Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.58 KB, 13 trang )

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí và vai trị của văn hố

trong đời sống xã hội - giá trị lý luận và thực tiễn


MỞ ĐẦU
I Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với xu thế hội
nhập và quốc tế ngày càng cao. Bên cạnh những thay đổi về mặt kinh tế nói
chung, xã hội đã đặt ra cho lĩnh vực văn hóa nhiều vấn đề mới. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa học
và cách mạng về bản chất, vai trị của văn hóa; xây dựng một nền văn hóa mới
Việt Nam. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa phương
Đơng và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, trong cốt lõi
là sự kết hợp của chủ nghĩa Mac-Lenin với tinh hoa bản sắc dân tộc Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan
trọng. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Theo Người: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những
cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ
điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa
thế ấy
Những quan điểm của Người về văn hóa là kim chỉ nam để Đảng ta hoạch định
chính sách, sách lược phát triển văn hóa qua các giai đoạn xây dựng đất nước.
=> Đây là vấn đề cần nghiên cứu.
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về vị trí và vai trị của văn hố trong đời sống xã hội, từ đó thấy được giá trị lý
luận và thực tiễn của tư tưởng đó.


Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích đó đề tài tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trị của văn hố
trong đời sống xã hội.
+ Từ những quan điểm đó để rút ra giá trị lý luận và thực tiễn
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về vị trí vai trị của
văn hóa trong đời sống xã hội được thể hiện trong bài nói, bài viết, tác phẩm
của Hồ Chí Minh… Nghiên cứu thơng qua các giáo Tư tưởng Hồ Chí Minh; tài


liệu từ sách, báo, đài, internet; tài liệu, nội dung thu thập được từ thực tế trường
Học Viện Ngân Hàng

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, của tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện, Nghị
quyết của Đảng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các
phương pháp: phương pháp so sánh, phân tích - tổng hợp, lơgíc - lịch sử, khái qt
hố, trừu tượng hố và các phương pháp khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài đã góp phần phân tích, làm rõ hơn quan điểm của Hồ
Chí Minh về vị trí và vai trị của văn hố trong đời sống xã hội, từ đó rút ra giá trị lý
luận và thực tiễn.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi học tập các
môn khoa học Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh

Nội Dung
I. KHÁI NIỆM VĂN HĨA VÀ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ

TRÍ VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. Khái niệm văn hóa và quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới

a Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
- Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào
việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.
- Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua q trình xã hội
hóa.
- Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã
hội của con người.


- Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng
như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
* Định nghĩa văn hóa theo Hồ Chí Minh:
- Văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do lồi người sáng tạo
ra. “Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
- Văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong cơng cuộc kiến thiết
nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau:
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc thượng tầng
(báo Cứu quốc, tháng 8- 1945).
- Văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người được đánh giá bằng
trình độ học vấn phổ thơng, thể hiện ỏ việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người
“phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...

- Đặc biệt, năm 1943 Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hố. Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”. Trong định nghĩa này.
Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu được:
+ Văn hóa là những sáng tạo và phát minh của con người.
+ Nguồn gốc của văn hóa là lẽ sinh tồn của con người.
+ Văn hóa là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn.
+ Cấu trúc của văn hóa: ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn
giáo, văn học - nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,
ở và các phương thức sử dụng.
+ Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).
b) Quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới: Hồ Chí Minh đưa ra Năm điểm
lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.


2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ vai
trị, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo
một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị,

xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát
triển đất nước
1.2. Quan điểm về vị trí vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội

- Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Hồ Chí Minh đã đưa ra quan
điểm này. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã
hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã bội và các vấn đề này có
quan hệ với nhau rất mật thiết. Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả
bốn vấn đề này phải được coi trọng như nhau.
+ Trong quan hệ với chính trị xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có
được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở
đường cho văn hóa phát triển. Để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng
chính trị trước, ở Việt Nam, tiến hành cách mạng chính trị thực chất là tiến hành
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị,
giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển.
+ Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ
tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ đó Người đưa ra luận điểm:
“Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây
dựng và phát triển văn hóa”.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế phải đi trước một bước. Người viết:
"Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa”.
- Hai là, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
+ Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, có nghĩa là văn hóa phải tham gia
thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Quan điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới
ở Việt Nam mà cịn định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, quan điểm “ Văn hóa cũng là một mặt trận”, ''Kháng



chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến"... mà Người đưa ra đã tạo nên một
phong trào văn hóa văn nghệ sơi động chưa từng thấy. Chính điều này đã đem
lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng: cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
II. Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Giá trị lý luận
- Làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin …
Phát triển quan điểm của c. Mác: văn hóa khơng thể đứng ngồi mà
phải ở trong kinh tế và chính trị, Hồ Chí Minh bổ sung thêm: văn hóa cũng
là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Bàn về chức
năng của văn hóa. Người cho rằng: “văn hóa phải soi đường cho quốc dân
đi” (chức năng nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết); "văn hóa phải làm
cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” (chức năng bồi dưỡng tinh
thần vì nước qn mình); "văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ’ (xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người)… Theo
Hồ Chí Minh, văn hố có nhiệm vụ chủ yếu là bồi dưỡng con người có tư tưởng đúng
và tình cảm cao đẹp; nâng cao dân trí, nghĩa là đề cập tới chức năng giáo dục của
văn hoá; bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn
hướng con người tới chân, thiện, mỹ để khơng ngừng hồn thiện bản thân. Hồ Chí
Minh xác định rõ văn hố là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp các mạng. Văn hoá
là một mặt trận, nghệ sĩ là người chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong
đấu tranh cách mạng. Văn hoá phải phục vụ quần chúng nhân dân, đó là quan điểm
xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Hồ Chí Minh rất chú ý đến xây
dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn hoá

- Là nền tảng lý luận, kim chỉ nam cho hành động của Đảng…

Trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa, lối sống và việc xây dựng, phát triển nền văn hóa, lối sống xã hội mới xã

hội chủ nghĩa, Đảng ta đã luôn đặt việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, lối sống
có văn hóa trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là mục tiêu
hàng đầu.
Như vậy, thực chất của sự nghiệp xây dựng lối sống dân tộc, hiện đại ở
nước ta là xác định sự lựa chọn của các cá nhân theo định hướng dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đó là q trình nhân đạo hóa
tồn bộ đời sống xã hội mà mỗi cá nhân sẽ gia tăng tính tự chủ, tự giác, sức


mạnh bên trong hướng tới các q trình hồn thiện của xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Trong bối cảnh mới, việc xây dựng lối sống mới, văn hóa địi hỏi mỗi
người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng phải quán triệt sâu sắc tư tưởng lối sống Hồ
Chí Minh, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn đa dạng, phong phú. Sự phát
triển đất nước trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang đòi hỏi chúng ta phải xây dựng nhiều cái mới, trong đó có nền đạo đức
mới, lối sống mới và con người mới. Để có được sự phát triển đồng bộ, đáp ứng
được yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, việc triển khai tuyên truyền sâu
rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng văn
hóa lối sống trong toàn Đảng, toàn xã hội là việc làm lâu dài và cấp thiết.

2.2. Giá trị thực tiễn
- Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trị của văn hóa trong đời sống xã
hội góp phần đem lại thắng lợi trong công cuộc xây dựng đất nước..

Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về văn hóa như vậy, cơng cuộc đổi mới
văn hóa trên thực tiễn đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan
trọng đóng góp vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước.
+ Nhận thức về vai trị của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
xã hội đã được nâng lên. Nhân tố văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội đã

được coi trọng. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã
có tác động sâu rộng và góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân.
Bước đầu khai thác văn hóa như nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế xã
hội, giảm bớt những tiêu cực và tệ nạn xã hội do mặt trái của cơ chế thị
trường tạo nên.
+ Giá trị di sản văn hóa dân tộc được coi trọng. Nhiều di sản văn hóa Việt
Nam đã được UNESCO tơn vinh là di sản văn hóa đại diện của nhân loại.
Cơng tác sưu tầm, bảo quản, tôn tạo, tu bổ và phát huy giá trị di sản văn hóa


của dân tộc đã đạt nhiều thành tựu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo
văn hóa đa dạng của nhân dân.
+ Tính tích cực, chủ động trong sáng tạo, bảo quản, truyền bá và thưởng thức
các giá trị văn hóa, nghệ thuật của nhân dân đã được nâng cao. Lĩnh vực văn
học - nghệ thuật; thông tin đại chúng đã có bước tiến đáng kể trong việc đáp
ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Chính sách xã hội hóa các hoạt động
văn hóa có tác động tích cực trong việc huy động các nguồn lực đầu tư cho
phát triển văn hóa.
Bốn là, giáo dục - đào tạo, khoa học - cơng nghệ đã có bước phát triển đáng
kể. Trình độ học vấn, kỹ thuật cơng nghệ của nhân dân, nhất là giới trẻ đã
được nâng lên góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
+ Công tác nghiên cứu lý luận về văn hóa và phát triển đã được coi trọng.
Nhiều chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước và cấp bộ
về văn hóa, con người và nguồn nhân lực được Nhà nước quan tâm đầu tư.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa, văn học - nghệ
thuật được chú trọng.
+ Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở
rộng, từng bước phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn định, bền vững, góp

phần giới thiệu, quảng bá, tơn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Các hoạt động văn hóa đối ngoại và thơng tin đối ngoại có
bước phát triển mới, nhất là các chương trình phát thanh và truyền hình Việt
+ Quá trình xây dựng và hồn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tạo hành lang pháp lý cũng như
tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các hoạt động văn hóa của cộng đồng. Nhà


nước đã sửa đổi và ban hành mới các luật và pháp lệnh để điều chỉnh các
hoạt động văn hóa như Luật Báo chí, Luật Di sản văn hóa dân tộc, Luật
Quảng cáo, Luật Xuất bản…
+ Đổi mới trong công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa. Có thể nói trong
những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã bám sát vào thực tiễn
đổi mới của đất nước, kịp thời đề ra những chủ trương, những giải pháp đúng
đắn để giải phóng sức sáng tạo của nhân dân, tạo điều kiện và cơ hội thuận
lợi cho nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân
tộc. Những quan điểm mới, nhận thức mới của Đảng đã được Nhà nước thể
chế hóa kịp thời, trở thành động lực thúc đẩy văn hóa phát triển.
Có thể nói những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa gần 30
năm đổi mới vừa qua đã được khẳng định và rất đáng tự hào. Tuy nhiên,
chúng ta cũng phải nhận thức rõ rằng sự phát triển về văn hóa trong gần 30
năm đổi mới vừa qua chưa tương xứng với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề
ra, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực vốn có của dân tộc. Chất
lượng hoạt động văn hóa cịn hạn chế. Tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối
sống trong xã hội diễn ra phức tạp. Công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa cịn
chậm đổi mới. Các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa cịn hạn chế. Văn
hóa chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh để phát triển bền vững đất
nước. Vì vậy, đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn

dân ta quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy những thành tựu,
khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc
đổi mới, phấn đấu xây dựng thành cơng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực sự là sức mạnh nội
sinh để phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế


- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí vai trị của văn hóa vào xây dựng
đất nước hiện nay trong bối cảnh mới hiện nay.

Sau hai mươi năm đổi mới và hội nhập, văn hoá Việt Nam đã có những
biến đổi sâu sắc theo hướng nâng cao, trở nên phong phú hơn, cởi mở hơn. Đó
là kết quả đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước. Điều này rất phù hợp với
xu thế chung của thế giới ngày nay là giao lưu và hội nhập. Làm được như vậy
trước hết là vì chúng ta đã đổi mới tư duy. Trong đời sống văn hoá, đổi mới tư
duy được thể hiện trên tất cả các mặt.
- Đổi mới văn hố về khía cạnh chính trị - pháp lý
Trong đời sống văn hoá, đổi mới tư duy được thể hiện quan trọng nhất là ở khía
cạnh chính trị - pháp lý. Vì thế, nói đến đổi mới trong đời sống văn hố trước
hết là nói tới đổi mới về đường lối, chủ trương, chính sách. Kể từ thời mở cửa,
chúng ta phải ghi nhận một cột mốc quan trọng về mặt đổi mới đường lối văn
hoá Việt Nam. Đó là việc Ban chấp hành Trung ương Đảng khố VIII ra Nghị
quyết Trung ương 5 “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, ban hành 16 - 7 - 1998. từ ngày đổi mới đến nay, đời
sống văn hoá của người dân Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới, trở
nên đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Một điều đổi mới quan trọng trong tư
duy là Đảng đã cơng nhận khía cạnh quyền lợi cá nhân trong quyền tự do văn
hoá.
-Tiếp thu các giá trị văn hoá của thế giới để làm giàu cho văn hố Việt Nam

Nhờ chính sách mở cửa, ngày nay người dân Việt Nam đã được tiếp xúc với
nhiều loại hình nghệ thuật mới. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã vạch rõ:
Bảo vệ bản sắc dân tộc khơng có nghĩa là đóng cửa khép kín, tách biệt với bên
ngồi. Mà “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế,
tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác” .
Đại hội X của Đảng cũng chỉ rõ: phải “kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của lồi người, tăng sức đề kháng chống văn
hố đồi truỵ độc hại.” Từ đó, mọi loại hình văn hố của các dân tộc đều được
chúng ta mở cửa đón nhận. Truyền hình và mạng internet là những cơng cụ đắc
lực phổ biến phim nước ngoài, đặc biệt là phim phương Tây. Ở đây nữa, tự do
văn hoá được thể hiện rõ ràng. Âm nhạc hiện đại thế giới cũng thâm nhập vào
Việt Nam một cách ồ ạt chẳng kém gì phim ảnh. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX,
nhạc rock, pop, hip - hop (trong nhạc hip - hop thì thịnh hành nhất là nhạc rap)
của nước ngoài được giới trẻ tự do tiếp nhận, được giới thiệu hàng ngày trên
sóng phát thanh và truyền hình, được biểu diễn tại các kỳ liên hoan âm nhạc,các
cuộc thi, các sàn diễn, phịng trà...Các hoạt động thể thao cũng nhanh chóng hội


nhập với thế giới. Chúng ta bắt đầu tham gia các kỳ đại hội thể thao khu vực và
thế giới. Các cúp quốc tế bóng đá, bóng chuyền, taekwondo, v.v... liên tục được
tổ chức tại Việt Nam. Đặc biệt là chúng ta đã tổ chức thành công rực rỡ một kỳ
Thể thao Đông Nam Á: Sea Games 22 năm 2003, với việc lần đầu tiên Việt
Nam đứng thứ nhất toàn đoàn. Đây là những thành tựu rất mới mà chỉ có đổi
mới và hội nhập mới tạo ra được. Văn học - nghệ thuật Việt Nam, cả sáng tác
lẫn lý luận - phê bình, đã thốt ra khỏi những quy định giáo điều để hội nhập
với thế giới. Các phương pháp sáng tác và phương pháp nghiên cứu mới đã
được tiếp thu. Bộ mặt văn học - nghệ thuật Việt Nam trở nên phong phú hơn, đa
dạng hơn.
Các hiện tượng khác của văn hố nước ngồi cũng rất dễ dàng được Việt Nam
đón nhận trong thời kỳ mở cửa này, ví dụ những lễ hội nước ngồi như lễ

Valentin, lễ Noel, lễ Phục sinh,... Đây là những lễ hội đang được cơng chúng
hân hoan tiếp nhận. Ở đây có vai trị của q trình tồn cầu hố kinh tế như là
vật truyền dẫn để phổ biến những hiện tượng văn hố phương Tây. Vì thế chúng
ta hiểu tại sao trong thời đại hội nhập này, những hiện tượng văn hoá phương
Tây lại có sức lan toả mạnh hơn so với các hiện tượng văn hố phương Đơng.
-Biến đổi trong quan niệm sống và trong lối sống của con người Việt Nam
Sự biến đổi trong quan niệm sống của người Việt Nam ngày nay được thể hiện
trước hết ở sự biến đổi trong mục đích sống. Trước đây người dân nước ta được
khuyên là phải sống vì cộng đồng, sống cho cái ta. Khi cần thiết phải biết hy
sinh cái tôi cho cái tập thể. Nhưng ngày nay người ta bắt đầu được sống cho cái
tơi, thậm chí trong một số trường hợp người ta cịn sống cho cái tơi nhiều hơn là
cho cái ta.
- Phục hồi và phát huy các giá trị văn hố truyền thống
Nói đến đổi mới, người ta thường thấy nó thể hiện rõ nhất ở khía cạnh tiếp thu
cái mới bên ngoài. Nhưng trên thực tế, đổi mới trong việc kế thừa các giá trị
truyền thống ln có một ý nghĩa quan trọng cho việc xây dựng một nền văn
hoá mới. Bởi lẽ, xây dựng một cơng trình mới sẽ ít tốn kém hơn nhiều nếu nó
được dựa trên những cơ sở có sẵn. Đảng đã khẳng định: “Di sản văn hố là tài
sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để
sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hố” . Vì thế, phát huy các giá trị văn
hố truyền thống ln là nhiệm vụ hàng đầu của toàn xã hội.
-Đổi mới trong tự do sáng tác và những giới hạn của nó
Về thực chất, tự do diễn đạt chính là một trong những quyền cơ bản quan trọng
nhất của con người. Và vì tự do sáng tác cũng nằm trong quyền tự do diễn đạt,


cho nên tự do sáng tác cũng là một trong những quyền quan trọng nhất của con
người.
Quyền tự do này đã được Đảng đặt thành đường lối ngay từ những ngày
đầu đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII 1998 đã tun bố “Khuyến

khích tìm tịi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác” , và cũng
từ đó cho đến Nghị quyết 23 - NQ/TW gần đây nhất, Đảng không hề nhắc đến
phương pháp hiện thực XHCN nữa, mà chỉ kiên trì nhắc lại: “Tiếp tục đổi mới,
tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ
thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể
nghiệm,...”. Trọng tâm nhấn mạnh của Đảng là “Văn học, nghệ thuật Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế
phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ”.
Như thế, bằng việc khẳng định quyền tự do sáng tác, Đảng đã đi đúng
hướng trong việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người cho xã hội nước ta. Có
thể nói, trong lịch sử văn hoá Việt Nam, chúng ta chưa bao giờ có được tự do
sáng tác như bây giờ.

3.Biện pháp nâng cao đời sống văn hóa nhân dân ta.
- Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, quán triệt và vận dụng có
hiệu quả Nghị quyết số 33 -NQ/TW của Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".
- Hai là, tổ chức thực hiện tốt phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa", trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa; thơn, bản, tổ dân phố văn
hóa; cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, tạo nên sự phát triển cả
về bề rộng lẫn chiều sâu của phong trào này ở cơ sở; thực hiện tốt Chương trình
mục tiêu quốc gia về văn hóa, gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nơng thơn mới.
- Ba là, tiếp tục đầu tư xây dựng và hồn thiện các thiết chế văn hóa thơng tin ở
cơ sở; khai thác và phát huy có hiệu quả các thiết chế văn hóa để phục vụ nhu
cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng dân cư.
- Bốn là, quan tâm, chú trọng công tác đào tạo, tập huấn và xây dựng đội ngũ
cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, nhiệt tình, tâm huyết, đáp ứng nhu cầu cơng

việc.
- Năm là, tăng cường vai trò tự quản của cộng đồng dân cư; phát huy vai trò của
các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước, hỗ trợ phát triển văn hóa,


khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia vào xây dựng và phát triển văn hóa cơ
sở. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp
hướng về cơ sở, nâng cao chất lượng phong trào quần chúng hoạt động văn hóa,
nghệ thuật.
- Sáu là, nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy
vai trị của Mặt trận Tổ quốc ở các cấp trong việc phối hợp lãnh đạo, tổ chức,
vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, biểu dương, khen
thưởng kịp thời những tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến, khắc phục những
mặt yếu kém trong các hoạt động và phong trào liên quan đến công tác xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa đã dựa trên sự nhận thức về tầm quan
trọng của văn hóa trong công cuộc dựng nước và giữ nước để đưa ra những định
hướng đúng đắn về các hoạt động giáo dục, văn nghệ, cũng như đời sống con
người.
Giữa mọi xu thế hội nhập như ngày nay, khi mà các nền văn hóa của nhiều nước
đang có xu hướng hịa trộn vào nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa của
nhiều nước đã khẳng định sự cần thiết của mình trong việc lưu giữ các giá trị
văn hóa nước nhà cũng như tiếp thu cái tốt đẹp của nền văn hóa khác “ hịa lẫn
chứ khơng hào tan”.
Trong xu thế đối thoại giữa các nền văn hóa trên thế giới hiện nay ta nhận thấy
rằng:” Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa sẽ mãi là ánh sáng soi đường cho dân
tộc ta trong quá trình xây dựng “ nền tảng tinh thần của xã hội”.




×