con người.


Trước hết, ta hãy xét ví dụ về sự chuyển hóa thành các dạng tồn tại khác
nhau của nước. Nước (ở đây chỉ xét nước tinh khiết) xét trên phương diện
cấu tạo hóa học là một hợp chất được cấu tạo nên bởi hai nguyên tố là
hiđro và oxi. Nước có cơng thức cấu tạo hóa học là H2O. Ở điều kiện bình
thường nước tồn tại ở dạng lỏng nhưng ở những điều kiện đặc biệt, nước
cịn có thể tồn tại ở những dạng khác như rắn, khí hay plasma. Quy luật
lượng chất thể hiện rõ nhất trong quá trình chuyển hóa giữa những dạng
tồn tại khác nhau của nước. Trước hết, ta hãy xét sơ đồ sau: thể plasma
H2O ở thể khí H2O ở thể lỏng H2O ở thể rắn – 273oC 0oC 100oC 550oC
to Sơ đồ: các trạng thái tồn tại của nước. Ở ví dụ này, trong mối quan hệ
giữa các trạng thái tồn tại của nước ta có thể thấy rằng chất của nước
chính là trạng thái tồn tại (rắn, lỏng, khí hay plasma) cịn lượng chính là

nhiệt độ nước, vận tốc của các phân tử nước.
Có thể nhận thấy rõ rằng, trạng thái của nước ln tương ứng với nhiệt độ
của nó. Khi nhiệt độ của nước ở -273oC thì nước ở thể rắn, nhiệt độ có
tăng thêm tới -270oC, 250oC hay thậm chí lên tới -10C thì nước vẫn ở thể
rắn mà thơi. Cũng trong khoảng nhiệt độ này, vận tốc của các phân tử nước
cũng tăng dần theo nhiệt độ của nước nhưng chưa đủ để tạo nên sự thay
đổi trong trạng thái tồn tại của nước, tức là mặc dù lượng của nước đã thay
đổi nhưng về cơ bản thì chất của nó vẫn được giữ ổn định. Tuy nhiên, Khi
nhiệt độ của nước tăng lên đến 0oC và cao hơn nữa thì trạng thái của
nước bắt đầu có sự thay đổi, chuyển từ thể rắn sang thể lỏng, tức là về cơ
bản, chất của nước đã thay đổi. Quá trình chuyển hóa giữa các dạng của
nước cũng diễn ra tương tự ở những nhiệt độ khác nhau.
Như vậy, có thể thấy rằng, Khoảng nhiệt độ từ -273oC đến 0oC chính là độ
của nước. Đây là khoảng giới hạn mà lượng của nước đựơc tích lũy nhưng
khơng làm thay đổi chất căn bản của nước. Đến 0oC thì sự thay đổi về chất
diễn ra, như vậy, 0oC chính là điểm nút mà ở đó, sự tích lũy về lượng của
nước đã đủ để làm nó có sự thay đổi về chất. Từ 0oC, nước khơng cịn ở
thể rắn nữa mà chuyển hồn tồn sang thể lỏng, vì vậy, đây chính là bước


×