Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.28 KB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN DU LỊCH

BÀI THẢO LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bộ mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Ngơ Huyền Trang.
Lớp HP: 2099HCMI0111.
Nhóm nghiên cứu đề tài: Nhóm 9


Mục lục
A.Đề tài chính.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên
tắc, phương pháp
đại đoàn kết dân tộc.
Phần 1.Phần mở
đầu…………………………………………………………..3
Phần 2.Phần nội dung…………………………………………………………
4
I.Cơ sở lý luận.Tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
1. Nguyên tắc đại đồn kết tồn dân
tộc……………………………………………….4
2.Vai trị khối đại đồn kết tồn dân
tộc……………………………………………….8
3.Lực lượng để xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc………………………………….10
4.Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc…………………………………..12
5.Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại đồn kết
dân


tộc……………………………………………………………………………………..13
II.Vận dụng lí thuyết của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
tồn dân tộc.
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngun tắc, phương pháp Đại Đồn Kết trong
giai đoạn
hiện nay……………………………………………………………………………….14
2.Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân-mặt trận dân tộc
thống
nhất……………………………………………………………………………………19
3. Phương pháp phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc…………………………...22


Phần 3.Tổng kết………………………………………………………………25
B.Đề tài phụ: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì q
độ lên Chủ
Nghĩa xã hội ở Việt Nam.


A. Đề tài: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc,
phương pháp đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

I.Phần mở đầu:
“ Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước”. Từ thực tiễn lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định đoàn
kết là một trong các truyền thống quý báu của dân tộc ta đã được hun
đúc trên nền tảng lòng yêu nước nồng nàn của các thế hệ người Việt

Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết là một hệ thống quan điểm,
nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng
nhằm đoàn kết rộng rãi các giai tầng trong xã hội, phát huy đến mức cao
nhất sức mạnh của dân tộc của quốc tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết trong tiến trình lãnh đạo cách mạng
với những câu khẩu hiệu nổi tiếng như:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Và ở trong thời kì hịa bình lặp lại, thì Đảng ta vẫn thường xuyên phát
động những phong trào như “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, “uống nước nhớ nguồn”, ngày thương binh liệt sĩ 27/7,...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết toàn dân tộc là sự kế thừa
truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đại đồn
kết của Hồ Chí Minh là chiến lược nhất quán và xuyên suốt để tập hợp lực
lượng cách mạng và là nhân tố quyết định sự thành công. Truyền thống
yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc chính là cơ sở
quan trọng hình thành tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh. Tư tưởng
đó của Người được ví như một ngọn đuốc đang rừng rực cháy lên ngọn


lửa hồng để thắp sáng, soi đường cho cách mạng Việt Nam. Là một vũ
khí tối thượng giúp cho cách mạng Việt Nam có được thành cơng vang
dội, đánh bại mọi kẻ thù hung bạo.
Tư tưởng đó của Người được ví như một ngọn đuốc đang rừng rực cháy
lên ngọn lửa hồng để thắp sáng, soi đường cho cách mạng Việt Nam. Là
một vũ khí tối thượng giúp cho cách mạng Việt Nam có được thành cơng
vang dội, đánh bại mọi kẻ thù hung bạo. Đồng thời, tư tưởng Hồ Chí Minh

về đại đồn kết tồn dân tộc cũng giống như một lời nhắc nhở, giáo dục
cho các thế hệ sau về vai trị, ý thức trách nhiệm của mình đối với nền
độc lập. hịa bình của dân tộc và dựng xây đất nước. Để cùng nhau
hướng tới xây dựng một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.

Phần nội dung
I/ Cơ sở lý luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương
pháp đại đoàn kết toàn dân tộc.
1, Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngun tắc đại đồn kết tồn dân
tộc.
a, Tin vào dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
- Trong bài “Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên- Việt tồn
quốc tháng 1/1955”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”. Đó là nền
gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây.
Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân
khác”. Vì vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên
tắc lấy lập trường giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa các mối quan
hệ giai cấp-dân tộc. Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, “tin vào dân,
dựa vào dân, vì lợi ích của dân” để đồn kết toàn dân, phát động các
phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản xuất và chiến


đấu, bởi vì: “ Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của
nhân dân”.
- Theo Hồ Chí Minh dân ở đây là mọi người Việt Nam yêu nước, là “mọi
công dân nước Việt”, là “mỗi một người con rồng, cháu tiên”, không phân

biệt già trẻ gái trai, giàu nghèo “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón
dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau nên bàn tay. Trong mấy triệu người, có
người thế nầy, thế khác, nhưng thế nầy hay thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con
Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tình nhân ái mà cảm hóa họ. Có
như thế mới thành đại đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chặt chẽ, vẻ
vang”.
- Yêu dân, tin dân, dựa vào dân là nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong tư
duy và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Nguyên tắc này đã được
Người khái quát một cách sâu sắc “ Trong xã hội khơng có tốt đẹp, vẻ
vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Nguyên tắc tin dân, dựa
vào dân, phấn đấu vì dân thể hiện ở những nội dung sau:
 Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết.
 Dân là chủ thể của đại đồn kết.
 Dân là sức mạnh vơ tận và vơ địch của khổi đại đoàn kết, quyết
định thắng lợi của Cách mạng.
 Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản, của hệ thống chính
trị cách mạnh, với lịng bao la, lịng tin vơ hạn đối với dân tộc, nhân
dân. Người đã khơi dậy ở mỗi con người khả năng tiềm tàng của họ,
thức tỉnh con người tự giác đứng lên đấu tranh cho sự nghiệp chính
nghĩa của giai cấp, quốc gia, dân tộc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
nhận xét sâu sắc rằng: “ Trong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi lực lượng của nhân dân, của
dân tộc là lực lượng quyết định mọi thắng lợi Cách mạng. Chiến
lược của Người là đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc”.


b, Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi

ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản lâu dài của dân
tộc.
- Xây dựng khối đại đoàn kết sẽ tuỳ thuộc vào việc giải quyết đúng đắn
các quan hệ giữa: tập thể và cá nhân, gia đình và xã hội, bộ phận và toàn
thể, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Ở Hồ Chí Minh, để xây dựng
khối đại đồn kết cần tìm kiếm những yếu tố tương đồng, đồng nhất,
khắc phục, thậm chí chấp nhận những yếu tố khác biệt nhưng khơng có
hại, khơng đi ngược lại lợi ích chung để cùng nhau hành động theo
phương châm:“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Để có thể được sống,
được tự do và mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng khơng ai
có thể xâm phạm được, mỗi con người lại phải sống gắn bó với xã hội,
sống trong lịng quốc gia, dân tộc. Vì vậy, quyền con người phải dựa trên
cơ sở các quyền của dân tộc .
- “Khơng có gì q hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh, là sức mạnh lơi cuốn mọi người, là nguồn gốc, ý chí
chiến đấu, là mục tiêu nóng bỏng của người và của cả dân tộc, nhưng
độc lập dân tộc phải gắn liến với tự do hạnh phúc của nhân dân. Người
vẫn thường nói : “ Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, mục tiêu đôc lập dân
tộc và hạnh phúc cho nhân dân là tiêu chí sức mạnh, niềm tin và quyết
tam thu hút, phát huy cao độ lực lượng của cả nước. Muốn giải quyết tốt
các mối quan hệ lợi ích, trước hết phải giải quyết mối quan hệ cốt lõi giữa
dân tộc và giai cấp.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần giải quyết hài hịa lợi ích giữa các giai
cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các vùng miền
khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt. Mẫu số
chung để đại đồn kết tồn dân tộc là: hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ, tự do, giàu mạnh.



c, Lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm nền tảng, tập hợp
rộng rãi mọi tổ chức và cá nhân yêu nước trong Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
- Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức khoa học, đại đoàn kết không
phải là tập họp lực lượng xã hội một cách ngẫu nhiên, tự phát, lỏng lẻo
mà phải là sự tập họp bền vững của các lực lượng xã hội có tổ chức, có
định hướng, có lãnh đạo. Đây chính là nguyên tắc cốt lõi để phân biệt tư
tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh với tư tưởng tập họp lực lượng của các
nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và môt số lãnh tục
Cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Ở Hồ Chí Minh, đại đồn kết được
xây dựng khơng chỉ là tình cảm mà được xây dựng trên cơ sở khoa học.
- Người đến và tin theo chủ nghĩa Mác Lênin, bởi Người thấy ở học thuyết
ấy cái cần thiết, cái cẩm nang thần kỳ đối với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Chủ nghĩa Mác Lênin đã giúp Người nhận thức được vai trị, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân, biến sức mạnh tự phát của quần chúng
thành sức mạnh tự giác trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người. Vì vậy, Đại đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là đại đồn kết theo lập trường vô sản, theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác
Lênin. Lực lượng Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tất cả
các giai tầng xã hội, các ngành giới, các lứa tuổi, dân tộc tôn giáo nhưng
không phải là một tập hợp hỗn độn, lỏng lẻo mà phải tập hợp thành mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Xương sống, sức mạnh chủ yếu của
khối đại đồn kết dân tộc là khối liên minh cơng – nơng – trí thức. Vì vậy,
liên minh cơng- nơng- trí thức là nền tảng, là cơ sở để đồn kết toàn dân
trong mặt trân dân tộc thống nhất. Nhưng nếu tách biệt hoặc nhấn mạnh
một chiều vai trò mặt trận hay liên minh cơng – nơng – trí thức sẽ khơng
đúng với bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
- Đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc nhưng theo Hồ Chí Minh,
Đảng phải là người lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân.
Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là tuyên truyền giáo dục để quần chúng

giác ngộ sự cần thiết phải đồn kết lại. Đảng phải tìm ra những hình


thức, phương pháp tổ chức thích hợp để thu hút, tập hợp rộng rãi nhất
lực lượng yêu nước tiến bộ trong quần chúng. Đảng phải hướng dẫn khối
đại đoàn kết toàn dân đấu tranh và lao động sáng tạo thực hiện những
mục tiêu phù hợp với lợi ích của dân tộc và ngun vọng chính đáng của
nhân dân. Vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc nên
trước hết Đảng phải chăm lo đến việc tăng cường đồn kết trong Đảng
“… phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “để làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công
nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân
dân. Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và
đưa đến thắng lợi cuối cùng.
d, Thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích nhân loại, kết hợp chặt
chẽ phương châm tự lực tự cường với mở rộng, hợp tác quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
-Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng ngừng kêu gọi đồn kết giữa các dân tộc bị
áp bức, giữa nhân dân thuộc địa với phong trào công nhân thế giới. Và
trên thực tế Người đã lập ra “Hội Liên hiệp thuộc địa” tham gia Quốc tế
cộng sản. Người đã chỉ ra những nét chung giữa các dân tộc thuộc địa “
Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ : sự bạo ngược của chế độ
thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung : giải phóng đồng
bào và giành độc lập cho tổ quốc chúng ta”. Từ tư tưởng đại đồn kết của
Hồ Chí Minh đã thúc đẩy hình thành được Mặt trận nhân dân thế giới,
đồn kết với nhân dân Việt Nam, góp phần đưa cuộc đấu tranh vì độc lập
tự do đến thắng lợi hồn tồn.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: tự lực, tự cường và đồn kết hợp tác
quốc tế có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại phải dựa vào sức mình là chính. Do đó, trong suốt
q trình cách mạng Việt Nam, Người luôn quán triệt tinh thần “ đem sức
ta mà tự giải phóng cho ta”, triệt để thực hiện phương châm “tự lực cánh
sinh là chính”. Khẳng định vai trò của sức mạnh dân tộc trong việc tạo


nên thế và lực cho cách mạng, đồng thời Người cũng cho rằng sức mạnh
thời đại, khối đại đoàn kết quốc tế cũng sẽ làm cho thế và lực của cách
mạng mỗi nước tăng lên.
+ Theo Người “sức mình” ở đây chính là sức mạnh của dân tộc, sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, là nguồn nội lực, là cái gốc, điểm
mấu chốt để đảm bảo nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài đạt kết quả.
+ Trong mối quan hệ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ
Chí Minh coi sức mạnh của thời đại là nhân tố quan trọng, sức mạnh của
dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Sức mạnh của
dân tộc là động lực lớn đã khiểm nghiệm qua thực tiễn được Người khẳng
định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Trong tư duy
Hồ Chí Minh để tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, trước hết phải chủ
động tạo ra sức mạnh của chính mình. Sức mạnh đó khơng phải ở đâu xa
lạ, mà nằm ngay trong sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức
mạnh của cộng đồng người Việt yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn
năm lịch sử.
2, Vai trị của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
a, Đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
quyết định thành công của Cách mạng.
- Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế
quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người, nếu chỉ có tinh thần u nước thì chưa đủ; cách mạng
muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi
lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền

vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt
tiến trình cách mạng. Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết
toàn dân, cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối
tượng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu
cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp có thể
và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau,


đồn kết dân tộc phải ln ln được nhận thức là vấn đề sống còn,
quyết định thành bại của cách mạng. Chính sách mặt trận của Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để thực hiện đồn kết dân tộc. Nhờ tư
tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng đắn. Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng khối đại đồn kết dân tộc, đưa cách
mạng Việt Nam dành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đồn
kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa”.
 Từ thực tiễn, như vậy, Hồ Chí Minh đã khái qt thành nhiều luận điểm
có tính chân lý về vai trị của khối đại đồn kết:
 Đồn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh
luận điểm này. Người viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta.
Đồn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó
khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao
phó”; “Đồn kết là một lực lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục
khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là
thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
 “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này
mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đồn kết”.
b, Đại đồn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, của dân tộc.

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết là sức
mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải
được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán
triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới
hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng
Lao Động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên
bố trước tồn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể
gồm trong 8 chữ là: Đồn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện
mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm
nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần


chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của
cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
- Đại đồn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề
này là nhấn mạnh tới vai trị của thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng
muốn thành cơng nếu chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở
của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm
vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi
kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính
là khối đại đồn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên
truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì
nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy
việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thơi. Bây giờ mục đích của tun truyền huấn luyện
là: Một là đoàn kết, hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội, ba là đấu tranh
thống nhất nước nhà".

- Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng, đại đồn kết dân tộc khơng phải chỉ là mục
tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng.
Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới
tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đồn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng
sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển
những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành
những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đồn kết,
tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
3, Lực lượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
a, Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


- Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm
tồn thể nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp,
các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc,
đồng bào các tôn giáo, các đảng phái,...Đứng trên lập trường giai cấp
công nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề DÂN
và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, tồn diện, có sức thuyết phục, thu phục
lịng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Hồ Chí Minh
thường dùng khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "mỗi một
người con Rồng cháu Tiên", không phân biệt dân tộc đa số hay thiếu số,
có tín ngưỡng hay khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt "già, trẻ, gái, trai,
giàu nghèo, quý tiện". Như vậy dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là
một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả
quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại
đoàn kết dân tộc thực chất là đại đồn kết tồn dân.
- Nói đại đồn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi

người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội
hàm khái niệm đại đồn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
nó bao gồm nhiều tầng lớp, nhiều cấp độ các quan hệ nên kết quả lại
giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân lộc từ nhỏ
đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới.. Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nói: " Đồn kết của ta khơng những rộng rãi mà cịn
đồn kết lâu dài... Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc, ta còn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn
kết với họ. Từ "Ta" ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói
trên, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.
- Người cịn chỉ rõ, trong q trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa
mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, khơng được phép bỏ
sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lịng trung thành và sẵn


sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi
của dân chúng là được. Với tinh thần đồn kết rộng rãi như vậy. Hồ Chí
Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tới
cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b, Nền tảng của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
- Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là tồn dân
trong đó lấy liên minh giữa giai cấp cơng nhân và giai cấp nơng dân trí
thức làm nền tảng. Đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích tối cao
của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, kết
hợp hài hịa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai
cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người bổ
sung thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa cơng
nhân, nơng dân và trí thức: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trị quan trọng và
vẻ vang, và cơng- nơng-trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
 Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự kết hợp hài hòa, quyện chặt
và nhất quán giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết dân tộc
trên cơ sở lấy liên minh công- nông- binh làm gốc, không một lúc nào
quên đi lợi ích giai cấp.
-Theo Người, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được phát huy
khi tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cả dân tộc hay tồn dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn,
trở thành lực lượng vô địch khi được tổ chức thành một khối chặt chẽ,
được giác ngộ sâu sắc về mục tiêu lý tưởng, được định hướng bởi một
đường lối chính trị đúng đắn, nếu khơng thì dù quần chúng nhân dân có
số đơng tới hàng triệu người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh,


rời rạc. Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ
Chí Minh đã rất lưu ý tới công tác tập hợp quần chúng, đưa họ vào những
tổ chức yêu nước phù hợp với đặc điểm của từng giới, lứa tuổi, giai cấp,
tôn giáo...Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh chủ yếu của khối đại
đoàn kết là khối liên minh cơng – nơng - trí làm nền tảng, Người nói: “Lực
lượng chủ yếu trong khối đồn kết dân tộc là cơng- nơng- trí, cho nên liên
minh cơng- nơng- trí là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”.
4, Điều kiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
a, Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của
dân tộc.

- Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình
thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước
hàng ngàn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua các thế hệ từ thời các Vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Truyền thống đó là cội nguồn sức
mạnh vơ địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch
họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
b, Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có
những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của
cách mạng, cần phải có lòng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần
thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi
mọi lực lượng. Người viết: “Sông to, biển rộng bao nhiêu nước cũng chứa
được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút
nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng
như cái chén, cái đĩa cạn”. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có
ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón cùng thuộc về một bàn tay, để
nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Người cho rằng: “Trong
mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế


khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên phải khoan hồng, đại độ. Ta
phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình
nhân ái để cảm hóa họ. Có như thế mới thành đồn kết, có đại đồn kết
tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
- Lịng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh khơng phải là một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền

thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách
mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán được
thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối với những người làm
việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người
tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng
ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai
có lịng u nước, khơng phân biệt tầng lớp. tín ngưỡng, chính kiến và
trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cũng nhau đồn kết vì nước, vì
dân. Để thực hiện được đồn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần
phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng,
trong mỗi con người Việt Nam “Ai cũng có ít hay nhiều tấm lịng u nước
tiềm ẩn bên trong”. Tấm lịng u nước đó có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ
cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lịng u nước đó lại bộc lộ. Với
niềm tin vào sự hướng thiện của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc.
Hồ Chí Minh đã chân thành lơi kéo, tập hợp được chung quanh mình
nhiều người trước đây vốn là quan đại thần của Nam triều cũ, như:
Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại. Vào khối đại
đoàn kết tồn dân, tạo điều kiện để họ có đóng góp vào sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc của dân tộc.
c, Phải có niềm tin vào nhân dân.
- Để thực hành đồn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ
Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc
của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối


truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và làm lật
thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý Mácxít
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Theo Người, dân là chỗ dựa
vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vơ địch của khối đại

đồn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nềngốc và chủ thể của
Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt
toàn quốc, tháng 1/1955. Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết là
phải đoàm kết đại đa số nhân dân. mà đại đa số nhân dân ta là công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nề, gốc
của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có
nền vững, gốc tốt, cịn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
5, Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại
đoàn kết dân tộc.
- Lý luận gắn liền với thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá
trình kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và thực
tiễn cách mạng từng thời kỳ. Hồ Chí Minh vạch rõ lý luận khơng được áp
dụng vào thực tiễn là lý luận suông, đồng thời thực tiễn khơng có lý luận
soi sáng là thực tiến mù quáng.
- Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý
những vấn đề sau đây:
+ Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
+ Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương
đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành
phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai.
+ Ba là, bảo đảm cơng bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết
hợp hài hòa các lợi ích cá nhân- tập thể- tồn xã hội; thực hiện dân chủ


gắn với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; khơng

ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc,
thống nhất tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó
là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết
dân tộc.
+ Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều
biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

II/ Vận dụng thực tiễn: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết dân tộc trong giai
đoạn hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngun tắc, phương pháp đại đồn
kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
a, Tin vào dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
- Khẳng định vai trị của quần chúng nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng, Nhà nước và mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm giác ngộ,
tập hợp, đoàn kết nhân dân lại rồi dẫn đường cho họ đi vào hoạt động
cách mạng, nhằm đem lại lợi ích thiết thực nhất cho dân. Người khẳng
định “Đảng ta là một Đảng cầm quyền...phải xứng đáng là người đầy tớ
trung thành của Nhân dân”. Theo Người, ngồi lợi ích của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động Đảng ta khơng cịn lợi ích nào khác. Mục đích
của Đảng là phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, không được tự tách ra
khỏi dân, không được đặt mình cao hơn dân. Người dạy cán bộ, đảng viên
“Từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Có gần gũi, hịa cùng nhân
dân thì mới hiểu được dân, đồng cảm với dân, nắm được tâm tư tình cảm
của dân...Hòa cùng Nhân dân còn để giác ngộ, lãnh đạo Nhân dân thúc
đẩy xã hội phát triển theo chiều hướng có lợi cho nhân dân. Đánh giá
đúng vai trị của quần chúng nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực,



vừa là bí quyết thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta.
- Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng
vì Nhân dân, vì con người. Dựa vào dân, tin vào lực lượng, trí tuệ của
Nhân dân, chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của Nhân dân là tạo
nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhân
dân. Đó chính là nền tảng của cơng cuộc đổi mới và phát triển mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện. Người đã
tổng kết: “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tồn dân cần đoàn kết lâu
dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”. Một trong những động lực
thúc đẩy nhân dân tăng cường đồn kết trong tình hình hiện này là
quyền làm chủ của nhân dân phải được tôn trọng. Pháp luật và các cơ
quan thi hành pháp luật phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ,
thật sự làm chủ đất nước như Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung) đã quy định .
- Trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ
của Nhân dân nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh to lớn
của lực lượng đông đảo này. Thực tế cho thấy: “Chỉ có phát huy sức mạnh
làm chủ của Nhân dân mới có thể chống tiêu cực, chống suy thối, chống
tham nhũng có hiệu quả, nhằm củng cố Đảng, làm trong sạch bộ máy
Nhà nước, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội”. Những kì tích của ông cha
ta trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như những
thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong những giai đoạn cách mạng
trước đây đều xuất phát từ đường lối “ lấy dân làm gốc”. Trong giai đoạn
cách mạng mới, bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị. Song, vấn đề không
phải chỉ nêu lên khẩu hiệu “ lấy dân làm gốc”, hay thực hiện nó một cách
hời hợt, hình thức, thiếu triệt để; điều quan trọng nhất là phải biến tư
tưởng đó trở thành hiện thực, nó phải được thể hiện một cách sinh động,
nhất quán trong hành động thực tiễn hàng ngày, hàng giờ của mỗi cán

bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là “người đầy tớ thật
trung thành của Nhân dân”, phải tôn trọng nhân dân, vừa lãnh đạo, vừa
phát huy quyền làm chủ của nhân dân; vừa giáo dục, vừa không ngừng


học hỏi nhân dân, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ; phải sống
chan hòa với nhân dân; quan tâm đến đời sống của nhân dân, biết chia
sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng nhân dân, phải xây dựng cho mình tác phong,
thái độ và hành động đúng với vị trí, vai trị của mình, xứng đáng là người
mà Nhân dân đặt trọn niềm tin cũng như giao phó trách nhiệm. Có như
vậy, chắc chắn chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ,
tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước hiện
thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn.
b, Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi
ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản lâu dài của dân
tộc.
- Quán triệt sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán trong hành
động của từng cán bộ, đảng viên quan điểm mấu chốt: Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là chủ,
nhân dân làm chủ; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải
quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm
mỗi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ
hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Nhiệm vụ bao trùm,
xuyên suốt của tất cả các cấp, các ngành là tập hợp, động viên được mọi
tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta ở nước ngồi khơng
ngừng đồn kết, nỗ lực tham gia xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước.
- Tiếp tục thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” thành những chính sách, quy chế, quy định cụ thể để nhân dân

phát huy quyền làm chủ trên thực tế và thực hiện tốt trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
- Xây dựng cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức để nhân dân được
phát huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát triển
tài năng, sức sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh làm giàu chính
đáng, mang lại lợi ích cho mình và cho đất nước


- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “gần dân, hiểu dân, học
dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công
việc, nói đi đơi với làm, thực sự là cơng bộc của nhân dân.
- Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong bộ máy công quyền
trên cơ sở làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi coi thường
và làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, xử lý nghiêm
minh theo quy định của pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước.
+ Chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của
các thế lực thù địch, phản động chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc
hòng chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước.
+ Thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các
khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân,
nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đất đai,
môi trường...; xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải
quyết ổn định những vụ việc khiếu kiện đông người, không để kéo dài,
phức tạp.
c, Lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm nền tảng, tập hợp
rộng rãi mọi tổ chức và cá nhân yêu nước trong Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
- Để đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng

thật sự là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, cần làm cho cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên,
trước hết là các cấp ủy đảng và người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và mặt trận dân tộc đề
xướng. Phải nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những định
hướng về phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc trong giai đoạn hiện
nay. Đó là lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc ta ngày nay là độc
lập, tự do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội. Lợi ích


đó thể hiện cụ thể hằng ngày trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng. Củng cố tăng cường đồn kết hiện nay
khơng thể chung chung mà phải gắn chặt với việc bảo đảm các lợi ích đó.
Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng cường đồn kết trong
tình hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước của nhân dân cần được tôn
trọng. Pháp luật phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự
làm chủ như Hiến pháp đã quy định.
+ Các cấp ủy Đảng và người đứng đầu tăng cường lãnh đạo, kiểm tra,
giám sát, đôn đốc việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về phát huy sức mạnh
đại đoàn kết tồn dân tộc, về cơng tác dân vận, cơng tác mặt trận và các
đoàn thể. Đưa nội dung lãnh đạo các công tác này thành một trong
những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức
Đảng các cấp.
- Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và của tồn dân. Do đó, qua hoạt
động của mình, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội cần không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để góp phần làm cho

mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ln ln bền chặt, ý Đảng
và lịng dân là một. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và quyết định
đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và
phản biện xã hội, để các chủ trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng
lợi ích của nhân dân.
d, Thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích nhân loại, kết hợp chặt
chẽ phương châm tự lực tự cường với mở rộng, hợp tác quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại .
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại đã được Đảng ta tổng kết thành một bài học kinh nghiệm trong lịch


sử, là quy luật giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
phải nhận rõ vai trò, tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Thực
tiễn quá trình vận động và biến đổi của cách mạng nước ta hơn nửa thế
kỷ qua cho thấy: ở giai đoạn cách mạng nào, thời kỳ nào tư tưởng kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Hồ Chí Minh được qn triệt
và vận dụng đúng thì cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được
thắng lợi, ngược lại thời kỳ, giai đoạn cách mạng nào, xa rời tư tưởng đó,
thì cách mạng bị trở ngại và tổn thất. Vì vậy, việc nhận thức, quán triệt
đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong tình hình hiện nay có một ý nghĩa quan trọng.
- Để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, Hồ Chí Minh luôn
xác định phải phát huy sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của khối đại
đồn kết tồn dân là chính, nhưng biết tranh thủ sự giúp đỡ toàn diện từ
bên ngồi. Tư tưởng đó đã được thực tiễn lịch sử Việt Nam khẳng định,

chứng minh là đúng và cần được vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trước bối cảnh thế giới và khu
vực hiện nay.
- Phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực đó là yêu cầu khách quan để đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đến thắng
lợi. Sức mạnh của dân tộc trong điều kiện mới đó là sức mạnh của vật
chất và tinh thần do nhân dân ta tạo dựng nên trong quá trình tồn tại và
phát triển. Sức mạnh của dân tộc được thể hiện cả trong hiện thực và khả
năng tiềm tàng; sức mạnh của con người và trí tuệ Việt Nam; sức mạnh
của sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại... Sức mạnh của thời đại
được biểu hiện qua những nét đặc trưng nổi bật là: Sự tồn tại vận động
những mâu thuẫn cơ bản của thời đại trong điều kiện mới vẫn khơng làm
thay đổi tính chất nội dung của thời đại, loài người vẫn ở trong thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; phong trào đấu tranh
cho hồ bình, hữu nghị, độc lập dân tộc... vẫn không ngừng phát triển; xu


thế tồn cầu hố, quốc tế hố, xã hội hố mọi mặt của đời sống xã hội
không ngừng phát triển; cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ
đang tiếp tục diễn ra như vũ bão; nền kinh tế trí thức đang không ngừng
được mở rộng
- Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, vai trò quyết
định của sức mạnh nội lực được biểu hiện không chỉ bảo đảm cho sự bền
vững của Tổ quốc mà còn tạo điều kiện tranh thủ kết hợp tốt nhất sức
mạnh của ngoại lực, hạn chế những khó khăn, nhân lên những thuận lợi
do xu thế chung của thời đại tạo ra. Khẳng định rõ mối quan hệ giữa sức
mạnh của nội lực và sức mạnh của ngoại lực, Hội nghị lần thứ Tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã khẳng định: “Khơi dậy và phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế” để đẩy nhanh
công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Nội

lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn
lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Đại hội X của Đảng xác định "Phát
huy cao độ nội lực đồng thời ra sức khai thác ngoại lực". Đó là quan điểm
nhất quán của Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực trước tình
hình mới hiện nay.
2, Hình thức tổ chức của khối đại đồn kết toàn dân- Mặt trận
dân tộc thống nhất.
a, Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức
mạnh khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó là Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ
chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, cả trong
nước và kiều bào sinh sống ở nước ngồi. Hồ Chí Minh rất chú trọng đến
việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp
như các hội ái hữu hay tương trợ, cơng hội hay nơng hội, đồn thanh niên
hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay phụ lão, hội Phật giáo cứu
quốc, Cơng giáo u nước,...trong đó bao trùm là Mặt trận dân tộc thống
nhất.


- Tùy theo từng thời kỳ và căn cứ vào nhiệm vụ của từng chặng đường
cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau
như: Hội phản đế đồng minh (1930); Mặt trân dân chủ (1936); Mặt trận
nhân dân phản đế (1939); Mặt trận Việt Minh (1941); Mặt trận Liên Việt
(1951),...Tuy nhiên, thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị- xã hội
rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng
phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngồi nước, phấn đấu vì
mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc
của nhân dân.
b, Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống

nhất.
* Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân- nơng
dân- trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận Dân tộc thống nhất được xây dựng trên nền tảng liên minh
công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có thêm lao động trí thức)
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng
lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung, đề
cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
- Sau khi đất nước thống nhất, ngày 31/1/1977, ba tổ chức Mặt trận
thống nhất lấy tên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bước vào thời kỳ đổi mới,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên Nhân dân cả nước đoàn kết
phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và đã giành được thắng
lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới, nâng cao vị thế của đất
nước trên trường quốc tế, đưa đất nước bước vào thời kỳ hội nhập và
phát triển, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Trong 30
năm qua, thực hiện sự nghiệp đổi mới thông qua phong trào thi đua yêu
nước; đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở; cuộc vận động Ngày vì người nghèo... tình đồn kết gắn bó giữa giai
cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, các tầng lớp Nhân
dân, các dân tộc, tơn giáo... ngày càng gắn bó. Sự đồng thuận xã hội


×