ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ DUNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC
TÔN GIÁO VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
Ở ĐỒNG NAI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hồ Chí Minh học
HÀ NỘI – 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ DUNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC
TÔN GIÁO VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
Ở ĐỒNG NAI HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Quang Hưng
HÀ NỘI – 2013
1
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mở đầu
3
1. Tính cấp thiết của đề tài.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
11
6. Đóng góp của luận văn.
12
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
12
8. Kết cấu của luận văn.
12
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về công tác tôn giáo.
13
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm tôn giáo.
1.1.2. Khái niệm hoạt động tôn giáo.
1.1.3. Khái niệm công tác tôn giáo.
1.1.4. Khái niệm chính sách tôn giáo.
13
13
17
18
19
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
1.2.1. Công tác tôn giáo phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân.
1.2.2. Công tác tôn giáo phải đoàn kết được đồng bào lương
giáo và đoàn kết giữa các tôn giáo.
1.2.3. Công tác tôn giáo phải giải quyết hợp lí mối quan hệ giữa
tôn giáo với dân tộc, giữa đức tin với lòng yêu nước.
19
20
25
35
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo.
40
2
Chương 2: Thực hiện chính sách tôn giáo ở Đồng Nai từ năm 2010
đến nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
52
2.1. Đặc điểm tôn giáo tỉnh Đồng Nai.
52
2.2. Thực trạng hoạt động tôn giáo ở Đồng Nai từ năm 2010 đến nay.
54
2.3. Thực trạng công tác tôn giáo ở Đồng Nai từ năm 2010 đến nay.
69
2.4. Đánh giá chung.
2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân đạt được.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế.
81
81
84
2.5. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn
giáo ở Đồng Nai trong những năm tới dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
86
Kết luận.
95
Danh mục tài liệu tham khảo.
97
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp
với công cuộc xây dựng xã hội mới. Trong giai đoạn hiện nay, tín ngưỡng, tôn
giáo không chỉ có ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội mà còn có liên quan chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc
đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Nhận thức rõ điều đó, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và
nhất quán thực hiện chính sách “ tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết ”.
Chính sách đúng đắn của Người đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết
toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập tự do hoàn toàn cho đất nước.
Tiếp nối tư tưởng “ tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết ” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và
thực hiện được nhiều chính sách đúng đắn về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo,
như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI về
" Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới "; Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
Công tác tôn giáo; Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/06/2004
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số
22/2005/NĐ-CP ngày 01/03/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày
04/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về Một số công tác với đạo Tin Lành;
Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về nhà,
đất có liên quan đến tôn giáo
4
Những văn bản trên đã thể hiện những bước tiến rất quan trọng trong
nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; thể hiện
sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đảm bảo về mặt
pháp luật quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; tạo điều kiện thuận
lợi cho đồng bào các tôn giáo thỏa mãn nhu cầu tâm linh của mình; tạo hành
lang pháp lý cơ bản cho các ngành, các cấp giải quyết đúng đắn các vấn đề
tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội Điều này đã
làm cho công tác tôn giáo ở nước ta trong những năm qua đạt được những
kết quả hết sức khả quan: Các tổ chức tôn giáo đã xây dựng được đường
hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật; Các tôn giáo được Nhà nước
công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong
khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần
vào công cuộc đổi mới đất nước; Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng
góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Các ngành, các cấp
đã chủ động, tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở
các vùng đồng bào tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại
những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động chống phá
Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, hoạt động tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua còn có
những diễn biến phức tạp cần phải tập trung giải quyết: Một số người chưa
tuân thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép, còn lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, thương mại hóa hoạt động này; Việc
khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở
một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp; Việc giải quyết các vấn đề có
liên quan đến tôn giáo ở các địa phương chưa đồng bộ: có nơi thì tỏ ra quá
khắt khe, có nơi thì chủ quan nóng vội giản đơn, có nơi lại hữu khuynh thụ
5
động hoặc buông lỏng quản lý; Một số nơi ( nhất là ở các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam bộ ) một số người đã lợi dụng tôn giáo để kích động tín đồ
tiến hành những hoạt động gây rối, chống phá Đảng và Nhà nước ta làm tiềm
ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân
Còn tồn tại những diễn biến phức tạp trên là do: Các quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo chậm được thể chế
hóa; Công tác tôn giáo chậm đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động,
trong khi các thế lực thù địch ráo riết tranh thủ, giành giật, lôi kéo quần chúng
tín đồ, chức sắc tôn giáo; Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận
thức đúng đắn, chưa quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trương và chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước; Bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống
chính trị chưa xác định rõ được mô hình, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ
chế phối hợp, thiếu sự quan tâm đầu tư bảo đảm các điều kiện hoạt động; Đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo còn thiếu về số lượng, còn hạn chế về chất
lượng, chưa được đào tạo kịp thời và chưa được thường xuyên bồi dưỡng để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nên còn gặp nhiều khó khăn, lúng
túng trong việc tuyên truyền, giáo dục, tập hợp tín đồ, chức sắc tôn giáo và
ứng xử với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra trên địa bàn.
Đồng Nai là một tỉnh công nghiệp, nằm trong khu kinh tế trọng điểm
phía Nam. Ở đây có nhiều tôn giáo lớn cùng tồn tại, như: Công giáo, Phật
giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Phật giáo Hòa hảo,
Tứ ân Hiếu nghĩa Bên cạnh đó, Đồng Nai còn là tỉnh có số lượng tín đồ tôn
giáo đông nhất nước: hơn 1,3 triệu tín đồ - chiếm khoảng 60% dân số toàn
tỉnh. Trong bối cảnh đó, vấn đề tôn giáo ở Đồng Nai trong những năm qua đã
có những diễn biến phức tạp, thậm chí có lúc đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng
tới trật tự, an toàn xã hội và đời sống của nhân dân trong tỉnh.
6
Đứng trước tình hình trên, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác tôn giáo để góp phần hạn chế, ngăn chặn và giải quyết có hiệu quả vấn đề
này nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tôn giáo ở Việt Nam nói chung và ở
tỉnh Đồng Nai nói riêng đã trở thành vấn đề cấp bách. Do đó, tác giả chọn đề
tài: " Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo vào việc thực
hiện chính sách tôn giáo ở Đồng Nai hiện nay " làm chủ đề nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Tôn giáo là một vấn đề được nhiều người nghiên cứu trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn. Vì thế, trong những năm qua, ở nước ta và trên thế
giới đã có nhiều công trình, nhiều bài viết về tôn giáo, ảnh hưởng của tôn giáo
đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và công tác tôn giáo. Trong phạm vi
luận văn này, có thể nêu ra một số công trình và tác phẩm tiêu biểu sau đây:
Bộ môn khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo - Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, “ Trích tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin về
tôn giáo ”, do Bộ môn khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo thuộc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh sưu tầm và tuyển chọn từ các trước tác của
C. Mác, Ph. Ăng ghen và VI. Lê nin. Nội dung cuốn sách gồm 4 phần:
Nguồn gốc bản chất của tôn giáo; Vai trò chính trị - xã hội của tôn giáo; Quan
hệ giữa các hình thái ý thức - xã hội khác với tôn giáo; Chủ nghĩa Mác - Lê
nin đối với tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
Trung tâm khoa học về tín ngưỡng tôn giáo – Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, “ Trích tác phẩm của C. Mác – Ph. Ăng ghen, VI. Lê nin và
Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo ”. Cuốn sách được tuyển chọn ngắn gọn, dễ
hiểu từ những đoạn trích, những câu nói tiêu biểu, xúc tích của C. Mác, Ph.
Ăng ghen, VI. Lê nin và Hồ Chí Minh về bản chất, nguồn gốc, tính chất và
7
vai trò của tôn giáo, cũng như những luận điểm có tính nguyên tắc và phương
pháp trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Đây là tập tài liệu tham khảo, chủ
yếu phục vụ cho đối tượng là những cán bộ lãnh đạo và quản lý đang công tác
tại các địa phương không có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề tôn giáo.
Hồ Chí Minh, “ Về công tác tôn giáo ”. Cuốn sách giới thiệu các bài nói,
bài viết, các bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, do Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia sưu tầm và tuyển chọn từ bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập.
GS.TS Lê Hữu Nghĩa và PGS.TS Nguyễn Đức Lữ, “ Tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo ”. Cuốn sách giới thiệu những bài viết
tham gia hội thảo “ Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và công tác tôn giáo ”, do Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh tổ chức nhân dịp kỷ niệm 112 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Những bài viết trong cuốn sách được chia làm 2 phần: Hồ Chí Minh về
tôn giáo và Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo. Khi mới xuất bản, cuốn sách
đã góp phần tạo ra sự thống nhất về nhận thức tư tưởng và phương pháp giải
quyết vấn đề tôn giáo trong tình hình mới; phục vụ trực tiếp cho việc chuẩn
bị, nghiên cứu, triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo. Và cho đến nay cuốn sách
này vẫn là hành trang cần thiết cho những ai quan tâm nghiên cứu Tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, nhất là đối với đội ngũ cán bộ
đang làm công tác tôn giáo.
GS.TS Đỗ Quang Hưng, “ Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam,
lý luận và thực tiễn ”. Đây là công trình nghiên cứu có tính tổng hợp và toàn
diện nhất từ trước đến nay về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng. Nội
dung cuốn sách bao gồm: Bối cảnh quốc tế của vấn đề tôn giáo ở Việt Nam;
8
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; Quá trình nhận
thức, phát triển quan điểm, đường lối về tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, từng bước hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam Cuốn sách là
tài liệu tham khảo rất cần thiết đối với các nhà nghiên cứu và quản lý về công
tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.
PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ, “ Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở
Việt Nam ”. Tác phẩm đã giới thiệu: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo; Tình hình tôn giáo trên thế giới và
một số đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam; Chính sách và việc thực hiện chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay Cuốn sách là tài
liệu tham khảo hữu ích phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu và đáp ứng nhu
cầu nâng cao sự hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo cho người học và cho tất cả
những ai quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
TS. Hoàng Quốc Bảo, “ Quản lý xã hội về tôn giáo ”. Tác phẩm đã giới
thiệu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; Nguồn gốc ra đời, phát triển và tồn
tại của một số tôn giáo ở Việt Nam; Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của bộ máy làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị ở nước
ta; Các nguyên tắc, phương pháp, nội dung quản lý xã hội về tôn giáo ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay Cuốn sách đã được dùng làm tập bài giảng
trong chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cử nhân chính trị học,
chuyên ngành Quản lý hoạt động văn hóa – tư tưởng.
Ban Văn hóa Trung ương - Giáo hội Phật giáo Việt Nam, “ Chủ tịch Hồ
Chí Minh với Phật giáo ”. Cuốn sách đã tập hợp những bài viết xuất sắc của
các chức sắc Phật giáo, tăng ni Phật tử và các nhà nghiên cứu tôn giáo tại
Hội thảo “ Kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam ” do Ban
9
Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo tổ chức. Nội dung của cuốn sách
được trình bày theo các chủ đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh với Phật giáo; Chính
sách của Đảng, Nhà nước và Hồ Chủ tịch về Phật giáo; Hồ Chủ tịch với công
tác vận động tăng ni, tín đồ Phật giáo Đây là một cuốn sách hay, có giá trị
tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, học tập và tìm hiểu về
Tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực, đặc biệt là tư tưởng của Người về
tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
Trương Như Vương, “ Tìm hiểu quan niệm đạo đức trong kinh thánh ”.
Sách được Giám mục Nguyễn Văn Sang, Giám mục giáo phận Thái Bình và
GS.TS Đỗ Quang Hưng - nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo viết
lời giới thiệu. Đây là một tập chuyên khảo về quan niệm đạo đức - một trong
những nội dung tư tưởng rất cơ bản trong Kinh Thánh Kitô giáo. Công trình
còn như là một dấu chứng làm sáng tỏ một trong những nhận thức mới của
Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo đã được nêu trong Nghị quyết số 24-
NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI về " Tăng cường công tác
tôn giáo trong tình hình mới ": “ đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với
công cuộc xây dựng xã hội mới ”.
Ngoài những công trình và tác phẩm tiêu biểu kể trên, trong những năm
qua còn có nhiều công trình, nhiều bài viết khác về tôn giáo, ảnh hưởng của
tôn giáo đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và công tác tôn giáo như:
Trung tâm khoa học về tín ngưỡng, tôn giáo – Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, “ Lý luận khoa học về tôn giáo và chính sách đối với tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta ”.
Th.S. Dương Thanh Tân, TS. Nguyễn Văn Long, TS. Phẩm An Ninh,
“ Công tác tư tưởng chính trị trong phát hiện và xử lý các điểm nóng chính
trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, thực trạng và giải pháp ”.
10
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “ Tổng kết thực tiễn về xử lý
những điểm nóng chính trị - xã hội ”.
PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ, “ Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo
lớn ở Việt Nam ”, “ Nội dung cơ bản về tôn giáo trong Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng ” …
GS. TS. Đỗ Quang Hưng, “ Hiện tượng tôn giáo mới – mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn ”, “ Từ sự đổi mới nhận thức đến sự đổi mới về chính sách
tôn giáo ”, “ Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng ” …
ThS. Nguyễn Khắc Đức, “ Tư tưởng của V.I. Lê nin về phương pháp giải
quyết vấn đề tôn giáo trong CNXH ”, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 1/2012.
TS. Phạm Huy Thông, “ Quan điểm và ứng xử của Hồ Chí Minh với tôn
giáo ”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 / 2012.
Các công trình, tác phẩm trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của
tôn giáo và công tác tôn giáo. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình,
tác phẩm nào đề cập sâu vấn đề: “ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác tôn giáo vào việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Đồng Nai hiện nay ”.
Do đó, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ tiếp thu, kế thừa có chọn lọc
thành quả nghiên cứu của các công trình, tác phẩm liên quan đến luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
*. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo, phân tích và đánh giá
đúng thực trạng công tác tôn giáo ở Đồng Nai từ năm 2010 đến nay, luận văn
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở
Đồng Nai trong những năm tới.
11
*. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu một số khái niệm liên quan đến luận văn.
- Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
- Tìm hiểu quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo.
- Tìm hiểu đặc điểm tôn giáo ở tỉnh Đồng Nai. Phân tích và đánh giá
đúng thực trạng công tác tôn giáo ở Đồng Nai từ năm 2010 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn
giáo ở Đồng Nai trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*. Đối tượng nghiên cứu.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo vào việc thực hiện
chính sách tôn giáo ở Đồng Nai hiện nay.
*. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi lý luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
- Phạm vi không gian: Tỉnh Đồng Nai
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
*. Cơ sở lý luận.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về công tác tôn giáo.
*. Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng đồng bộ một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
phương pháp mô tả và giải thích, phương pháp định tính và định lượng,
12
phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh và đối chiếu
- Ngoài việc sử dụng đồng bộ các phương pháp trên, luận văn còn tham
khảo ý kiến của các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực tôn giáo và các cán bộ
đang trực tiếp làm công tác tôn giáo ở tỉnh Đồng Nai.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn.
Trên cơ sở phân tích và đánh giá đúng thực trạng công tác tôn giáo Đồng
Nai từ năm 2010 đến nay, luận văn xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở Đồng Nai trong những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Luận văn góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết: tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác tôn giáo và thực trạng công tác tôn giáo ở tỉnh Đồng Nai.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
chức năng trong hệ thống chính trị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và một số tỉnh, thành phố có điều
kiện tương tự như tỉnh Đồng Nai.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy chuyên đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo ở Trường
Chính trị tỉnh Đồng Nai và hệ thống các Trường Chính trị tỉnh, thành phố có
điều kiện tương tự như tỉnh Đồng Nai.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 02 chương, 08 tiết.
13
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC TA VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, lịch sử đã xuất hiện từ rất lâu trong xã
hội loài người: Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VI trước công nguyên,
Công giáo ra đời vào năm thứ nhất của Dương lịch Nhưng cho đến nay,
khái niệm tôn giáo vẫn đang có nhiều cách hiểu khác nhau.
Thuật ngữ " Tôn giáo " được người phương Tây sử dụng, nó được dịch
từ chữ la tinh " Religion ". Theo nghĩa hẹp, " Religion " nghĩa là mối liên hệ,
sự ràng buộc, sự trói buộc giữa cái biết và cái chưa biết, giữa cái thực và cái
hư, giữa con người và thế giới linh thiêng, giữa cái sống và cái chết
Năm 1871, E.B. Tylor đã đưa ra một định nghĩa tối thiểu cố gắng bao
quát được tất cả các hình thức tôn giáo. Theo đó, E.B. Tylor cho rằng: Tôn
giáo là mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình. Ông nói trong bất cứ sự
vật nào cũng có cái hữu hình và cái vô hình ( linh hồn, tinh linh ) mà cái vô
hình tác động chi phối đến cái hữu hình.
Năm 1912, E. Durkhiem thấy không phải bất kể cái hữu hình nào cũng
chứa đựng trong nó cái vô hình, mà từng nhóm người, từng tộc người, từng
dân tộc chọn lựa trong số vô vàn các sự vật xung quanh, rồi thấy vật gì có
liên quan đến bản thân, đến cộng đồng thì mới gán cho vật đó một yếu tố vô
hình, thiêng liêng, đó là các thực thể được nhân cách hóa mà người ta gọi là
thần thánh, linh hồn, ma quỉ Tất cả được coi như có phẩm cách và quyền
14
năng cao hơn các sự vật thế tục và đặc biệt là con người, vì con người tự nó
chẳng có gì thiêng cả. Theo đó, E. Durkhiem cho rằng: Quan hệ giữa cái
thiêng và cái tục là cốt lõi của tôn giáo.
Năm 1922, M. Weber - một nhà xã hội học và kinh tế học người Đức cho
rằng: Tôn giáo là quan hệ với những thế lực siêu nhiên
Còn C. Mác khi xây dựng học thuyết của mình đã khẳng định: " Tôn giáo
là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có
trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần, tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân ". [ 9, tr. 10 ]
Tiếp theo tư tưởng của C. Mác, trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, F. Ăng
ghen nhấn mạnh: " Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo -
vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế ". [ 9, tr. 10 ]
Như vậy, khi bàn về bản chất của tôn giáo, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định: Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức
xã hội mà còn là một hiện tượng xã hội ( thực thể xã hội ) có tính chất lịch sử.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một cách
sai lạc, hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan nhằm đền bù sự bất lực
của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội ( thực thể xã hội ) có tính chất lịch
sử, tôn giáo được sinh ra từ xã hội con người, do con người sáng tạo ra trong
một giai đoạn lịch sử nhất định.
Ở nước ta, từ xa xưa trong lịch sử, tôn giáo thường được gọi là " đạo "
như: đạo Phật, đạo Nho, đạo Giáo, đạo Thiên chúa, đạo Tin lành Hiện nay,
chúng ta đang thống nhất dùng thuật ngữ " Tôn giáo ".
15
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2012 ( Kỳ
Duyên - Đức Bổn - Đăng Khoa ): Tôn giáo: 1. Hình thái ý thức xã hội hình
thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh - Ví dụ: Nghiên cứu
về tôn giáo; 2. Các đạo nói riêng như: đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Tin lành,
đạo Cao đài, đạo Hồi Ví dụ: Ở nước ta có các tôn giáo khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, năm 2012
( Lê Ngọc Phan – Hoàng Hữu Phúc ): Tôn giáo là giáo lí của một tôn phái lấy
sự thờ kính một sức mạnh thiêng liêng.
Gần đây nhất, trong Pháp lệnh số 21/2004/PL – UBTVQH11 ngày
18/06/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Tín ngưỡng, tôn giáo, phần
giải thích từ ngữ, khái niệm tôn giáo vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, khi nói đến
một tôn giáo hoàn chỉnh thường có một số dấu hiệu cụ thể như:
- Giáo lí: Giáo lí là hệ thống lí luận về tôn giáo. Nó được coi là rường cột
của niềm tin, tín ngưỡng của một tôn giáo cụ thể. Nguồn gốc cơ bản của giáo
lí bao giờ cũng bắt đầu từ sự thừa nhận sức mạnh siêu tự nhiên và được gắn
với một biểu tượng thần thánh nhất định. Đây chính là sự gắn kết giữa sự
tưởng tượng phong phú của con người với những yếu tố thực tiễn như: các
quan hệ xã hội, các quan niệm của con người về những lĩnh vực mà họ đã trải
qua. Cùng với sự phát triển xã hội, giáo lí từ chỗ " vô hình " được chuyển
thành " hữu hình ". Tức là, được chuyển từ năng lực ghi lại, giữ lại trong đầu
óc con người đến việc được viết ra dưới dạng văn tự.
- Giáo luật: Giáo luật là những qui định, được biểu hiện thành hệ
thống những quan niệm nhằm định ra hành vi, chuẩn mực trong sinh hoạt
tôn giáo của các chức sắc và tín đồ. Giáo luật của tôn giáo bao giờ cũng
phản ánh những vấn đề có tính chất cấm đoán, ngăn cản và những qui
định mang tính chế tài.
16
- Giáo lễ: Giáo lễ là một bộ phận quan trọng của tôn giáo, bao gồm: nghi
thức, thủ tục, qui trình để thực hiện một hành vi tôn giáo. Mỗi tôn giáo khác
nhau thì cũng biểu hiện khác nhau trong nghi thức hành lễ và trang phục.
- Giáo hội: Giáo hội là thể chế của một tôn giáo, nó có vai trò như một
trung tâm về tổ chức, hướng dẫn các hoạt động tôn giáo với một cơ cấu những
người có chức sắc, có vị trí trong tôn giáo. Giáo hội được tổ chức chặt chẽ, có
mối quan hệ giữa các chức sắc với nhiệm vụ và bổn phận được qui định trong
giáo luật và giáo lễ. Đây cũng là tổ chức sở hữu và sử dụng những tài sản của
tôn giáo. Giáo hội là trung tâm truyền đạo, nên có nhiều lợi thế trong việc tập
hợp, lôi kéo tín đồ vào những công việc nhân danh tôn giáo và cả những công
việc ngoài mục đích tôn giáo.
*. Phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng: Tín ngưỡng là niềm tin của con
người vào những điều thiêng liêng vượt ra khỏi thế giới tự nhiên - Ví dụ: Thờ
ông bà tổ tiên; Thờ các vị anh hùng dân tộc ( là những người có công với
nước ); Thờ Mẫu; Thờ Thành Hoàng; Thờ Thiên; Thờ Ông địa; Thờ Thần
bếp Còn tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức
có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi. Như vậy, trong tôn giáo bao giờ cũng
có yếu tố tín ngưỡng, cũng có niềm tin vào một đấng siêu nhiên. Nhưng tín
ngưỡng không đồng nhất với tôn giáo. Trong giai đoạn đầu, nhân loại chỉ tồn
tại các tín ngưỡng ( như tín ngưỡng nguyên thủy ) mà chưa có tôn giáo. Khi
trí tuệ con người phát triển tới mức có khả năng xây dựng nên các biểu tượng
tôn giáo, xã hội phát triển tới mức xuất hiện đội ngũ làm công việc tôn giáo
chuyên nghiệp để cho ra đời các tổ chức tôn giáo, soạn thảo giáo lý, giáo luật,
lễ nghi thì tôn giáo mới xuất hiện.
*. Phân biệt giữa tôn giáo với mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là tin một
cách mù quáng vào những điều nhảm nhí gây tổn hại về sức khỏe, tài sản, tính
mạng và tổn phí về thời gian cho cá nhân, gia đình và xã hội - Ví dụ: Tin có
17
ma ám trong người rồi dùng roi dâu quất túi bụi vào người để đuổi ma đi dẫn
đến thiệt mạng; Vẽ bùa đốt lấy tro hòa nước uống để chữa bệnh; Tin vào việc
phán bảo số phận, xóc thẻ dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình Trong tôn
giáo cũng có niềm tin vào những điều không đúng, không khoa học, có tính
chất huyễn hoặc - gọi là niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo cũng chứa đựng
những yếu tố, những khả năng mê tín dị đoan có thể dẫn con người đến chỗ
mất lí trí, mê muội, hủy hoại tiền bạc, sức khỏe. Nhưng bên cạnh đó, niềm tin
tôn giáo còn bao gồm cả mặt tích cực đó là tin vào những giá trị tốt đẹp như
chân, thiện, mỹ và tôn giáo còn có chức năng văn hóa, xã hội
1.1.2. Khái niệm hoạt động tôn giáo.
Theo điều 3 của Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18 tháng 06
năm 2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Tín ngưỡng, tôn giáo thì: Hoạt
động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lí, giáo luật, lễ nghi, quản lí tổ
chức của tôn giáo.
Chủ thể của hoạt động tôn giáo: Là các tín đồ, nhà tu hành, các chức sắc
và các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước ta công nhận
Đối tượng của hoạt động tôn giáo: Là việc truyền bá, thực hành giáo lí,
giáo luật, lễ nghi, quản lí tổ chức của tôn giáo.
Truyền bá giáo lí, giáo luật ( hay còn gọi là truyền đạo ) là việc tuyên
truyền những lí lẽ về niềm tin, về luật lệ của tôn giáo. Thông qua hoạt động
truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo
được tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa phải là tín đồ, hoạt động
truyền đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo thường
thông qua hoạt động truyền đạo để phát triển số lượng tín đồ.
Thực hành giáo luật, lễ nghi ( còn gọi là hành đạo ) là hoạt động của tín
đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn
đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ.
18
Hoạt động quản lí của của tôn giáo nhằm thực hiện qui định của giáo
luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật
tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động tôn giáo, việc phân định giữa hoạt động truyền đạo
với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong
hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo.
1.1.3. Khái niệm công tác tôn giáo.
Công tác tôn giáo là hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ
chức chính trị - xã hội có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo.
Chủ thể của công tác tôn giáo: Là toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta,
bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân: Công đoàn,
Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đối tượng của công tác tôn giáo: Là các tín đồ, nhà tu hành, các chức sắc
và các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước ta công nhận.
Giữa " hoạt động tôn giáo " và " công tác tôn giáo " có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau. Mối quan hệ này không hề đơn giản vì các " hoạt động
tôn giáo " vốn là lợi ích sống còn của các chủ thể tôn giáo, trong khi đó " công
tác tôn giáo " lại là vấn đề thuộc phạm trù quản lý nhà nước về tôn giáo.
Nếu sự tương tác giữa hai chủ thể " hoạt động tôn giáo " và " công tác
tôn giáo " diễn ra không thuận lợi hoặc không thể thống nhất được thì có thể
dẫn đến mâu thuẫn, xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy, để sự tương
tác giữa hai chủ thể " hoạt động tôn giáo " và " công tác tôn giáo " diễn ra
thuận lợi thì cần phải khai thác điểm tương đồng là: " giữ vững độc lập, thống
nhất của Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ".
19
1.1.4. Khái niệm chính sách tôn giáo.
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa: Chính
sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định dựa
vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra.
Trong thực tế, nhà nước, đảng phái, các tổ chức, các công ty đều là các
chủ thể của chính sách. Do đó, trong thực tế, có hai loại chính sách là: chính
sách tư và chính sách công.
Chính sách công là tổng thể các quan điểm tư tưởng, các quy định pháp
lý do Nhà nước đề ra, thể hiện thái độ, lập trường chính thức, lâu dài, nhất
quán của người cầm quyền; thông qua đó người cầm quyền định hướng, lãnh
đạo, quản lý các hoạt động xã hội nhằm đạt đến mục tiêu nhất định.
Vì thế, chúng ta có thể hiểu: Chính sách tôn giáo là tổng thể các quan
điểm tư tưởng, các quy định pháp lý có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo do
Nhà nước đề ra, thể hiện thái độ, lập trường chính thức, lâu dài, nhất quán của
người cầm quyền; thông qua đó người cầm quyền định hướng, lãnh đạo, quản
lý các hoạt động tôn giáo nhằm đạt đến mục tiêu nhất định.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
Tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không xem tín ngưỡng, tôn giáo là đối tượng
nghiên cứu chủ yếu của mình mà Người giải quyết, ứng xử với tôn giáo là
nhằm hướng tới mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với tầm trí tuệ
siêu việt và tấm lòng nhân ái, khoan dung, hết mực vì con người, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát hiện ra những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo; đã phát hiện ra sự tương đồng giữa người có đạo và người không có đạo,
sự tương đồng giữa các tôn giáo, sự tương đồng giữa ước vọng của các tôn
giáo chân chính với mục tiêu, lý tưởng của cách mạng, sự tương đồng giữa
đức tin của các tín đồ với đạo đức, niềm tin của người cộng sản Từ những
20
phát hiện đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và nhất quán thực hiện chính
sách “ tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết ”. Chính sách đúng đắn của
Người đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng
lợi, giành độc lập tự do hoàn toàn cho đất nước. Và ngày nay, trong công cuộc
đổi mới, chính sách “ tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết ” của Người đã
trở thành nền tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước ta đổi mới một cách sâu
sắc, toàn diện quan điểm, chính sách đối với tôn giáo và công tác tôn giáo.
Khi nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo,
chúng ta có thể nói đến những nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Công tác tôn giáo phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng tôn giáo là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh về tôn giáo. Tư tưởng đó được thể hiện nhất quán cả trong lí
luận và hoạt động thực tiễn của Người và đã trở thành một nguyên tắc nền
tảng, xuyên suốt trong chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Năm 1945, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường
Ba Đình, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
( 03/09/1945 ), Hồ Chủ Tịch đã đề nghị Chính phủ thực hiện 6 vấn đề, trong
đó vấn đề thứ 6 là: " Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng
bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên
bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết " [ 22, tr. 9 ].
Điểm 1, điều 7, Chính cương của Mặt trận Liên Việt có ghi: " Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của mọi người ".
Điều 8, Chính cương của Đảng lao động Việt Nam ghi nhận: " Tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân ".
21
Trong buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam, trước luận điệu xuyên
tạc của kẻ địch, Hồ Chủ Tịch thấy cần phải nói rõ để tránh sự hiểu lầm của tín
đồ các tôn giáo. Vì thế, trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt
Nam, Người phát biểu: " Chúng tôi xin nói thêm 2 điểm, nói rõ để tránh mọi
sự có thể hiểu lầm: Một là về vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam
hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người " [ 24, tr. 184 ].
Không chỉ thừa nhận người dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Hồ
Chí Minh còn chủ trương thực hiện có hiệu quả quyền tự do đó trong đời sống
hiện thực. Chính Người đã chỉ đạo, tham gia soạn thảo, ký ban hành nhiều
văn bản pháp luật quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi người dân. Các văn bản luật pháp ấy là sự xác nhận pháp lý mà nhờ đó
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực thi trong thực tế.
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ghi
rõ: Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng.
Khi nói về Hiến pháp năm 1946, Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: " Trong Hiến pháp ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự do.
Nếu ai làm sai Hiến pháp, khiêu khích công giáo thì sẽ bị phạt " [ 23, tr. 44 ].
Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, ngày 08/03/1955, một lần nữa Người
khẳng định chính sách nhất quán lâu dài của Đảng và Nhà nước: " Hiến pháp
đã ghi rõ chính sách tự do tín ngưỡng. Chính phủ nhất định làm đúng như
vậy. Phải vạch trần những luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc và bè lũ tay
sai hòng lừa dối, chia rẽ đồng bào như chúng thường nói Chính phủ cấm đạo
và nhiều điều vô lí khác " [ 1, tr.32 ].
Ngày 14/06/1955, Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn
giáo gồm 5 chương, 16 điều qui định rất cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. Điều 1 của Sắc lệnh đã ghi: " Chính phủ bảo đảm quyền tự
22
do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến
quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại
các cơ quan tôn giáo ( như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý ) ".
Từ những bài nói, bài viết và hoạt động thực tiễn nói trên của Hồ Chí
Minh chúng ta có thể khẳng định: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo là một nội dung quan trọng,
nhất quán, xuyên suốt trong quan điểm và chính sách đối với tôn giáo của Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đó của Người được bắt nguồn từ sự tôn trọng đức tin của
mỗi người. Người đã chỉ ra rằng, mặc dù thế giới quan của người cách mạng
khác với thế giới quan tôn giáo, song không vì vậy mà đối đầu, nghi kị nhau;
ngược lại phải tôn trọng đức tin của mỗi người. Hồ Chí Minh đã nói: " Tất cả
mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên
cứu chủ nghĩa Các Mác " [ 22, tr. 272 ]. Người còn nhấn mạnh: " Tín đồ Phật
giáo tin ở Phật; tín đồ Giatô tin ở đức Chúa trời; cũng như chúng ta tin ở đạo
Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng " [ 22, tr. 148 ].
Hồ Chí Minh là người mác-xít chân chính theo quan điểm duy vật,
nhưng với tư cách là Chủ tịch Đảng, người đứng đầu Chính phủ, hay với tư
cách là một công dân, Hồ Chí Minh luôn thể hiện là một con người mẫu mực
trong việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Hồ Chí
Minh chỉ phê phán mặt chính trị phản động, những kẻ lợi dụng tôn giáo chứ
không bao giờ xúc phạm đến niềm tin tôn giáo của ai. Không ai tìm được, dù
là một biểu hiện rất nhỏ, của sự bài xích, chế giễu với bất kì một tôn giáo nào.
Ngược lại, Hồ Chí Minh đã tiếp cận các tôn giáo như một di sản văn hóa của
loài người và tìm thấy ở đấy những mặt tích cực, những nhân tố hợp lí, những
giá trị nhân văn tốt đẹp để tiếp thu, kế thừa nhằm đem lại lợi ích cho cách
23
mạng, cho dân tộc. Chính điều này ở Người đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp
trong lòng tín đồ và các chức sắc tôn giáo. Xanhtơni - người không cùng quan
điểm với Hồ Chí Minh cũng phải thừa nhận: " Về phần tôi, phải nói rằng chưa
bao giờ tôi có cớ để nhận thấy nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một
dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi, hoặc chế giễu đối với một
tôn giáo nào bất kỳ " [ 11, tr. 27 ].
Theo Hồ Chí Minh: Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân phải đi đôi với việc kiên quyết lên án, trừng trị những kẻ lợi
dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Hơn ai hết,
Người phân biệt một cách rõ ràng giữa đức tin với hành vi, giữa tín đồ tu hành
chân chính với những kẻ giả danh tôn giáo, giữa việc hành đạo chân chính với
sự lợi dụng việc hành đạo để chống lại dân tộc
Khi đất nước còn đang chìm đắm trong đêm dài nô lệ, chiều 13/10/1923,
phát biểu tại phiên họp thứ 7 Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân, Hồ Chí
Minh đã tố cáo hành động lợi dụng tôn giáo của thực dân Pháp để xâm lược
nước ta: " Trong cuộc xâm chiếm Đông Dương thì chính những nhà truyền
đạo Thiên chúa đã đi do thám để báo cho quân đội chiếm đóng biết những kế
hoạch phòng thủ của nước chúng tôi. Cũng chính những nhà truyền đạo đã
dẫn đường những đội quân tấn công " [ 19, tr. 210 ]. Từ khẳng định: Kẻ xâm
lược và cha cố phản động là một, " ở đâu có nổi dậy, có khởi nghĩa thì ở đó
Cha cố biến thành mật thám, nhà thờ Chúa thành nơi tra khảo " và " người
nông dân An Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ
nghĩa vừa bằng cây thánh giá của Hội Thánh đĩ bợm " [ 19, tr. 229 ], Hồ Chí
Minh đã đi đến kết luận: " Nếu có dân tộc nào phải nhớ ơn Chúa và các giáo
sĩ, thì chính đó là dân tộc An Nam ! Vì Chúa và các giáo sĩ mà dân tộc này đã
sa vào tình cảnh nô lệ như ngày nay " [ 19, tr. 417 ].