BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
-----***------
TIỂU LUẬN
KINH TẾ PHÁT TRIỂN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
ĐỀ TÀI: HÃY PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KHU VỰC
KINH TẾ TƯ NHÂN CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2010-2018
VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ THÚC ĐẨY HIỆN ĐẠI HÓA
NỀN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KHU VỰC TƯ NHÂN ĐẾN NĂM
2035
Họ và tên học viên
:
Mã số học viên
:
Lớp
:
Giảng viên giảng dạy :
Hà Nội-2021
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KÝ HIỆU
DN
XNCN
KTTN
KTNNN
NSNN
DNNN
DỊCH NGHĨA
Doanh nghiệp
Xã hội chủ nghĩa
Kinh tế tư nhân
Kinh tế ngoài nhà nước
Ngân sách nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước
MỞ ĐẦU
Sau nhiều năm đổi mới nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng và phát
triển luôn ở mức cao. Đảng ta đã chủ trương phát triern kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển,
cùng tham gia vào quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. So với các thành phần kinh tế khác thì thành
phần kinh tế tư nhân xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu, để có thể phát triển hiệu
quả và mạnh mẽ hơn nữa chúng ta cần có những chính sách biện pháp thật đồng
bộ nhắm phát huy hết sức mạnh của thành phần kinh tế này. Những thành tựu
của khu vực kinh tế trong thời gian vừa qua là không thể phủ nhận hiệu quả và
lợi ích mà nó mang lại, nó đóng góp vào tăng trưởng quốc gia, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tạo ra nhiều việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo. Vì vậy
việc nghiên cứu, lí giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn của kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là
một đòi hỏi cần thiết và khách quan.
4
I.Kinh tế tư nhân
1.1.Khái niệm
Khái niệm kinh tế tư nhân hiện nay vẫn còn rất nhiều các quan điểm trái
chiều được đưa ra và chưa đi tới một sự thống nhất cụ thể nào. Tuy nhiên, xét về
mặt kinh tế học thì kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế thuộc cơ cấu kinh tế của
một quốc gia, được hình thành và phát triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về tư
liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân.
Đối tượng sở hữu kinh tế tư nhân đó là các cá thể hoặc một nhóm người
thuộc về tư nhân đứng lên. Khái niệm này được đưa ra nhằm phân biệt với kinh
tế nhà nước, do nhà nước làm chủ và thuộc quyền quản lý của nhà nước.
Kinh tế tư nhân bao gồm:
- Kinh tế cá thể tiểu chủ
- Kinh tế tư bản tư nhân
Dù hoạt động dưới hình thức nào thì kinh tế tư nhân cũng kinh doanh dưới
hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân và phần
lớn hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
Nhắc tới kinh tế tư nhân, chúng ta có thể xét về 2 khía cạnh dưới đây:
- Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh: kinh tế tư nhân bao gồm các hộ gia
đình, các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các quá trình, hoạt động sản xuất
kinh doanh ở các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, nông lâm thủy
sản, thương mại, dịch vụ, kinh tế xây dựng,…
- Về mơ hình tổ chức: kinh tế tư nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và
các doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới các loại hình tư nhân, trách nhiệm
hữu hạn (TNHH), cổ phần, hợp danh,…
1.2.Vai trò của kinh tế tư nhân
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vị trí, vai
trị của kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Nhờ vậy, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những
nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Trải qua hơn 30 năm đổi
mới, kinh tế tư nhân đã không chỉ dần được phục hồi mà cịn có những bước
5
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là sau Đại hội X (năm 2006),
khi kinh tế tư nhân được xác định chính thức là thành phần kinh tế được khuyến
khích phát triển, khơng hạn chế về quy mơ. Kinh tế tư nhân đã có những đóng
góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam hiện có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có gần 500
nghìn doanh nghiệp tư nhân. Trong số này có tới hơn 96% là doanh nghiệp nhỏ
và vừa, 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp tư
nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) mỗi năm
Kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế là bởi những
lý do cơ bản sau.
-Một là, vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế ngày càng quan
trọng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh
tế tư nhân là nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP
cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng
loạt những vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển
nguồn nhân lực,… Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm
tỉ trọng 40-43% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động, góp phần quan
trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà
nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
-Hai là, đóng góp vào nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh
tế tư nhân cao, nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá được xuất phát từ những
doanh nghiệp tư nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân
cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu
vực nhà nước. Vai trò của kinh tế tư nhân càng trở nên quan trọng hơn khi mà
khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên
43%GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài FDI là 18% GDP). Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh, đạt
6
hơn 110.000 doanh nghiệp mới (năm 2016). Thương hiệu của khu vực tư nhân
đã không chỉ được ghi nhận ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực
và quốc tế. Đã xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mơ lớn cả về
vốn và công nghệ cao.
-Ba là, chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước đang hướng tới việc tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn. Chính phủ cam kết
sẽ cải thiện mơi trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh bạch, an tồn và
thân thiện, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển thuận lợi.
Bên cạnh đó, khu vực tư nhân cũng luôn đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh
để đứng vững trên thị trường và hoạt động theo cơ chế thị trường.
-Bốn là, trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả với
những dự án lớn đang bị thua lỗ thì vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng
được đánh giá tích cực hơn. Đầu tư tài chính của nhiều doanh nghiệp nhà nước
đạt hiệu quả thấp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, gây ra những hậu quả
kinh tế lớn. Một số doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện được vai trò là lực
lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền
kinh tế.
1.3.Sự khác biệt của kinh tế tư nhân với các khu vực kinh tế khác
Có 3 khu vực kinh tế chính, đó là:
- Khu vực kinh tế tư nhân
- Khu vực kinh tế nhà nước
- Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
Vậy, 3 khu vực này có gì khác nhau? Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực
do tư nhân làm chủ và sở hữu, làm việc và thực hiện theo hiến pháp và pháp
luật. Còn khu vực kinh tế nhà nước là do nhà nước làm chủ. Khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi là các doanh nghiệp ngoại quốc, cơng ty FDI sẽ mang
vốn của họ tới đất nước sở tại sản xuất và hoạt động kinh doanh.
7
II. Thực trạng tình hình kinh tế khu vực tư nhân tại Việt Nam giai
đoạn 2010-2018
2.1.Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010-2018
Nền kinh tế Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) vào tháng 12/2006, ngay sau đó Việt Nam bị ảnh hưởng từ
cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 – 2009 khiến nền kinh tế có
nhiều lúc thăng trầm.
Đến năm 2017 - 2018, nhiều chuyên gia kinh tế dự báo tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam có thể rơi vào chu kỳ 10 năm. Tuy nhiên, kết thúc năm
2018, GDP của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng, vượt kế hoạch đề ra
đầu năm là 6,7% và đạt mức 7,08%.
Nhờ đâu nền kinh tế Việt Nam có được mức tăng trưởng ấn tượng và có thể
vượt qua những cơn sóng gió tiếp theo hay khơng? BizLIVE điểm lại những chỉ
tiêu chính về tăng trưởng GDP giai đoạn 2008 – 2018.
-Tăng trưởng GDP và tín dụng đã hài hoà hơn
Giai đoạn năm 2008 – 2018, nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá
cao so với nhiều nước trên thế giới, đạt mức bình quân 6,1%, nhưng tăng thấp
hơn so với giai đoạn 1986-2006 trước đó, GDP bình quân tăng 6,8%.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn cịn nhờ nhiều vào tín dụng ngân hàng
nhưng giảm dần phụ thuộc. Nếu những năm 2008 – 2010, mức bơm tín dụng
của ngân hàng vào nền kinh tế ln trên 30% (năm 2009 là 37,7%) nhưng GDP
tăng trưởng chưa tương xứng, chỉ ở mức 5,66 - 6,42%. Từ năm 2013 trở đi, mức
"bơm" tín dụng đã chậm lại nhưng vẫn ở hai con số 13-18%, tăng trưởng GDP
cũng tăng mạnh mẽ trở lại luôn trên mức 6,2% (trừ năm 2014 là 5,98%), đạt cao
nhất trong 10 năm qua ở mức 7,08% cho năm 2018.
Tín dụng hỗ trợ tăng trưởng GDP nhưng cũng làm lạm phát tăng cao. Chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) rất cao 22,97% năm 2008, giảm dần nhưng tăng trở lại
mức hai con số 18,58% vào năm 2011 do tín dụng vẫn tăng mạnh năm 2009
(37,7%) và năm 2010 (27,6%).
8
Mức "bơm" tín dụng giảm mạnh từ năm 2011 cịn 10,9% và 8,85% năm
2012 khiến lạm phát những năm sau đó lao dốc và về mức rất thấp 0,63% năm
2015 khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại giảm phát xuất hiện. Tuy nhiên,
điều này đã không xảy ra khi lạm phát được kiểm soát dưới 4% cho đến năm
2018 nhờ tiền được "bơm" ở mức 14-18%.
Sau giai đoạn mấp mơ giữa tăng trưởng tín dụng, tăng lạm phát và tăng
GDP, các yếu tố này đã tăng trưởng hài hoà trở lại từ năm 2016 – 2018 với mức
GDP luôn tăng trên 6% và lạm phát dưới 4%.
-Quy mơ tín dụng luôn cao hơn GDP
Với việc bơm vốn nhiều vào nền kinh tế đã giúp GDP tăng trưởng, nhưng
cũng khiến cho quy mơ tín dụng ln cao hơn quy mơ GDP. Tỷ lệ tín dụng trên
GDP ở mức 125% đạt được vào năm 2010 với quy mô GDP là 116 tỷ USD,
năm 2011 là 124% với quy mô GDP là 135,5 tỷ USD.
Đặc biệt, năm 2017 và 2018 quy mô tín dụng đã lên đến 130% - 134%
GDP, tương ứng với quy mô GDP ở mức 223,9 tỷ USD và 240 tỷ USD.
Ngoài ra, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên GDP cũng khá cao, mức trên
40% cho những năm 2008 – 2010. Từ năm 2011 đến 2018, tỷ lệ này đã giảm về
mức 30%, thấp nhất là năm 2013 chỉ ở mức 30,4% GDP (tương ứng 1,091 triệu
tỷ đồng) và năm 2014 là 31% GDP (tương ứng 1,22 triệu tỷ đồng).
Từ năm 2016 – 2018, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội trong khoảng 33% GDP,
tương ứng với mức 1,5 – 1,8 triệu tỷ đồng.
Quy mô GDP của Việt Nam năm 2018 khoảng 240 tỷ USD, gấp 2,4 lần quy
mô GDP năm 2008 là 99,13 tỷ USD.
-Dân số mỗi năm tăng thêm gần 01 triệu người
Trong khoảng 10 năm qua, dân số Việt Nam cũng tăng thêm 9,55 triệu
người, tính bình qn mỗi năm tăng thêm gần 01 triệu người từ mức 85,12 triệu
dân năm 2008 tăng lên 94,67 triệu dân năm 2018.
Song song đó, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng 3,3 lần từ mức 17,3
triệu đồng/người/năm của năm 2008 và đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu
nhập trung bình thấp, đến năm 2018 mức thu nhập bình quân tăng lên mức 58,5
9
triệu đồng/người/năm. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng Việt Nam cần nhiều
nỗ lực để thoát “bẫy thu nhập trung bình”.
Dù thu nhập bình quân đầu người tăng lên, nhưng tỷ giá USD/VND cũng
đã tăng trên 30% trong 10 năm qua từ mức 17.000 - 18.000 USD/VND cuối năm
2008 đầu năm 2009 lên mức 23.200 USD/VND cuối năm 2018, tức VND đã mất
giá trên 30% so với USD.
-Năng suất lao động có cải thiện nhưng cịn thấp
Trong giai đoạn 2008 - 2018, Việt Nam đã nỗ lực giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Nếu như năm 2008, tỷ lệ này tới 4,65% thì những năm tiếp theo về mức quanh
2% - 2,4%.
Năng suất lao động của người dân Việt 10 năm qua đã liên tục tăng tịnh
tiến. Nếu như năm 2008, năng suất lao động trung bình của người dân Việt chỉ ở
mức 35 triệu đồng/người, đến năm 2018 đã tăng lên 102 triệu đồng/người, gấp 3
lần.
2.2.Tình hình phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam giai đoạn 2010-2018
“Kinh tế tư nhân đã trở thành “chân kiềng” vững chắc của nền kinh tế Việt
Nam”, phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân 2019, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: Khu vực kinh tế tư nhân trong nước đang tạo ra
khoảng 40% GDP, 30% ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao
động cả nước. Những thay đổi về thể chế, chính sách đã tạo nên những thành
tựu trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam.
Sau hơn 30 năm đổi mới, từ vị trí khơng được thừa nhận, bị hạn chế phát
triển, kinh tế tư nhân (KTTN) ở Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể, với
việc từng bước được “cởi trói” và dần trở thành một thành phần khơng thể thiếu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Dấu mốc quan trọng đầu tiên đối với khu vực tư nhân đó là Nghị quyết số
14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương (khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều
kiện phát triển KTTN”. KTTN đã chính thức được khuyến khích phát triển với
nhiều giải pháp quan trọng. Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng tiếp tục khẳng
10
định và nhấn mạnh vai trò của khu vực KTTN. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày
3/6/2017 về “Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN”. Những thay đổi về thể chế, chính sách đã tạo
nên nhiều thành tựu trong sự phát triển của khu vực KTTN, gồm:
Thứ nhất, về số lượng doanh nghiệp (DN) và lao động
Tính đến cuối năm 2018, số lượng các cơ sở kinh doanh trong khu vực
KTTN (gồm các doanh nghiệp của tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể) khoảng 6
triệu đơn vị, khoảng 700 nghìn DN. Trung bình, trong giai đoạn 2011- 2018, mỗi
năm số cơ sở kinh doanh tăng 3,4%. Xét riêng khu vực DN, tỷ trọng số lượng
DN ngoài nhà nước (tư nhân) chiếm khoảng 96-97% trong tổng số DN trong
giai đoạn 2010- 2018 và tỷ trọng này dự báo vẫn được duy trì trong năm 2019
và 2020. Trong khi đó, số lượng hộ kinh doanh cá thể tăng từ hơn 4,12 triệu năm
2010 lên trên 5,14 triệu năm 2018, trung bình tăng 3,25%/năm trong cả giai
đoạn.
Số DN trung bình trên 1.000 người dân liên tục tăng lên trong giai đoạn
2010-2018, từ 3,2 DN (2010) lên mức 7,6 DN/1.000 dân (2018). Tốc độ tăng
bình quân đạt trên 11,5%/năm trong cả giai đoạn 2011-2018.
Số lượng DN thành lập mới liên tục tăng trong giai đoạn 2011-2018, trung
bình đạt gần 6,5%/năm, trong đó mức tăng trong giai đoạn 2011-2015 là 3,3%
và giai đoạn 2016-2018 là 11,6%. Trong giai đoạn 2016-2018 cho thấy, số lượng
DN thành lập mới đã vượt mức 100 nghìn DN/năm. Bên cạnh đó, số lượng DN
ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động trong giai đoạn 2013- 2018 trung bình
đạt 30,6%/năm (24,3% trong giai đoạn 2013-2015 và 36,8% trong giai đoạn
2016-2018). Trong khi đó, tỷ lệ số lượng DN ngừng hoạt động, giải thể trung
bình hàng năm khoảng 74,2% tổng số DN đăng ký mới trong giai đoạn 20112018 (trong đó giai đoạn 2011- 2015 ở mức 80,2% và giai đoạn 2016-2018 ở
mức 64,3%).
Chia theo ngành nghề, thống kê cho thấy, số lượng DN trong ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng từ 66% đến trên 70,6% trong giai đoạn 2010- 2016. Theo dự báo,
11
tỷ trọng số lượng DN trong ngành dịch vụ tiếp tục tăng và chiếm tỷ lệ trên 71%
vào năm 2019 và gần 72% năm 2020. Trong khi đó, tỷ lệ hộ kinh doanh trong
lĩnh vực thương mại, dịch vụ chiếm trên 80%.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước (KTNNN) năm 2018 khoảng 45,19 triệu
người, chiếm 83,3% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền
kinh tế (khoảng 54,25 triệu người). Tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực
KTNNN trong tổng số lao động trên 15 tuổi làm việc trong nền kinh tế, giai
đoạn 2010- 2018 dao động từ 83,3- 86,3%. Tính riêng khu vực kinh doanh (gồm
các DN và hộ kinh doanh), năm 2017 tổng số lao động làm việc trong khu vực
này khoảng 23,2 triệu người (gồm 14,5 triệu người trong các DN và hơn 8,7
triệu người trong khu vực hộ kinh doanh).
Thứ hai, đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân
- Đóng góp vào GDP: Trong giai đoạn 2010-2018, đóng góp vào GDP của
khu vực KTNNN (bao gồm KTTN và kinh tế tập thể) chiếm tỷ trọng lớn nhất,
khoảng 43%, trong đó khu vực KTTN chiếm tỷ trọng từ 38% - 40,6%. Khu vực
kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong cùng giai đoạn
chiếm tỷ trọng tương ứng lần lượt là từ 27,7% - 29,4% và từ 15,15% - 20,3%.
Xét ở khía cạnh đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng
của khu vực KTNNN trong GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh
tế trong giai đoạn 2010- 2012. Tuy nhiên, tốc độ này thấp hơn mức tăng trưởng
chung trong giai đoạn 2013- 2017.
- Đóng góp cho NSNN: Khu vực KTNNN chiếm tỷ trọng ngày càng tăng
trong giai đoạn từ 2010-2017, từ 28,3% (2010) lên 33,2% (2016). Khu vực DN
có vốn đầu tư nước ngồi đóng góp ngày càng cao trong cơ cấu thu ngân sách
nhà nước (NSNN), từ 26,3% (2010) lên 34,4% (2016) và hiện là khu vực có tỷ
trọng đóng góp cao nhất. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp vào NSNN của khu
vực kinh tế nhà nước đã giảm khá nhanh, từ 45,4% (2010) xuống chỉ còn 32,3%
và là khu vực có tỷ trọng thấp nhất.
12
Đầu tư của khu vực KTNNN trong tổng đầu tư tồn xã hội: Đã vươn lên vị
trí số 1 kể từ năm 2015, chiếm tỷ trọng 38,7% và đạt mức trên 43% năm 2018.
Ngược lại, tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm
mạnh, từ 47,1% (2005) xuống 38% (2015) và còn 33,3% (2018). Khu vực có
vốn đầu tư nước ngồi chiếm tỷ trọng khoảng 21,6% - 25% trong giai đoạn 2010
-2018. Nếu chỉ tính trong khu vực kinh doanh (gồm các DNNN, khu vực DN tư
nhân và cư dân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài), đầu tư của khu vực KTTN
chiếm tới 53% - 56,3% tổng đầu tư của khu vực này trong giai đoạn 2010-2018
và cho thấy xu hướng tăng lên theo thời gian (khu vực DN nhà nước chiếm
khoảng 9% - 16%; khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 30% 38% trong cùng giai đoạn. Dự báo đến năm 2020, tỷ trọng của khu vực tư nhân
chiếm khoảng 60% tổng vốn đầu tư của khu vực kinh doanh. Khu vực KTTN có
tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư ổn định nhất trong 3 khu vực trong giai đoạn
2011- 2018, dao động từ 7,14% - 18,86% (trung bình đạt 13,2%/năm) và được
dự báo tiếp tục tăng ở mức trên 16% trong năm 2019 và 2020.
- Về tổng tài sản trong kinh doanh: Khu vực DN tư nhân có tỷ trọng tổng
tài sản cao nhất (dao động từ 48,2% đến 53,5% trong tổng tài sản của khu vực
DN). Khu vực này tạo ra doanh thu lớn nhất trong 3 khu vực (dao động ở mức
50,8% - 56,8%). Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của khu vực DN của tư nhân
trong giai đoạn 2010- 2017 dao động trong khoảng 1,83 - 2,3 lần, thấp hơn mức
trung bình của toàn bộ khu vực DN (bằng khoảng từ 54,4% - 74% so với khu
vực DNNN và khoảng 108% - 148% khu vực DN có vốn đầu tư nước ngồi). Tỷ
lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của DN khu vực tư nhân duy trì mức ổn định trong
giai đoạn 2010-2015 và có xu hướng tăng trong 2 năm (2016 và 2017).
- Hoạt động kinh doanh của KTTN, đặc biệt là khu vực DN tư nhân có cải
thiện đáng kể. Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của khu vực tư nhân trong giai đoạn
2011-2017 dao động từ 0,86- 1,86%, trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu của khu vực này trong cùng giai đoạn dao động ở mức 2,63% - 5,5%.
- Về năng suất lao động, thu nhập của người lao động: Mặc dù, năng suất
của khu vực DN tư nhân xét ở thước đo doanh thu bình quân một lao động là
13
thấp nhất, song nếu xét năng suất lao động theo thước đo giá trị gia tăng bình
quân một lao động tạo ra trong một năm, khu vực DN tư nhân có mức năng suất
cao nhất từ năm 2014 và cho thấy xu hướng tăng liên tục trong cả giai đoạn
2010-2017. Trong khi đó, năng suất của khu vực DN có vốn đầu tư nước ngồi
có xu hướng giảm trong giai đoạn 2010-2016. Khu vực kinh tế cá thể có mức
năng suất lao động thấp nhất trong cả ba khu vực và có xu hướng tăng trong giai
đoạn 2010- 2016. Thu nhập bình quân lao động khu vực DN tư nhân thấp nhất
trong 3 khu vực, ở mức từ 3,4 – 7,4 triệu đồng/người/tháng trong giai đoạn
2010-2017, bằng khoảng 49%- 65,5% so với lao động trong khu vực DNNN và
73%- 83% so với lao động trong DN thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, nếu xét về tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân thì lao động khu
vực DN ngồi nhà nước có mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2017 cao
nhất, đạt tỷ lệ 16,5% so với mức 16,1% của khu vực DN có vốn đầu tư nước
ngồi và 11,7% của khu vực DNNN.
Nhìn chung, kể từ khi Nghị quyết số 10-NQ/ TW của Hội nghị Trung ương
5 (khóa XII) được ban hành, Chính phủ và các bộ, ngành đã nỗ lực vào cuộc để
thực hiện mục tiêu mang đến sự bứt phá toàn diện cho khu vực KTTN. Bên cạnh
những kết quả đạt được, phát triển KTTN vẫn cịn tồn tại nhiều khó khăn và
thách thức, cụ thể như:
- Đóng góp của KTTN vào tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm
năng và kỳ vọng. Tỷ trọng của KTTN trong GDP ít thay đổi trong 10 năm qua.
Mục tiêu đóng góp khoảng 50% GDP vào năm 2020 gặp nhiều thách thức.
- Quy mơ bình quân các đơn vị KTTN trong nước còn nhỏ, chủ yếu là kinh
tế cá thể đóng góp tới 30% GDP, các DN tư nhân chỉ đóng góp khoảng 9% GDP.
- Năng suất lao động xã hội của khu vực KTTN thấp hơn mức bình quân
của nền kinh tế.
- Năng lực tài chính, trình độ cơng nghệ và hiệu quả kinh doanh của KTTN
chưa cao; chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh chưa nổi bật; khả năng tham
gia chuỗi giá trị và mạng sản xuất khu vực và toàn cầu cịn hạn chế, chủ yếu tập
trung ở các cơng đoạn có giá trị gia tăng thấp.
14
III.Giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân đến năm 2035
3.1.Nguyên nhân
Kinh tế tư nhân đang ngày càng phát triển và vai trị là khơng thể phủ nhận
tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân đang có xu hướng giảm, từ
11,93%/năm (2003-2010) xuống 7,54%/năm (2011-2015). Kinh tế tư nhân chưa
đáp ứng được vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế. Trình độ quản trị,
năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm, cạnh tranh yếu; khả năng liên kết và
tham gia chuỗi giá trị cịn nhiều hạn chế; tình trạng gian lận thương mại, cạnh
tranh không lành mạnh… vẫn phổ biến. Nguyên nhân là do:
Thứ nhất, môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn
thiện, nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và
chồng chéo. Điều kiện thủ tục hành chính, thủ tục tiếp cận đất đai, thị trường tin
dụng, cơ hội đầu tư rườm rà, cản trở khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Chi phí
kinh doanh, chi phí vận tải (logistics, tiền lương, bảo hiểm…) cao. Lãi suất vay
cao khoảng 7-9% trong khi Trung Quốc là 4,3%, Malaysia 4,6%, Hàn Quốc 23%. Với hơn 4.000 các điều kiện kinh doanh (trong đó nhiều quy định khơng
theo thơng lệ quốc tế) đặt ra các rào cản không phù hợp đối với sự phát triển của
kinh tế tư nhân. Trong khi có thể cắt giảm càng sớm càng tốt đến hơn 50% các
điều kiện không hợp lý này. Điều mà các doanh nghiệp tư nhân cần không phải
là sự hỗ trợ, ưu đãi ưu tiên đặc biệt mà là hệ thống pháp luật về kinh doanh minh
bạch, công bằng và lành mạnh, hệ thống thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện
và sớm đi vào thực tiễn.
Thứ hai, chính sách thuế quá nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân
cịn bị đối xử thiếu cơng bằng. Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến doanh
nghiệp nhà nước mà chưa đề cập đến doanh nghiệp tư nhân. Lợi được hưởng từ
những chính sách thường ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước. Những quan
điểm đánh giá về doanh nghiệp tư nhân chưa khách quan, gây khó khăn, cản trở
hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân. Ngồi những khó khăn về thể chế
kinh tế, bộ máy hành chính chưa hiệu quả, thủ tục hành chính thiếu minh bạch
15
và cơ chế trách nhiệm giải trình. Nhiều doanh nghiệp phải trả các chi phí “khơng
chính thức” để giải quyết công việc… Những bất cập này càng khiến cho khu
vực kinh tế tư nhân đã nhỏ lại kém phát triển. Vì vậy, để kinh tế tư nhân có điều
kiện phát triển mạnh mẽ, cần tập trung giải quyết vấn đề bình đẳng thật sự giữa
các chủ thể kinh doanh, giữa kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Thiết
lập chế độ ưu đãi thuế cho đối tượng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba, thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở ngại
lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Việc giải quyết những rào cản về thủ tục
hành chính là bắt buộc, nhưng để doanh nghiệp có thể phát triển thì vấn đề “thị
trường”, vấn đề đầu ra, vấn đề hình thành nơi trao đổi bn bán, hình thành trục
liên kết,... sẽ giúp các doanh nghiệp phát triển đột phá. Để doanh nghiệp tư nhân
là động lực phát triển kinh tế cần thúc đẩy hoàn thiện thể chế thị trường đầy đủ.
Bởi thị trường là cơ hội tiếp cận kinh doanh, cơ hội tiếp cận đất đai, tiếp cận
thơng tin, chính sách, quy hoạch,...; là sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ với
các tập đoàn lớn để tiêu thụ sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị,...
Thứ tư, vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Hiệu quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước để phát triển kinh tế tư nhân chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là hạ tầng giao
thông và nguồn nhân lực. Thiếu vốn luôn là vấn đề thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp tư nhân khi không có tài sản thế chấp để vay vốn hoặc tài sản thế
chấp không minh bạch, đang tranh chấp; thiếu dự án khả thi. Bởi vậy, Nhà nước
cần tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận vay vốn ngân hàng, huy
động vốn trên thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp và sử
dụng các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý.
3.2.Những kỳ vọng mới
Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của KTTN trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, một số mục tiêu tiếp tục đặt ra đối với phát triển khu vực
kinh tế ở nước ta trong thời gian tới như sau:
16
- Phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 1,5 triệu DN và năm 2035 là khoảng 2
triệu DN hoạt động có hiệu quả.
- Tốc độ tăng trưởng của KTTN cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền
kinh tế. Đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP khoảng
55%, đến năm 2035 khoảng 60 - 65%.
- Bình quân trong giai đoạn 2020- 2025, năng suất lao động tăng khoảng 4
- 5%/năm. Đến năm 2035, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, năng
lực cạnh tranh của DN và tỷ lệ tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực
và toàn cầu được nâng lên ngang bằng với các nước dẫn đầu trong khối ASEAN
(ASEAN-4).
- Trong giai đoạn 2021- 2035, DN tư nhân có mức tăng trưởng bình qn
số lao động khoảng 6- 8%; tăng trưởng bình quân thu nhập của người lao động
đạt khoảng 25 - 30% và tăng trưởng bình quân mức đóng góp vào NSNN đạt
khoảng 25%/năm.
3.3.Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp (năm
2020), hơn 1,5 triệu doanh nghiệp (năm 2025) và có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp
(năm 2035). Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư
nhân vào GDP để đạt khoảng 50% GDP (năm 2020), khoảng 55% GDP (năm
2025) và 60 - 65% GDP (năm 2035). Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo
điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
-Thứ nhất, tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân. Cần có sự thống
nhất nhận thức trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế tư nhân. Xây dựng cơ chế, chính sách định hướng sự phát triển của
kinh tế tư nhân; hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về kinh tế tư nhân.
Sửa đổi một số cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách
đầu tư, tín dụng, chính sách về mặt bằng sản xuất, chính sách thuế, chính sách
đào tạo, tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội... Phát huy thế mạnh và tiềm
17
năng to lớn của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với
khắc phục có hiệu quả những mặt trái, những tiêu cực phát sinh trong quá trình
phát triển kinh tế tư nhân.
-Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển
kinh tế tư nhân. Nhà nước cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt lạm
phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng
trưởng. Tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân vào hoạt
động kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường. Khơng biến các chính sách hỗ trợ
phát triển kinh tế tư nhân thành chính sách bao cấp, phục vụ "lợi ích nhóm" dưới
mọi hình thức. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho
kinh tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ cơng, tham gia vào q trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội
nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế. Tạo
điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực từng bước tham gia
sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
-Thứ ba, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ
và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích, hỗ
trợ kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Chuyển
giao công nghệ tiên tiến. Bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng
chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt
động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa cơng nghệ. Đẩy mạnh thực hiện chiến
lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng
đủ nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng
cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. Phát triển
đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường. Chú trọng đào tạo,
18
bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chun mơn cao, kỹ
năng quản lý hiện đại, đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm cao.
-Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Cần xây dựng khung pháp lý
tạo điều kiện thuận lợi hơn, bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân phát
triển. Nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật,
chính sách, tạo mơi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư
nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng. Tăng cường hiệu quả công tác
giám sát, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương các cấp
đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát
triển kinh tế tư nhân. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, không
làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đơn giản
hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính thành lập doanh nghiệp,
đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, giải quyết tranh chấp,… Tăng cường cơ chế
đối thoại có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhằm
nắm bắt và xử lý kịp thời các vướng mắc liên quan đến phát triển kinh tế tư
nhân.
-Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nâng cao vai trò
của các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước tiếp tục hồn thiện thể chế, chính
sách đối với doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
doanh nghiệp tư nhân phát triển. Mạnh dạn giao cho các doanh nghiệp tư nhân
có đầy đủ điều kiện đảm nhiệm các lĩnh vực quan trọng của Nhà nước. Chỉ nên
giữ lại các doanh nghiệp nhà nước mang tính chủ đạo. Kinh tế tư nhân không chỉ
là quan trọng mà là đầu kéo quan trọng để phát triển kinh tế. Phát huy vai trị
của các tổ chức chính trị - xã hội trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu
quả hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tích cực phối hợp với các
cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh
doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho doanh nghiệp tư nhân.
19
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển
kinh tế tư nhân là một nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng
trưởng GDP cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào
giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm
nghèo, phát triển nguồn nhân lực,… Trong bối cảnh ngân sách nhà nước gặp khó
khăn, cùng với đó là xu hướng suy giảm của dịng vốn ngoại... thì những chính
sách khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư là rất cần thiết.
Nền kinh tế Việt Nam hiện có nhiều trụ cột trong các ngành khơng phải là
doanh nghiệp nhà nước mà do doanh nghiệp tư nhân chi phối và đa phần làm ăn
hiệu quả. Một nền kinh tế muốn chuyển sang sáng tạo thì buộc phải đạt hiệu quả
cao với nhiều giá trị gia tăng, trong đó vai trị của kinh tế tư nhân thậm chí cịn
mang tính quyết định. Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế năng động ở Đông
Á. Nếu biết phát huy đầy đủ sức mạnh và khả năng sáng tạo của khu vực tư
nhân, thì kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển.
20
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân
2. Hội thảo “Khát vọng Việt Nam 2035: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân
năng động và yêu cầu hiện đại hóa thể chế" tổ chức ngày 15-6-2017, tại thành
phố Đà Nẵng
3. />4. />
22